Thực trạng thị trường ngoại hối Việt Nam và giải pháp để hoàn thiện thị trường này
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (782.85 KB, 30 trang )
Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật LỜI MỞ ĐẦU
T hị trường ngoại hối Việt Nam đã được hình thành và từng bước hồn thiện gắn liền với tiến trình đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nước. Trong hồn cảnh hội nhập hiện nay, ngoại hối và tỷ giá hối đối ln là vấn đề phức tạp và nhạy cảm, và khơng ít nền kinh tế đã trở nên khủng hoảng và chao đảo vì vấn đề này. Thực tế đã chứng minh, chính sách quản lý và điều hành tỷ giá hối đối ở nước ta trong thời gian qua đã đem lại nhiều kết quả tích cực và đóng góp một phần khơng nhỏ vào việc ổn định và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuyển đổi và phát triển như hiện nay, nhiều thuộc tính và đặc trưng mới của nền kinh tế đã xuất hiện nhưng chưa được định hình rõ ràng, cộng với những diễn biến trái chiều và phức tạp của nền kinh tế giới, nên việc quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đối trong quản lý vĩ mơ ở nước ta vẫn chưa nói là được giải quyết thỏa đáng, tương xứng với vị trí của nó trong hệ thống lý luận và thực tiễn. Chính vì thế, việc nghiên cứu về thị trường ngoại hối, chính sách điều hành tỷ giá hối đối và những tác động của chúng đến thị trường ngoại hối Việt Nam, nghiên cứu những chính sách tỷ giá của các nước trên thế giới, rút ra bài học kinh nghiệm để áp dụng cho Việt Nam là việc làm cần thiết. Nghiên cứu về vấn đề này là một u cầu cần đặt ra trong q trình phát triển mới của đất nước, đó là q trình hội nhập tồn diện vào nền kinh tế thế giới. Nhằm tìm hiểu rõ hơn về thực trạng thị trường ngoại hối, quản lý ngoại hối tại Việt Nam hiện nay, cũng như tác động của chính sách điều hành tỷ giá hối đối của Nhà nước ta đến thị trường này, nhóm chúng tơi đã chọn đề tai :Thực trạng thị trường ngoại hối Việt Nam và giải pháp để hồn thiện thị trường này Hiện nay, Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam đang đẩy mạnh cơng tác quản lý ngoại hối theo chiều tự do hóa hoạt động ngoại hối, phù hợp với thơng lệ quốc tế, tạo lập nhiều cơng cụ giao dịch ngoại hối cho các nhà đầu tư lựa chọn. Do đó dự kiến sẽ có
Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 1 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật nhiều văn bản mới về quản lý ngoại hối và tỷ giá sẽ được ban hành. Vì vậy, bài tiểu luận này lấy thời điểm năm 2008 đến nay để phân tích. Đồng thời hiện nay trên thị trường ngoại hối, việc giao dịch chủ yếu được thực hiện thơng qua USD và ảnh hưởng của đồng USD là rất lớn đối với mọi giao dịch hối đối của Việt Nam, chính vì thế, diễn biến tỷ giá chúng tơi đề cập trong bài là tỷ giá USD/VNĐ. PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI I- TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI: 1- Khái niệm: 1.1- Ngoại hối: - Ngoại hối là một khái niệm dùng để chỉ các phương tiện có giá trị dùng để thanh tốn giữa các quốc gia. Tùy theo quan niệm của luật quản lý ngoại hối của mỗi nước mà khái niệm ngoại hối có thể là khơng giống nhau. - Thành phần cơ bản của ngoại hối: Ngoại tệ (foreign currency): tiền của nước khác lưu thơng trong một nước. Ngoại tệ bao gồm: ngoại tệ tiền mặt và ngoại tệ tín dụng. Các phương tiện thanh tốn quốc tế được ghi bằng ngoại tệ: hối phiếu, lệnh phiếu, séc, thư chuyển tiền (mail transfer), điện chuyển tiền (telegraphic transfer), thẻ tín dụng (credit card), thư tín dụng ngân hàng (bank letter of credit), là những chứng từ chi trả phát sinh từ quan hệ tín dụng, thể hiện một số tiền nhất định, được lưu thơng dễ dàng từ người này sang người khác. Phần lớn các phương tiện thanh tốn này hình thành trên cơ sở của sự phát triển tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng. Các phương tiện này khơng có giá trị nội tại của nó, mà nó chỉ là dấu hiệu của tiền tệ. 1.2- Thị trường ngoại hối: Thị trường ngoại hối là thị trường giao dịch các loại ngọai tệ và các phương tiện thanh tóan có giá trị ngoại tệ, là một bộ phận quan trọng trong kết cấu thị trường tiền tệ.
Thị trường ngọai hối mang đặc trưng là tính quốc tế cao, hoạt động của nó đáp ứng những nhu cầu về thương mại, đầu tư ngắn hạn trên bình diện quốc tế, đặc biệt là tạo điều kiện can thiệp của NHTW nhằm đảm bảo sức mua đối ngoại của đồng tiền quốc gia. 2- Đặc điểm của thị trường ngoại hối: - Hoạt động liên tục suốt ngày đêm. - Thị trường ngoại hối mang tính chất quốc tế. - Tỷ giá hối đối được xác định trên cơ sở cung - cầu ngoại tệ. - Đồng Đơ la Mỹ được coi là đồng tiền phương tiện. Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 2 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật 3- Chức năng của thị trường ngoại hối: - Đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi ngoại tệ nhằm phục vụ cho q trình chu chuyển, thanh tốn trong các lĩnh vực thương mại và phi thương mại. - Cơng cụ để ngân hàng trung ương có thể thực hiện chính sách tiền tệ nhằm điều khiển nền kinh tế theo mục tiêu chính phủ. - Thị trường ngoại hối có chức năng tín dụng. - Cung cấp các cơng cụ cho các nhà kinh tế nghiên cứu để phòng ngừa rủi ro hối đối trong trao đổi ngoại tệ. Đồng thời giúp các nhà đầu cơ nghiên cứu thu được lợi nhuận nếu họ dự đốn được tỷ giá hối đối. 4- Các nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường ngoại hối: - Nghiệp vụ giao dịch ngoại hối giao ngay: Là nghiệp vụ mua hay bán ngoại tệ mà việc chuyển giao được thực hiện ngay lập tức hay là chậm nhất là sau 2 ngày kể từ khi thỏa thuận hợp đồng mua bán. - Nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch tỷ giá : Là nghiệp vụ dựa vào mức chênh lệch tỷ giá giữa các thị trường ngoại hối để thu lợi nhuận thơng qua hoạt động mua bán. - Nghiệp vụ giao dịch ngoại hối có kỳ hạn : Là nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận sẽ được thực hiện sau một thời gian nhất định theo tỷ giá thỏa thuận lúc
ký kết hợp đồng. - Nghiệp vụ hốn đổi: Là nghiệp vụ ngoại hối phối hợp giữa hai nghiệp vụ giao dịch ngoại hối giao ngay và giao dịch ngoại hối có kỳ hạn để kiếm lợi nhuận. - Nghiệp vụ ngoại hối giao sau: Là nghiệp vụ tiến hành một thỏa thuận mua bán một số lượng ngoại tệ đã biết theo tỷ giá cố định tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực,việc chuyển giao ngoại tệ được thực hiện vào một ngày trong tương lai. - Nghiệp vụ giao dịch ngoại hối quyền chọn: Là nghiệp vụ thực hiện trên cơ sở hợp đồng quyền chọn mua hay quyền chọn bán. Quyền chọn mua : cho phép người mua có quyền nhưng khơng bắt buộc mua một số lượng ngoại tệ nhất định. Quyền chọn bán : cho phép người bán có quyền nhưng khơng bắt buộc bán một số lượng ngoại tệ nhất định. Người mua quyền chọn có thể bán hoặc hủy hợp đồng nếu thấy khơng có lợi. Nhưng người bán quyền chọn phải thực hiện hợp đồng nếu như người mua u cầu. II- NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG KINH DOANH NGOẠI HỐI: 1- Tỷ giá hối đối (TGHĐ): 1.1- Khái niệm: Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về TGHĐ như: - Tỷ giá là giá cả của một đồng tiền được biểu hiện bằng một số lượng đơn vị của một đồng tiền khác. - Tỷ giá là số đơn vị nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ hay ngược lại. Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 3 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật - Tỷ giá phản ánh mối quan hệ về mặt giá trị giữa các đồng tiền khác nhau với nhau. 1.2- Vai trò của tỷ giá hối đối: Tỷ giá hối đối có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc đến quan hệ kinh tế đối ngoại, tình trạng cán cân thanh tốn, tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp. Điều chỉnh
tỷ giá theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu và cải thiện cán cân thanh tốn, thì trong nó lại chứa đựng nguy cơ lạm phát. Còn trong trường hợp cố định tỷ giá để kiềm chế lạm phát thì làm cho đồng tiền nội tệ lên giá q cao, có nguy cơ khơng khuyến khích xuất khẩu, mà trái lại khuyến khích nhập khẩu, làm cho cán cân thanh tốn bị thâm hụt, dự trữ ngoại tệ quốc gia giảm. Cho nên, việc xác định tỷ giá ở mức hợp lý theo từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế là cần thiết. 1.3- Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá: Hình 1: Tóm lược các yếu tố có thể tác động đến tỷ giá 4.1- Tỷ lệ lạm phát tương đối: Sự thay đổi trong tỷ lệ lạm phát tương đối có thể ảnh hưởng đến các hoạt động thương mại, đến lượt nó những hoạt động thương mại này tác động đến cầu tiền và cung tiền, và vì thế tác động đến tỷ giá hối đối. Khi lạm phát của Mỹ cao hơn một cách tương đối so với lạm phát Anh thì đồng Bảng Anh tăng giá. 4.2- Lãi suất tương đối: Thay đổi lãi suất tương đối tác động đần đầu tư chứng khốn nước ngồi, đến lượt đầu tư chứng khốn nước ngồi lại ảnh hưởng đến cung và cầu tiền và vì thế ảnh hưởng đến tỷ giá hối đối. Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 4 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật Khi lãi suất ở Mỹ cao hơn một cách tương đối so với lãi suất ở Anh thì đồng Bảng Anh giảm giá. 4.3- Thu nhập tương đối: Khi thu nhập quốc dân Mỹ tăng tương đối thì đồng bảng Anh tăng giá. 4.4- Can thiệp của Chính phủ: Chính phủ của nước ngồi có thể tác động đến tỷ giá cân bằng bằng nhiều cách khác nhau như: áp đặt những rào cản về ngoại hối, ắp đặt những rào cản về ngoại thương, can thiệp vào thị trường ngoại hối và tác động đến những biến động vĩ mơ như: lạm phát, lãi
suất và thu nhập quốc dân. 4.5- Kỳ vọng của thị trường: Giống như các thị trường tài chính khác, thị trường ngoại hối phản ứng lại với các thơng tin trong tương lai có liên quan đến tỷ giá. Ví dụ: tin về gia tăng lạm phát tiềm ẩn ở Mỹ có thể làm những nhà đầu tư cơ bán đơ la do dự kiến đồng đơ la sẽ giảm giá trong tương lai. Điều này gây áp lực giảm giá trị của đồng đơ la ngay lập tức. 2- Chính sách tỷ giá: Chính sách tỷ giá là các quan điểm, phương thức điều hành tỷ giá thơng qua các cơng cụ để tác động vào cung cầu ngoại tệ trên thị trường để điều chỉnh tỷ giá nhằm đạt tới những mục tiêu cần thiết. Về cơ bản chính sách tỷ giá tập trung vào hai vấn đề lớn là: vấn đề lựa chọn chế độ tỷ giá hối đối (cơ chế vận động của tỷ giá) và vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối đối. 2.1. Các hệ thống tỷ giá hối đối: 2.1.1- Hệ thống TGHĐ cố định: - Trong một hệ thống TGHĐ cố định, TGHĐ hoặc được giữ khơng đổi hoặc chỉ được cho phép dao động trong một phạm vi rất hẹp. - Nếu một TGHĐ dao động q nhiều, các chính phủ có thể can thiệp để duy trì TGHĐ trong vòng giới hạn của phạm vi này. 2.1.2- Hệ thống TGHĐ thả nổi tự do: Trong một hệ thống tỷ giá thả nổi tự do, tỷ giá sẽ được các lực thị trường ấn định mà khơng có sự can thiệp của chính phủ. Theo hệ thống này, các cơng ty đa quốc gia sẽ cần phải dành nhiều thời gian đáng kể cho việc tính tốn và quản lý các rủi ro dao động tỷ giá. Thuận lợi Bất lợi - Duy trì sự ổn định chung của thế giới - Giảm bớt áp lực cho Ngân hàng TW - Nâng cao hiệu quả của thị trường tài chính - Ngăn cản sự lây lan của các căn bệnh kinh tế Làm trầm trọng thêm các vấn đề kinh
tế của một quốc gia 2.1.3- Hệ thống TGHĐ hỗn hợp giữa cố định và thả nổi: Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 5 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật Trong thực tế, hầu như ít quốc gia nào áp dụng chế độ tỷ giá cố định hoặc thả nổi thuần t mà thay vào đó là một hệ thống tỷ giá kết hợp giữa thã nổi và cố định với những đặc trưng phù hợp với đặc điểm của từng quốc gia. Hệ thống tỷ giá một số quốc gia: HTTG chuẩn tiền tệ (currency board) HTTG cố định (fixed ex change) HTTG con rắn tiền tệ (crawling peg) HTTG thả nổi có quản lý (managed float) HTTG thả nổi tự do (freely floating) Achentina France - Euro Hungary Brazil Australia Bulgaria Germany-euro Indonesia Colombia Chile Estonia Malaysia Urugoay Croatia Iceland Hongkong China Czech Newziland
Lithuania Egypt Noway Euro Poland Jamaica Sweden Japan Switzerland Korea Lebanon Mexico Peru Singapore Thailand 2.2. Sự can thiệp của chính phủ trong hệ thống tỷ giá hối đối có quản lý: 2.2.1- Các lý do của việc can thiệp vào ngoại hối: Ba lý do chính để các Ngân hàng trung ương quản lý các tỷ giá hối đối là: - Làm dịu bớt các biến động tỷ giá hối đối - Thiếp lập các biên độ tỷ giá hối đối ẩn: Các Ngân hàng trung ương nỗ lực duy trì tỷ giá đồng nội tệ trong vòng các biên độ khơng chính thức, hay ẩn nhằm đảm bảo cho đồng nội tệ đạt một mức chuẩn nào đó. - Ứng phó với các xáo trộn tạm thời: Ngân hàng trung ương có thể can thiệp để cơ lập giá trị của một đồng tiền khỏi một xáo trộn tạm thời. 2.2.2- Sự can thiệp của Chính phủ trong hệ thống TGHĐ có quản lý: a- Can thiệp trực tiếp: Phương pháp can thiệp trực tiếp của Ngân hàng trung ương để buộc đồng nội tệ giảm giá là bán nội tệ ra thị trường, đổi đồng nội tệ lấy các ngoại tệ khác trong thị trường ngoại hối. Cụ thể là NHTW mua ngoại tệ khi cung > cầu (tỷ giá giảm). NHTW mua ngoại tệ dẫn đến kết quả như sau: Dự trữ ngoại hối nhà nước tăng Lượng tiền nội tệ cung ứng tăng (áp lực lạm phát) Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 6 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD
: TS. Diệp Gia Luật Hoạt động xuất khẩu được khuyến khích NHTW bán ngoại tệ khi cầu > cung (tỷ giá tăng cao), kết quả: Dự trữ ngoại hối nhà nước giảm Lượng tiền cung ứng giảm. - Can thiệp đạt mục tiêu: can thiệp đạt mục tiêu khi sự can thiệp của ngân hàng trung ương phát huy tác dụng hoặc thậm chí tác động mạnh đến thị trường theo những mục tiêu mà ngân hàng trung ương mong muốn, điển hình là thị trường Thái Lan. - Can thiệp khơng đạt mục tiêu: thì ngược lại khi những can thiệp của ngân hàng trung ương khơng phát huy tác dụng, điển hình thị trường Mỹ và Việt Nam. - Can thiệp khơng vơ hiệu hố: Ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường hối đối mà khơng điều chỉnh sự thay đổi trong mức cung tiền tệ. - Can thiệp vơ hiệu hố: Ngân hàng trung ương can thiệp bằng cách áp dụng đồng thời các giao dịch trong thị trường ngoại hối và các hoạt động trên thị trường mở. b- Can thiệp gián tiếp: Ngân hàng Trung ương có thể tác động đến giá trị đồng nội tệ một cách gián tiếp bằng cách tác động đến các yếu tố có ảnh hưởng đến đồng nội tệ. - Can thiệp gián tiếp thơng qua chính sách của Chính phủ: NHTW có thể cố gắng hạ thấp lãi suất nội tệ để làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngồi trong việc đầu tư vào chứng khốn trong nước, do đó tạo áp lực giảm giá đồng nội tệ. Chính sách chiết khấu: NHTW dùng cách thay đổi tỷ suất chiết khấu của NH mình để điều chỉnh TGHĐ trên thị trường. Quỹ dự trữ bình ổn hối đối: mục đích nhằm tạo ra một cách chủ động một lượng dự trữ ngoại hối để ứng phó với sự biến động của TGHĐ. Phá giá tiền tệ: Là sự đánh tụt sức mua của tiền tệ nước mình so với ngoại tệ. Nâng giá tiền tệ: Là việc nâng giá chính thức đơn vị tiền tệ nước mình so với ngoại tệ. - Can thiệp gián tiếp qua các hàng rào của Chính phủ:
Chính phủ cũng có thể tác động một cách gián tiếp đến các tỷ giá hối đối bằng cách áp đặt các hàng rào đối với tài chính và mậu dịch quốc tế. Tuy nhiên có thể gặp sự trả đũa lại bằng các hàng rào của nước khác. Thuế: Thí dụ, nếu chính phủ muốn tăng giá tiền đồng, họ có thể đánh thuế trên hàng nhập nhằm làm giảm nhập khẩu. Hành động này sẽ làm giảm nhu cầu của các nhà nhập khẩu đối với USD và tạo một áp lực tăng giá tiền đồng. Hạn ngạch. Thuế thu nhập: Chính phủ có thể giảm hay miễn thuế đánh trên bất cứ thu nhập nào do đầu tư của các nhà đầu tư nước ngồi. Biện pháp này sẽ gia tăng nhu cầu của nước ngồi đối với tiền đồng. Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 7 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật PHẦN II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM I- SỰ HÌNH THÀNH & PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM: Từ năm 1989, cơng cuộc đổi mới được đẩy mạnh hơn với chủ trương của Đảng và Nhà nước là phát triển một nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cơng cuộc đổi mới cũng được tiến hành đồng thời với việc phát triển kinh tế đối ngoại, mở cửa, hợp tác và hội nhập, phù hợp với xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế thế giới ngày càng mạnh mẽ. Nhằm bơi trơn và thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu thì việc hình thành và đưa vào hoạt động thị trường ngoại hối ở Việt Nam là cần thiết. Q trình hình thành và phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam có thể tóm tắt qua ba giai đoạn như sau: 1- Trước năm 1991: Đặc trưng của giai đoạn trước năm 1991 là Việt Nam phát triển kinh tế hướng nội, đóng cửa, các mối quan hệ với bên ngồi đều thơng qua hệ thống độc quyền của Nhà nước về ngoại thương và ngoại hối. Với cơ chế kinh tế như vậy, đã triệt tiêu mơi trường và mọi điều kiện để hình thành và phát triển các thị trường nói chung và thị trường
ngoại hối nói riêng. Trước u cầu đổi mới, ngày 26/03/1988, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 53/HĐBT về việc tách hệ thống ngân hàng Việt Nam từ một cấp thành hai cấp, bao gồm: Ngân hàng Nhà nước và hệ thống ngân hàng thương mại. NHNN là Ngân hàng Trung ương thực hiện chức năng quản lý vĩ mơ, ban hành chính sách tiền tệ, tín dụng và ngân hàng; hệ thống NHTM thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và tín dụng; trong đó, chỉ có duy nhất Ngân hàng Ngoại thương được phép hoạt động và kinh doanh ngoại hối, thanh tốn quốc tế và mở tài khoản ở nước ngồi; các ngân hàng khác chỉ được phép hoạt động trong nước. Như vậy, cho đến thời điểm sau khi có Nghị định 53/HĐBT thì một thị trường ngoại hối có tổ chức ở Việt Nam vẫn chưa được hình thành. Nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới của đất nước, góp phần mở rộng quan hệ kinh tế, chính trị và văn hóa với nước ngồi, ngày 18/10/1988, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 161/HĐBT về Điều lệ quản lý ngoại hối. Một trong những điểm mới về quản lý và kinh doanh ngoại hối theo tinh thần Nghị định 161 là: Nhà nước CHXHCN Việt Nam thơng qua NHNN thực hiện thống nhất quản lý Nhà nước về ngoại hối và kinh doanh ngoại hối. Mọi việc kinh doanh ngoại hối đều được thực hiện theo quy định của NHNN. NHNT là cơ quan được phép kinh doanh ngoại hối. Ngồi ra các ngân hàng chun doanh khác, các ngân hàng liên doanh với nước ngồi, các chi nhánh ngân hàng nước ngồi tại Việt Nam, các tổ chức kinh tế trong nước muốn kinh doanh ngoại hối hoặc dịch vụ thu ngoại tệ đều phải được NHNN Việt Nam cho phép. Như vậy, có thể nói lần đầu tiên ở Việt Nam thế độc quyền trong kinh doanh ngoại hối đã được dỡ bỏ. Từ nay, các NHTM nói chung muốn kinh doanh ngoại hối có thể làm thủ tục để NHNN Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 8 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật cấp phép. Đây được xem như sự khởi đầu tạo ra mơi trường và điều kiện cho hoạt động của thị trường ngoại hối có tổ chức, hình thành một sân chơi chứa đựng yếu tố cạnh tranh của thị trường. Trong thực tế, trước u cầu phát triển các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, NHNN đã lần lượt cấp phép kinh doanh ngoại hối, thanh tốn quốc tế cho
hầu hết các NHTM hoạt động ở Việt Nam. 2- Từ năm 1991 đến năm 1994: Cho dù có những bước chuyển biến, nhưng ở Việt Nam vẫn thiếu vắng một thị trường ngoại hối có tổ chức để chắp nối cung cầu ngoại tệ và tạo cơ sở xác định tỷ giá chính thức một cách khách quan, sát với quan hệ cung cầu trên thị trường, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngồi và thu hút nguồn lực ngoại tệ vào hệ thống mgân hàng. Đứng trước tình hình đó, Thống đốc NHNN đã ra Quyết định 107-NH/QĐ, ngày 16/08/1991 ban hành quy chế hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ; trên cơ sở đó, hai trung tâm giao dịch ngoại tệ đã được thành lập và đi vào hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Như vậy có thể nói, năm 1991 là năm đánh dấu mốc lịch sử về việc hình thành nền móng thị trường ngoại hối có tổ chức ở Việt Nam. Việc thành lập hai trung tâm nói trên là bước ngoặt đầu tiên của hệ thống ngân hàng trong q trình đổi mới thực sự theo hướng thị trường. Hai trung tâm này là tiền thân của thị trường ngoại hối Việt Nam ngày nay. Thơng qua hoạt động mua bán tại hai trung tâm, với vai trò là người có tổ chức và điều hành, NHNN đã kịp thời nắm bắt cung cầu ngoại tệ để điều hành chính sách tiền tệ cũng như tỷ giá phù hợp với tín hiệu thị trường và hướng nhu cầu ngoại tệ vào các mục tiêu thiết yếu của nền kinh tế. Từ khi hai trung tâm ra đời thì tỷ giá chính thức của VND được xác định có căn cứ vào tỷ giá đóng cửa tại các phiên giao dịch ở hai trung tâm, do đó tỷ giá đã phản ánh trung thực hơn về quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, rút ngắn được khoản cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do. Từ đây, có thể nói thị trường ngoại hối có tổ chức đã từng bước nắm vai trò chủ đạo, chi phối và khống chế được thị trường tự do. Trước nhu cầu phát triển một thị trường ngoại hối hồn chỉnh hơn ở Việt Nam, Thống đốc NHNN đã quyết định chấm dứt hoạt động của hai trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 01/12/1994 để nhường chỗ cho thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Qua thời gian hoạt động từ ngày 16/08/1991 đến ngày 01/12/1994, hoạt động của hai trung tâm giao dịch ngoại tệ đã phát huy tích cực trong việc điều hồ cung cầu ngoại tệ, tạo ra phương thức kinh doanh giao dịch mang tính thị trường, góp phần ổn định tỷ giá, giá cả và kích thích đầu tư tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên, với nhu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu phát triển của thị trường thì hai trung tâm giao dịch ngoại tệ đã bộc lộ những hạn chế khơng đáp ứng được nhu cầu giao dịch ngoại tệ của nền kinh tế như một tổng thể. Thực tế đòi hỏi phải có một mơ hình mới linh hoạt hơn, tồn diện hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong phạm vi cả nước chứ khơng chỉ gói gọn tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, đó là mơ hình ngoại tệ liên ngân hàng. 3- Từ năm 1994 đến nay: Trước nhu cầu bức thiết trong quan hệ giao dịch, thanh tốn ngoại tệ của nền kinh tế như một tổng thể, nhu cầu hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, phù hợp với q trình phát triển của thị trường tài chính tồn cầu; với các điều kiện khách quan và chủ quan thuận lợi như hệ thống NHTM đã phát triển cao về mặt số lượng cũng như chất lượng, các điều kiện về kỹ thuật và trang thiết bị của các ngân hàng đã nâng cao, đặc biệt là Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 9 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật nguồn ngoại tệ của nền kinh tế dồi dào như là điều kiện về hàng hóa có tính quyết định đến hoạt động và phát triển của thị trường ngoại hối Việt Nam. Đứng trước tình hình đó, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết đinh 203/QĐ-NH ngày 20/10/1994 thành lập Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (Interbank) và ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Interbank, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong q trình hình thành và phát tiển của thị trường ngoại hối Việt Nam theo chuẩn mực quốc tế. Để đáp ứng u cầu phát triển trong thời kỳ mới, Uy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11 ngày 13/12/2005. Giờ đây, hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam ngày càng sơi động, phong phú với các hình thức giao dịch hối đối trao ngay (Spot), giao dịch hối đối kỳ hạn (Forward), giao dịch hối đối hốn đổi (Swap) II- CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NGOẠI HỐI & TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NGOẠI HỐI ĐẾN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI: 1- Chính sách quản lý ngoại hối: Cuối những năm của thập niên 90, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản Luật và
dưới Luật, trong đó có Luật NHNN và Luật các tổ chức tín dụng ban hành ngày 12/12/1997, Nghị định số 63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối ra đời thay thế cho Nghị định 161/HĐBT/1988. Nội dung của Nghị định tương đối phong phú, bao gồm 10 chương và 45 điều. Nét nổi bật của Nghị định 63/1998/NĐ-CP mà ở các Nghị định trước chưa đề cập đến đó là việc phân biệt rõ người cư trú và người khơng cư trú trong giao dịch vãng lai và giao dịch vốn, nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức, quy định hoạt động ngoại hối của các tổ chức tín dụng và bàn thu đổi ngoại tệ. Tiếp theo Nghị định 63/NĐ-CP ngày 17/8/1998 về quản lý ngoại hối trong tình hình mới, ngày 12/9/1998, Chính phủ ban hành Quyết định số 173/QĐ-TTG về nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức trên cơ sở tỷ lệ kết hối bắt buộc 80% số ngoại tệ phải bán của khách hàng cho Ngân hàng trong vòng 15 ngày có nguồn thu ngoại tệ từ các giao dịch vãng lai. Chính sách quản lý ngoại hối đã mang lại tính khả quan. Nhưng sau khi có Quyết định số 180/QĐ/CP ngày 10/9/1999 giảm tỷ lệ kết hối từ 80% xuống còn 50%, tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối thay đổi. Bên cạnh đó, lãi suất tiền gửi VND giảm, lãi suất huy động USD tăng dẫn đến các doanh nghiệp xuất khẩu thay vì bán hết ngoại tệ cho Ngân hàng như trước đây thì giữ lại số tiền đó trên tài khoản của Ngân hàng làm cho lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường giảm. Cùng lúc đó Quyết định số 170/QĐ-CP ngày 19/8/1999 về việc khuyến khích người Việt Nam ở nước ngồi gửi tiền về nước cho phép người trong nước nhận bằng ngoại tệ làm cho lượng ngoại tệ mua của Ngân hàng bị giảm. Trong 6 tháng đầu 2001, tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường tiếp tục căng thẳng. Kết hợp với sự thay đổi trong Luật đầu tư nước ngồi tại Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 61/2001/QĐ-TTg ngày 25/4/2001 về nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức. Tiếp theo đó Thơng tư số 05/2001/TT- NHNN ngày 31/5/2001 của Thống đốc NHNN hướng dẫn thi hành Quyết định này. Mục đích của Quyết định 61 lần này là điều chỉnh các quan hệ giữa các Ngân hàng được phép với người cư trú là tổ chức. Trong đó, quy định nghĩa vụ bán ngay trong vòng 3 ngày 40% ngoại tệ thu được từ các giao dịch vãng lai của người cư trú là các tổ chức, còn đối với các tổ chức xã hội vẫn áp dụng như trước (tức là phải bán ngay 100% cho
các Ngân hàng được phép). Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 10 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật Mặc dù tỷ lệ kết hối những năm qua đã liên tục được điều chỉnh giảm dần nhưng quy định phải kết hối vẫn thường bị nước ngồi xem như một ví dụ điển hình về biện pháp hành chính và cơ chế phi thị trường của Việt Nam. Điều này ít nhiều gây bất lợi cho nước ta khi làm việc với nhà đầu tư nước ngồi, các tổ chức quốc tế trong khn khổ thực hiện các dự án vay, đầu tư, các chương trình của IMF, các cuộc đàm phán hội nhập, chính vì vậy, theo cam kết với IMF, Việt Nam sẽ xóa bỏ quy định kết hối chậm nhất là vào cuối năm 2003. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình thực tế, cân nhắc các lợi ích đối với u cầu hội nhập và phát triển kinh tế đất nước trong thời gian tới. Ngày 2 tháng 4 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 46/2003/QĐ-TTg, trong đó đã giảm tỷ lệ kết hối từ 30% xuống bằng 0%. Đây là một cố gắng và đổi mới thực hiện trong chính sách quản lý ngoại hối của nước ta, khẳng định nền kinh tế Việt Nam ổn định và phát triển cơng tác quản lý ngoại hối thời gian qua đã thực sự hướng vào mục tiêu ổn định kinh tế, ổn định tiền Tóm lại, cơng tác quản lý ngoại hối đã có nhiều đổi mới căn bản, phù hợp dần với thơng lệ quốc tế, với xu thế hội nhập và tồn cầu hóa. Cho đến năm 2006, thị trường ngoại hối khơng có những thay đổi lớn. Những qui định, điều chỉnh đã được thực hiện trong các năm qua vẫn còn phù hợp và có thể kiểm sốt được thị truờng cho đến thời điểm hiện nay. Quyết định 1452/2004/QD-NHNN được ban hành vào cuối tháng 11/2004 vẫn là quy định cơ bản điều chỉnh các hoạt động khác nhau của thị trường ngoại hối, bao gồm: giao ngay, hốn đổi, kỳ hạn và quyền chọn. Trong khi đó, trên thị trường vốn, lãi suất cơ bản, lãi suất tái tài trợ, lãi suất chiết khấu do NHNN quy định vẫn được duy trì khá ổn định. Ở góc độ chính sách, NHNN đã ban hành Pháp lệnh ngoại hối mới, khung pháp lý cao nhất điều chỉnh tất cả các hoạt động ngoại hối. Pháp lệnh ngoại hối (PLNH) đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thơng qua ngày 13/12/2005 và có hiệu lực kể từ ngày
1/6/2006. Đây là văn bản pháp lý chun ngành cao nhất trong lĩnh vực quản lý ngoại hối. PLNH được ban hành sẽ tạo ra những bước đổi mới quan trọng trong chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam . Trong Pháp lệnh ngoại hối mới có một số điểm mới như sau: Các tổ chức kinh tế phát sinh nhu cầu giao dịch bằng một ngoại tệ khác có thể trực tiếp đến các NHTM có chức năng kinh doanh ngoại hối. Các NHTM này sẽ u cầu những chứng từ cần thiết để chứng minh giao dịch nói trên. Các cá nhân có nhu cầu sử dụng ngoại tệ cũng phải chứng minh nhu cầu sử dụng ngoại tệ hợp lý của mình như để đi du học hay đi chữa bệnh ở nước ngồi. Bên cạnh các qui định về giao dịch thơng thường, các quy định về giao dịch vốn đối với đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp vào-ra Việt Nam, nợ nước ngồi và việc sử dụng ngoại tệ trong nước cũng đã được nới lỏng. Một điểm mới nữa liên quan đến việc mở tài khoản bằng ngoại tệ tại Việt Nam hay nước ngồi. Các tổ chức kinh tế có chi nhánh hay văn phòng đại diện ở nước ngồi sẽ có quyền được mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngồi sau khi đuợc sự chấp thuận của NHNN. Các cá nhân tạm thời định cư ở nước ngồi sẽ được phép mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngồi, phù hợp với quy định của nước sở tại. Nhưng khi giấy phép định cư của họ hết hiệu lực, các tài khoản này sẽ bị đóng cùng với số tiền còn lại trong tài khoản sẽ được chuyển về Việt Nam. Pháp lệnh cũng đề cập các khoản nợ nước ngồi và cung cấp những quy định cụ thể về quản lý ngoại hối đối với các trường hợp đầu tư trực tiếp, gián tiếp và phát hành cổ phiếu ra nước ngồi. Các vấn đề như quỹ dự trữ ngoại hối, quản lý vàng, và sự nhất qn trong chính sách quản lý cũng được quy định rõ ràng. Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 11 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật Về thị trường trong nước, Pháp lệnh ngoại hối mới cũng nhấn mạnh ngun tắc sử dụng đồng Việt Nam trong lãnh thổ Việt Nam. Nói cách khác, những tổ chức, cá nhân khơng có nhu cầu hợp pháp về việc sử dụng ngoại tệ sẽ khơng được phép dùng ngoại tệ để thanh tốn, chi trả, trong khi đó các doanh nghiệp nhận được các khoản thanh tốn bằng ngoại tệ có thể tiếp tục để dành và gửi tiết kiệm ở ngân hàng như luật hiện hành
quy định. Việc ban hành Pháp lệnh ngoại hối mới là cam kết của chính phủ Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề hiện tại đối với cách thức quản lý ngoại hối, đảm bảo việc quản lý ngoại hối phù hợp với các u cầu phát triển kinh tế. Ngồi ra, còn để tự do hố các giao dịch vãng lai, bao gồm các vấn đề liên quan đến việc bắt buộc phải chuyển đổi đồng tiền, việc đơn giản hố các thủ tục, giấy tờ. . .Những thay đổi này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho q trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đồng thời làm cho các quy định về quản lý ngoại hối phù hợp hơn với thơng lệ quốc tế. Tuy nhiên, về khía cạnh thị trường liên ngân hàng, Pháp lệnh ngoại hối mới khơng có sự điều chỉnh nào đáng kể. Như vậy, cho đến nay, hầu hết các giao dịch vãng lai đã được tự do hóa, các giao dịch vốn đã được kiểm sốt tốt trên cơ sở bước đầu có sự nới lỏng hơn phù hợp với thơng lệ quốc tế. Số lượng các loại giấy phép đã giảm nhiều theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp. Việc mở rộng biên độ tỷ giá đã giúp cho các Ngân hàng thương mại có điều kiện yết giá cạnh tranh, cùng với quy định mới về trạng thái ngoại tệ đã làm tăng tốc độ chu chuyển ngoại tệ, đáp ứng tốt hơn nhu cầu nhập khẩu và trả nợ nước ngồi, hạn chế hiện tượng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ, qua đó góp phần bình ổn tỷ giá và hỗ trợ cho vị thế của đồng Việt Nam, khắc phục dần tình trạng "Đơ la hóa" trên con đường hướng tới mục tiêu "trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam". 2- Tác động của chính sách Quản lý ngoại hối đến thị trường ngoại hối: 2.1- Tác động tích cực: Trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách quản lý ngoại hối khơng ngừng được đổi mới để phù hợp với thơng lệ quốc tế và thích ứng với cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, cơng tác quản lý ngoại hối đã thu được những kết quả đáng khích lệ: 2.1.1- Kiểm sốt nguồn ngoại tệ trên thị trường: Việc ban hành Quyết định số 37/1998/QĐ- TTg ngày 14/2/1998 giúp kiểm sốt được nguồn ngoại tệ trên thị trường. Trước khi Quyết định này được ban hành, việc các tổ chức đơn vị được phép mở nhiều tài khoản ngoại tệ ở nhiều tổ chức tín dụng đã làm cho lượng ngoại tệ bị phân tán, khó kiểm sốt và Ngân hàng khơng quản lý
được. Thực hiện Quyết định 37/1998/QĐ-TTg ban hành ngày 14/2/1998, các Doanh nghiệp chỉ được duy trì một tài khoản tiền gửi và khi có nhu cầu mở thêm tài khoản phải đăng ký với NHNN. Việc này giúp các Ngân hàng bước đầu kiểm sốt được nguồn ngoại tệ trên tài khoản, theo dõi được những Doanh nghiệp có ngoại tệ nhưng khơng sử dụng đến và u cầu họ phải bán lại số ngoại tệ dư thừa cho Ngân hàng, thực hiện mục đích tập trung ngoại tệ vào Ngân hàng, chống găm giữ, lãng phí trong việc khơng sử dụng ngoại tệ. Từ đó, làm cho mọi giao dịch về ngoại tệ của các Ngân hàng với khách hàng cũng như giao dịch ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng đã trở lại bình thường. 2.1.2- Ổn định doanh số mua bán ngoại tệ: Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 12 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật Ngồi ra, việc ban hành Quyết định số 37/1998/QĐ- TTg ngày 14/2/1998 cũng giúp ổn định doanh số mua bán ngoại tệ trên thị trường. Điều này có thể thấy được qua hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Vào tháng 1/1998 (trước khi thực hiện Quyết định 37/1998/QĐ-TTg), do mất cân đối cung cầu ngoại tệ, doanh số mua ngoại tệ giữa khách hàng và Ngân hàng đạt khoảng 280 triệu USD, trong khi đó doanh số bán lên tới gần 340 triệu USD. Sau 3 tháng thực hiện Quyết định trên, việc mua bán ngoại tệ giữa Ngân hàng với khách hàng đã có chuyển biến tích cực, góp phần đáp ứng các nhu cầu ngoại tệ cần thiết của Doanh nghiệp, giải tỏa được tâm lý căng thẳng về ngoại tệ. Tình hình mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đã trở lại bình thường, có mua, có bán, doanh số mua vào của các Ngân hàng thương mại đã vượt doanh số bán ra, tạo điều kiện tăng tích lũy ngoại tệ cho hệ thống Ngân hàng. Ngay sau khi thực hiện Quyết định 37/1998/QĐ-TTg, doanh số mua bán ngoại tệ đã tăng lên so với trước (tổng doanh số mua bán ngoại tệ giữa Ngân hàng với khách hàng trong tháng 2 năm 1998 tăng khoản 8% so với tháng 1 năm 1998, riêng tháng 3 năm 1998 doanh số mua bán tăng khoảng 34% so với tháng trước). Cụ thể
tháng 3 và 4 năm 1998, tổng doanh số mua bán ngoại tệ giữa Ngân hàng và khách hàng đạt trung bình gần 1 tỷ USD/tháng (doanh số mua bán tháng 4 năm 1998 tăng 7% so với tháng 3 năm 1998) (Nguồn: Quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đối ở Việt Nam - NXB Thống kê 2004) Sau khi thực hiện Quyết định 37/1998/QĐ-TTg đến hết tháng 4/1998, doanh số mua ngoại tệ của các Ngân hàng từ khách hàng đã vượt qua doanh số bán. Tuy nhiên, do một số hạn chế của Quyết định 37/1998/QĐ-TTg và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng ngày càng gây sức ép lên cung cầu ngoại tệ trên thị trường do xuất khẩu khó khăn, đầu tư nước ngồi giảm, cũng như ảnh hưởng của khủng hoảng đến yếu tố tâm lý găm giữ ngoại tệ trước sức ép giảm giá đồng Việt Nam. Vào các tháng tiếp theo của năm 1998, doanh số mua ngoại tệ từ khách hàng của các Ngân hàng đã giảm, thấp hơn doanh số bán ra. Nhất là từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1998, tổng doanh số mua bán ngoại tệ của các Ngân hàng giảm từ mức bình qn gần 1 tỷ USD/tháng trong tháng 3 và 4 xuống chỉ còn khoảng 500-600 triệu USD/tháng. Quyết định 173/1998/QĐ-TTg ra đời. Sau khi thực hiện Quyết định này, doanh số mua bán ngoại tệ của các Ngân hàng đã tăng dần, doanh số mua vào đã tăng lên, vượt doanh số bán ra. Giao dịch giữa Ngân hàng với khách hàng trong 3 tháng cuối năm 1998 tăng lên đáng kể từ mức trung bình khoảng 500 triệu USD/tháng trong 9 tháng đầu năm, đến ba tháng cuối năm doanh số giao dịch đã đạt mỗi tháng gần 900 triệu USD (tăng khoảng 80%). Riêng tháng 12/1998, tổng doanh số mua bán lên đến trên 1 tỷ USD, doanh số bán ra cho khách hàng là 505 triệu USD. Về cơ bản các Ngân hàng đã đáp ứng nhu cầu mua ngoại tệ của Doanh nghiệp. (Nguồn: Quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đối ở Việt Nam -NXB Thống kê- 2004) 2.1.3- Ổn định tỷ giá trên thị trường - Tạo chuyển biến mới trên thị trường ngoại hối: Cùng với việc điều chỉnh tỷ giá vào tháng 8/1998, tỷ giá trên thị trường đã dần dần ổn định, tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do khơng còn chênh lệch nhiều như trước. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình thực tế, cân nhắc các lợi ích đối với u cầu hội nhập và phát triển kinh tế đất nước, ngày 2 tháng 4 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 46/2003/QĐ-TTg, trong đó đã giảm tỷ lệ kết hối từ 30%
Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 13 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật xuống bằng 0. Đây là một cố gắng và đổi mới thực hiện trong chính sách quản lý ngoại hối của nước ta, giúp khẳng định nền kinh tế Việt Nam ổn định và phát triển. Những quyết định và thơng tư về quản lý ngoại hối được ban hành trong thời gian qua đã và đang góp phần tích cực vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ ổn định tỷ giá hối đối và giá vàng, kiềm chế lạm phát, khuyến khích các hoạt động đầu tư và thu hút các nguồn kiều hối lớn. Những chuyển biến tích cực về mặt chính sách tỷ giá có thể được ghi nhận theo các cột mốc sau đây: - Ngày 28/5/2004 NHNN đã ban hành Quyết định 679 bãi bỏ các mức trần kỳ hạn mà thay vào đó là chênh lệch lãi suất giữa VND và USD theo lãi suất cơ bản do NHNN cơng bố và lãi suất Fed Fund Rate của FED. Đồng thời mở rộng độ dài thời gian trong giao dịch kỳ hạn là 3 ngày đến 360 ngày. Sử dụng chênh lệch lãi suất là điểm hốn đổi (Swap points) thay cho các biên độ cứng là một bước tiến trong nhận thức về việc áp dụng các cơng cụ phái sinh của thế giới vào điều kiện cụ thể của thị trường ngoại hối Việt nam. - Lần đầu tiên Việt Nam chấp nhận một thơng lệ quốc tế về tính tự do chuyển đổi của các ngoại tệ mạnh thơng qua việc khơng kiểm tra chứng từ đối với các giao dịch mua bán ngoại tệ khơng sử dụng đồng Việt Nam thơng qua Quyết định 1452 ngày 10/11/2004. Điều đó cũng có nghĩa các nhà xuất khẩu có thể chuyển đổi doanh thu từ một ngoại tệ mạnh này sang một ngoại tệ mạnh khác. Chẳng hạn từ đơ la Mỹ qua Euro, qua n Nhật, v.v - Quyết định 1452 về giao dịch hối đối của các tổ chức tín dụng còn cho phép các tổ chức này có thể triển khai hoạt động và tiếp cận thị trường ngoại hối ở phạm vi rộng hơn. Với quyết định này, mọi chế độ kiểm sốt chứng từ được bãi bỏ và một ngun tắc rất cơ bản của các đồng tiền được xác lập là ngoại tệ được tự do chuyển đổi. Chủ trương mới này nhằm tạo điều kiện cho thị trường xác lập một tỷ giá hối đối cân bằng hơn và đúng với tác động của cung - cầu.
- Các ngân hàng thương mại tiến hành thí điểm quyền chọn USD và tiền đồng trong điều kiện được tự do thỏa thuận phí quyền chọn (tháng 6-2005). Bỏ biên độ giao dịch USD tiền mặt, cho thí điểm cơ chế mua bán ngoại tệ mặt theo giá thỏa thuận (tháng 7-2006). Những bước đi này có dụng ý để thị trường tự điều chỉnh tỷ giá chừng nào mà Việt Nam chưa thể áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi hồn tồn (independent floating). - Quyết định 648 liên quan đến giao dịch ngoại tệ của các tổ chức tín dụng đưa ra mức chênh lệch lãi suất giữa USD và đồng Việt Nam đã tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có thể đặt ra một tỷ giá của riêng mình trong biên độ cho phép. Đây là cơ sở cho việc hình thành thị trường ngoại hối tự do hóa. Rõ ràng trong điều hành chính sách tỷ giá, NHNN ln coi trọng tính thị trường, đã cung ứng cho thị trường nhiều cơng cụ để xác lập tỷ giá cân bằng. Điều này chứng minh rằng NHNN khơng hề có ý định và cũng khơng thể ém tỷ giá như một số nhận định. Hiệu quả điều hành chính sách suy cho cùng là những hệ quả mà chính sách đó mang lại: thị trường ngoại hối ổn định, cán cân thương mại được cải thiện, dự trữ quốc tế ròng tăng mạnh là những vấn đề cần được tham chiếu khi đánh giá chính sách tỷ giá. Có thể nói trong cơ chế thả nổi có điều tiết của tỷ giá đã lựa chọn thì mức độ thả nổi ngày càng tăng lên và vai trò điều tiết đích thực của NHNN chỉ là tạo điều kiện cho thị trường có được một kỳ vọng hợp lý. Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 14 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật 2.1.4- Về chính sách kết hối: Chính phủ đã từng bước giảm tỉ lệ kết hối đối với các tổ chức kinh tế có thu ngoại tệ từ 80% xuống 50%, 40%, 30% và hiện nay là 0%. Việc giảm tỉ lệ kết hối xuống 0% là bước đi quan trọng trong chủ chương tự do hố giao dịch vãng lai, phù hợp với thơng lệ quốc tế. Giảm tỉ lệ kết hối xuống 0% khơng ảnh hưởng tới khả năng đáp ứng ngoại tệ của ngân hàng cho các doanh nghiệp có nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu. Hiện nay, lãi suất USD giảm xuống thấp, các doanh nghiệp giữ USD trên tài khoản chỉ được hưởng
lãi suất 1%-2%/năm. Trong bối cảnh hiện nay, cung cầu USD - VND đang căng thẳng, Chính phủ đang cân nhắc sử dụng lại biện pháp kết hối. 2.1.5- Về quy định trạng thái ngoại tệ: Để hạn chế rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ của các tổ chức tín dụng, ngày 07/10/2002, Thống đốc NHNN đã ban hành quy định mới về trạng thái ngoại tệ (TTNT) của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ (trừ các ngân hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nước ngồi hoạt động trên đất Việt Nam). Quy định mới khơng quy định trạng thái ngoại tệ riêng cho USD mà chỉ quy định giới hạn tổng TTNT dương và tổng TTNT âm vào cuối ngày làm việc của tất cả các loại ngoại tệ mà tổ chức tín dụng có hoạt động kinh doanh khơng được vượt q 30% vốn tự có của tổ chức tín dụng đó. Như vậy quy định mới về TTNT đã tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoaị hối linh hoạt hơn trong giới hạn về cơ cấu và tỉ trọng các loại ngoại tệ, nhất là đối với USD. 2.1.6- Về chính sách kiều hối: Chính phủ và NHNN có những chính sách thơng thống hơn nhằm khuyến khích kiều bào chuyển tiền về nước: Mức thu phí dịch vụ kiều hối ngày càng giảm. Nếu như trước đây, người nhận kiều hối bắt buộc phải bán tồn bộ ngoại tệ cho ngân hàng theo tỉ giá quy định, chỉ được nhận nội tệ, thì nay họ được nhận bằng ngoại tệ hoặc bán cho ngân hàng lấy tiền VN, hoặc gửi ngoại tệ theo thể thức tiết kiệm tại ngân hàng. NHNN đã mở rộng mạng lưới làm dịch vụ kiều hối tạo thuận lợi cho việc giao dịch của khách hàng. Năm 2008 số kiều hối gửi về qua hệ thống ngân hàng là 8 tỷ USD (tăng 19% so voi năm 2007). Theo ước tính, trong năm nay lượng kiều hối sẽ vượt con số 6,8 tỷ USD (giảm 15% so với năm 2008. Ngun nhân: do ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế tồn cầu chưa kết thúc khiến thu nhập của kiều bào bị thu hẹp. Lượng kiều hối gửi về dồi dào đã đem lại nhiều lợi ích: Các NHTM có nguồn vốn ngoại tệ lớn đầu từ cho các dự án trọng điểm của Chính phủ; cho vay các doanh nghiệp đẩy mạnh kinh doanh xuất nhập khẩu; góp phần cải thiện cán cân thanh tốn quốc tế của Việt Nam, góp phần tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia. Những tác động trên là hết sức tích cực đối với thị trường ngoại hối của Việt Nam
trong thời gian này. 2.2- Hạn chế: Tuy nhiên, thực trạng của thị trường ngoại hối Việt Nam cho thấy vẫn còn tồn tại rất nhiều vấn đề cần được khắc phục. Đặc biệt là trong giai đoạn mở cửa hội nhập, khi chúng ta phải tn theo luật chơi chung của thế giới. 2.2.1- Về quản lý hoạt động ngoại hối: Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 15 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật - Theo quy định của luật pháp Việt Nam (tại Pháp lệnh Quản lý ngoại hối và Nghị định 160/2006 của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh ngoại hối), thì tất cả các giao dịch, thanh tốn, niêm yết, quảng cáo ở trên lãnh thổ Việt Nam đều khơng được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các giao dịch với tổ chức tín dụng và tổ chức khác được phép cung ứng dịch vụ ngoại hối. Có nghĩa là chỉ có một số tổ chức được Nhà nước cấp phép mới được thực hiện ngoại hối và cung cấp các dịch vụ ngoại hối. - Tuy nhiên trên thực tế việc chấp hành Pháp luật quản lý ngoại hối này gặp nhiều khó khăn. Ngày 8-5-2009, Thủ tướng đã có Cơng văn số 695/TTg-KTN u cầu tăng cường kiểm tra, chấn chỉnh, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về quản lý ngoại hối, đặc biệt là các hoạt động thu đổi ngoại tệ trái phép, quảng cáo, niêm yết giá hàng hóa bằng ngoại tệ. - Ngồi ra nói về yếu kém trong quản lý hoạt động ngoại hối còn phải đề cập đến việc quản lý thị trường ngoại hối chợ đen. Theo Ngân hàng Nhà nước, thời gian qua việc căng thẳng đồng USD trên thị trường ngoại hối là do đầu cơ trên thị trường chợ đen. Nắm được tâm lý của doanh nghiệp và người dân, giới đầu cơ chủ động đưa ra các tin đồn thất thiệt, thậm chí còn tự tạo ra các đợt sóng trên thị trường ngoại tệ để mua bán kiếm lời với thủ đoạn ngày càng tinh vi. Tuy Chính phủ và Ngân hàng nhà nước cam đoan dự trữ ngoại hối của Việt Nam đủ mạnh và thừa khả năng can thiệp tình trạng khan hiếm USD thơng qua việc tăng cung ngoại tệ nhưng vẫn gây tâm lý hoang mang bất ổn cho người dân. Ngân hàng Nhà nước cũng chưa thật sự kiểm
sốt được thị trường ngoại tệ chợ đen. Cơ chế tỷ giá hiện nay được coi là đang điều hành tốt thị trường ngoại hối, tuy nhiên diễn biến tỷ giá trong những năm qua còn nhiều phức tạp. Từ tháng 2/1999, tỷ giá đã được xác định trên cơ sở tỷ giá bình qn của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Nhưng trong thực tế, Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa thực hiện triệt để ngun tắc này. Cơ chế điều hành tỷ giá còn quy định biên độ mua bán làm cho việc yết giá của các ngân hàng thương mại bị cứng nhắc, chưa phản ánh đúng cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Là điều kiện tốt cho thị trường ngoại tệ chợ đen phát triển. Thực tế, tỷ giá giao dịch của hai thị trường chênh lệch nhau q nhiều, tỷ giá trên thị trường ngân hàng ln thấp hơn tỷ giá tự do. Chính vì thế, ngoại tệ thường được bán trên thị trường chợ đen. Ngược lại, ngoại tệ thường được mua ở các ngân hàng. Đơ la và các ngoại tệ khác vẫn được sử dụng tràn lan càng khiến cho thị trường chợ đen khó có thể bị dẹp bỏ. Một số loại ngoại tệ mạnh như USD, EUR vẫn đang được sử dụng trong dự trữ, thanh tốn các món hàng có giá trị lớn, các giao dịch bất động sản, bn lậu. Thị trường này vẫn đang hoạt động, thậm chí gần như cơng khai, tại các thành phố lớn. Tỷ giá của thị trường chợ đen song hành với tỷ giá của thị trường LNH. Sự biến động của tỷ giá chợ đen nhiều khi thể hiện phản ứng của dân cư và doanh nghiệp, mặc dù mức độ đại diện còn chưa được kiểm chứng, trước các chính sách về ngoại hối, tỷ giá của NHNN. 2.2.2- Về sử dụng các cơng cụ trong điều hành, quản lý: Điều hành chính sách tỷ giá: - Trước tiên phải kể đến nhiều chính sách quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước thời gian qua còn nhiều bất cập khiến tỷ giá hiện chưa thật sự phản ánh đúng tình hình cung - cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Thành cơng của chính sách tỷ giá trong thời gian qua là đã xố bỏ được sự áp đặt chủ quan, duy ý chí trong việc thiết lập tỷ giá. Khoảng cách giữa tỷ giá của thị trường chính thức và thị trường chợ đen dần dần được thu hẹp. Từ tháng 2/1999, tỷ giá đã được xác định trên cơ sở tỷ giá bình Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 16 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật
qn trên thị trường ngoại tệ LNH. Song, trên thực tế NHNN vẫn chưa thực hiện triệt để ngun tắc này. Cơ chế điều hành tỷ giá qui định biên độ làm cho việc yết giá của NHTM bị cứng nhắc, chưa phản ánh đúng cung cầu ngoại tệ trên thị trường. - Ngày 23/3/2009 Theo Quyết định số 622/QĐ-NHNN do Ngân hàng Nhà nước ban hành, kể từ ngày 24/3, tỷ giá VND/USD tăng từ mức +/-3% lên mức +/-5%. - Ngày 26/11/2009 tỷ giá VND/USD lại giảm từ mức +/-5% xuống còn +/-3%. - Biên độ giao dịch tỉ giá q hẹp trong một thời gian dài đã hạn chế doanh số mua bán ngoai tệ của các tổ chức tín dụng. - Cơng cụ tỉ giá và cơng cụ lãi suất ngoại tệ có khi diễn biến ngược chiều: - Lãi suất ngoại tệ diễn ra theo xu hướng giảm trong khi tỉ giá giữa USD/VND vẫn tăng (tuy ở mức độ hẹp), đã gây ra tâm lý khách hàng găm giữ ngoại tệ hoặc tránh vay ngoại tệ. - Thị trường ngoại hối phát triển còn chậm, thanh tốn bằng ngoại tệ tiền mặt còn phổ biến hối đối chủ yếu là giao ngay (SPOT). Giao dịch kỳ hạn (FORWARD) còn hạn chế. Giao dịch quyền chọn (OPTION) trước 30/6/2003 hầu như chưa có. Dịch vụ kiều hối - Là một trong những nhân tố chủ yếu làm nghiêm trọng thêm tình trạng đơ la hố nền kinh tế. NHNN chưa có biện pháp hữu hiệu kiểm sốt lượng ngoại tệ rất lớn đang trơi nổi ngồi thị trường. Q trình tự do hóa giao dịch vốn đã tác động mạnh tới hoạt động của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là nền kinh tế đang bị đơ la hóa với 30% lượng tiền gửi tại các tổ chức tín dụng là ngoại tệ, tỉ lệ này là 40% tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh. - Theo tổng kết của IMF, đơ la hố là hiện tượng phổ biến của các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang trong q trình chuyển đổi. Khi mà sức mua đối ngoại của đồng nội tệ còn hạn chế, tỷ giá chưa ổn định, hệ thống ngân hàng chưa phát triển, nghiệp vụ thanh tốn qua ngân hàng chưa hồn thiện, nền kinh tế còn ở trình độ thấp, người dân còn có thói quen nắm giữ đơ la và vàng, các qui định của pháp luật chưa nghiêm, thì Việt Nam cũng khơng nằm ngồi tình trạng này. Tuy nhiên, cũng theo đánh giá của IMF, tình trạng đơ la hố ở Việt Nam là bình thường và có thể kiểm sốt được.
2.2.3- Về nguồn nhân lực: - Nguồn nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu trong cả việc hoạch định chính sách cũng như điều hành quỹ dự trữ ngoại hối. Tác động của những thay đổi về mặt quản trị trong NHTW có tầm ảnh hưởng lớn trên nhiều khía cạnh. - Hướng đến mơ hình NHTW độc lập đã làm tăng tính minh bạch và tính tin cậy của NHTW, qua đó giúp nâng cao mức độ cơng khai nghiệp vụ quản lý dự trữ ngoại hối, đồng thời tăng cơng tác quản trị ngân hàng. Các NHTW cũng nhận thức được rằng việc cơng khai cơng tác quản lý dự trữ ngoại hối có thể giúp họ trong việc thực hiện trách nhiệm chính của NHTW với tư cách là Cơ quan ban hành và giám sát luật trong lĩnh vực ngân hàng. - Trình độ và chất lượng đội ngũ cán bộ kinh doanh ngoại hối nhất là ở cấp cơ sở đang còn hạn chế về quản lý điều hành, về tác nghiệp và về ngoại ngữ trước u cầu hội nhập. Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 17 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật 2.2.4- Về các yếu tố khác: - Cung cầu ngoại tệ bị biến dạng, khơng phản ánh đúng thực tế khách quan của thị trường. Một số nguồn cung trên thị trường ngoại hối đã bị biến dạng thành các nguồn thu ngân sách. Chẳng hạn như ngoại tệ thu được từ xuất dầu thơ khơng được bán cho các NHTM để lấy VND nộp thuế cho ngân sách mà các doanh nghiệp xuất khẩu dầu thơ trực tiếp nộp thuế bằng ngoại tệ. Chính sách quản lý ngoại hối thời gian qua về bản chất là tìm mọi biện pháp để nén cầu về ngoại tệ trên trên thị trường ngoại hối. Điều này thể hiện rất rõ cho đến ngày 30/12/2005, Việt Nam mới được IMF cơng nhận là quốc gia thành viên thực hiện nghĩa vụ quy định tại Điều VIII Điều lệ IMF về tự do hố giao dịch vãng lai (Nguồn: IMF). - Trong khi đó, vấn đề quản lý ngoại hối ở Việt Nam đang thể hiện một số bất cập lớn, việc thực hiện chính sách ngoại hối còn chưa thật sự thơng suốt Đối với các giao dịch vãng lai, về cơ bản, Việt Nam đã tự do hóa việc chuyển đổi ngoại tệ và thanh
tốn đối với hầu hết các giao dịch loại này, nhưng các quy định về hồ sơ, chứng từ trên thực tế còn rườm rà, khó triển khai, chưa đáp ứng u cầu đơn giản hóa. Việc cấp phép mang ngoại tệ ra nước ngồi chưa thuận tiện với chính chi nhánh được uỷ quyền cấp phép sẽ gây khó khăn cho người dân chuyển ngoại tệ ra nước ngồi. - Thị trường kinh doanh ngoại tệ kỳ hạn, hốn đổi đã chính thức hoạt động ở Việt Nam từ đầu năm 1999 trong những năm qua đã từng bước phát triển và đi vào hoạt động có hiệu quả, làm giảm căng thẳng ngoại tệ trên thị trường giao ngay. Tuy nhiên, sau bốn năm ra đời, thị trường ngoại tệ kỳ hạn, hốn đổi ở Việt Nam đã bộc lộ một số hạn chế nhất định như doanh số giao dịch còn nhỏ, mức phổ biến chỉ tương đương khoảng 4 - 6% doanh số mua bán ngoại tệ giao ngay, đối tượng giao dịch tập trung nhiều vào khối ngân hàng nước ngồi. - Bên cạnh đó, sự kém phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại trong nước cũng là một trong những ngun nhân làm cho thị trường ngoại hối phát triển khơng vững chắc. Trước tiên có thể kể đến lượng vốn trong các ngân hàng thương mại hiện còn thấp so với u cầu hội nhập, đặc biệt là các ngân hàng thương mại nhỏ. Các ngân hàng thương mại quốc doanh và ngân hàng cổ phần nội địa có tiềm lực lớn, mặc dù trong thời gian qua liên tục thực thi các biện pháp tăng vốn nhằm làm tăng tỷ lệ an tồn vốn tối thiểu. Tuy nhiên tỷ lệ này nhìn chung vẫn còn thấp hơn 5%, trong khi tiêu chuẩn quốc tế quy định tỷ lệ an tồn vốn phải là 8%. Hoạt động kinh doanh chủ yếu của các ngân hàng là tín dụng (chiếm 80% tổng thu nhập), nhưng đây lại là một trong những lĩnh vực nhiều rủi ro nhất, đe dọa an tồn họat động của các ngân hàng. Hệ thống các dịch vụ khác còn đơn điệu. Một số dịch vụ mới được triển khai trong giai đoạn gần đây như dịch vụ tài khoản, séc, thẻ thanh tốn, quản lý tài sản, tín dụng cầm cốchưa phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Phương thức cạnh tranh chủ yếu là mở rộng mạng lưới, cạnh tranh giá, chưa thật sự quan tâm đến việc cạnh tranh thơng qua chất lượng dịch vụ. Bên cạnh đó, các ngân hàng Việt Nam còn phải đối mặt với những bất cập về hệ thống quản trị, trình độ cơng nghệ thơng tin chưa đồng đều, trình độ nhân lực còn hạn chế. III. TÌNH HÌNH BIẾN ĐỘNG NGOẠI TỆ TRONG THỜI GIAN QUA: 1- Diễn biến của tỷ giá hối đối:
Diễn biến nóng lạnh của thị trường ngoại hốiở nước ta trong thời gian qua đang là mối quan tâm đặc biệt của các cơ quan quản lý, thành viên của thị trường và dư luận. Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 18 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật - Q 1/2008: trên thị trường liên ngân hàng, tỷ giá VND/USD giảm từ mức 16.112 VND/USD xuống còn 15.960 đồng, trên thị trường tự do, mức giá lúc đó chỉ còn 15.700 - 15.800 VND/USD. Trong q này, tỷ giá giảm là do lượng kiều hối dồn về nhiều từ cuối 2007 đến tháng 2/2008, áp lực từ việc nhà đầu tư nước ngồi mua trái phiếu Chính phủ khoảng 1,4 tỷ USD, doanh nghiệp xuất khẩu vay USD chuyển đổi ra VND sản xuất kinh doanh, các ngân hàng thương mại bán USD để trạng thái đoản, thì đến q 2, tỷ giá tăng là hệ quả của nhiều yếu tố khác. - Trong q 2/2008, tỷ giá đã có lúc lên tới 19.500 VND/USD (ngày 18/6/2008, cao hơn 2.600 đồng so với mức giá trần); còn trên thị trường tự do tỷ giá này cao hơn khoảng 100-150 đồng. Mặc dù phản ứng còn chậm nhưng Ngân hàng Nhà nước đã có sự can thiệp cần thiết, đẩy tỷ giá giảm mạnh xuống mức 16.400 VND/USD và đến hết q 3/2008, tỷ giá vẫn "loanh quanh" ở mức này. - Sang q 3-4/2008, tỷ giá VND/USD liên tục tăng cao lên mức cao nhất là 16.998 VND/USD. Dù Ngân hàng Nhà nước kịp "nới" biên độ tỷ giá và can thiệp bán ra nhưng USD vẫn giao dịch theo mức giá trên 16.985 VND/USD. Còn trên thị trường tự do, tỷ giá đã thiết lập trên mốc 17.000 VND/USD từ khá lâu. - Sang năm 2009, tỷ giá USD/VNĐ tiếp tục giữ đà tăng trong 4 tháng đầu năm, do hoạt động đầu cơ, găm giữ ngoại tệ của doanh nghiệp và đặc biệt là sau khi Ngân Hàng Nhà Nước thực hiện nới rộng biên độ tỷ giá lên +/-5%. Điều này dẫn đến lượng tệ vào Việt Nam khơng được cung ứng ra thị trường đáp ứng các nhu cầu thanh tốn, mà tập trung trên tài khoản tiền gửi để chờ tỷ giá lên, còn doanh nghiệp thì chuyển sang vay VNĐ để mua ngoại tệ trả nợ vay trước hạn. Đặc biệt, khi chương trình hỗ trợ lãi suất góp phần thu hẹp chênh lệch lãi suất VNĐ và lãi suất USD, người dân chuyển sang gửi ngoại tệ thay vì gửi VNĐ. Số dư tiền gửi ngoại tệ
trong ngân hàng vào cuối tháng 4/2009 tăng 4.52% so với cuối năm 2008, trong khi đó số dư tiền vay ngoại tệ giảm 1.6% tương ứng. - Tới q 3/2009, tình hình ngoại tệ căng thẳng, tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do tăng cao, có thời điểm đã vượt mức hơn 20.000 VND/USD. Các Ngân hàng thương mại rơi vào tình trạng mất cân đối cung cầu USD trầm trọng, rất khó mua USD từ các doanh nghiệp, nếu mua thì cũng phải mua USD giá cao và bán ra cũng phải ở mức giá cao tương ứng, cao hơn nhiều so với mức giá niêm yết. Tín dụng tăng trưởng mạnh, với mức tăng trưởng 11 tháng đầu năm 2009 đã vượt 4% so với mục tiêu đề ra cho cả năm 2009. Trước diễn biến phức tạp của ngoại tệ trong thời gian gần đây, Ngân hàng nhà nước đưa ra một loạt các biện pháp điều chỉnh: - Tăng các lãi suất chủ chốt: lãi suất cơ bản tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, lãi suất chiết khấu tăng từ 5%/năm lên 6%/năm, lãi suất tái cấp vốn tăng từ 7%/năm lên 8%/năm. Như vậy trần lãi suất cho vay của các Ngân hàng Thương mại sẽ tăng từ mức 10,5%/năm lên mức 12%/năm. Quyết định này sẽ gián tiếp hạn chế tín dụng bằng cách tăng chi phí vốn của các Ngân hàng thương mại, đồng thời cụng hanc chế việc một số Ngân hàng thương mại sử dụng vốn ở thị trường liên Ngân hàng sai mục đích. - NHNN đã có quyết định điều chỉnh tăng mạnh tỷ giá liên Ngân hàng, đồng thời với việc giảm biên độ tỷ giá đê tác động làm bình ổn tỷ giá sau một thời gian dài căng thẳng. tỷ giá USD/VND trên thị trường ngày 26/11/2009 đã được tăng thêm 927 Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 19 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật đồng so với ngày 25/1109. Như vậy, nếu lấy mức tỷ giá 17.961 VND/USD được niêm yết vào ngày 26/11/09 so sánh thì tỷ giá USD/VND liên ngân hàng đã tăng trên 5% so với đầu năm 2009 và tăng hơn 6% so với đầu tháng 4/2009. Tỷ giá USD/VND từ đầu năm 2008 đến nay (theo giá bán cơng bố tại Vietcombank)
Với việc điều chỉnh tỷ giá USD/VND liên Ngân hàng lên mức 17.961 ngày 26/11/09, giảm biên độ tỷ giá xuống +/-3% thì tỷ giá niêm yết tại các Ngân hàng thương mại sẽ có mức trần là 18.500 d/USD. Sau những biện pháp can thiệp mạnh, thị trường ngoại tệ đã có những chuyển biến tích cực. Giá mua, bán tại các Ngân hàng thương mại đã có mức chênh lệch, USD được mua vào phổ biến ở mức 18.482 VND/USD trong khi giá bán ở mức 18.487 VND/USD. Bên cạnh đó, tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do cũng đã hạ nhiệt đáng kể, từ mức trên 19.900 VND/USD xuống còn khoảng 19.300 VND/USD. Cùng với biện pháp này của Ngân hàng Nhà nước, Bộ tài chính cũng sẽ rà sốt để cân nhắc tăng thuế nhập khẩu và Bộ cơng thương sẽ hạn chế nhập khẩu các mặt hàng khơng cần thiết, nhằm kiềm chế nhập siêu. Nó sẽ có tác động tích cực làm giảm cầu USD, đồng thời cũng sẽ giúp hạ nhiệt căng thẳng cung - cầu ngoại tệ do yếu tố tâm lý gây ra. Đồng thời, đích thân Thủ tướng Chính phủ sẽ chỉ đạo các tập đồn, doanh nghiệpnhà nước bán lại USD cho các Ngân hàng thương mại, theo ước tính thì lượng USD mà các doanh nghiệp nắm giữ trên các tài khoản hiện thời vào khoảng 10,3 tỷ USD, trong đó phần lớn là của các các tập đồn, doanh nghiệp nhà nước. Mặt trái của việc điều chỉnh này: - Việc điều chỉnh sẽ làm cho giá cả hàng hóa trong nước tăng, dẫn tới việc khó kiểm sốt lạm phát, đặc biệt là trong những tháng cuối năm khi nhu cầu mua sắm, tiêu dùng nhiều hơn và cũng là tháng mà giá cả hàng hóa thường biến động tăng cao. Trong tháng 11/2009, chỉ riêng việc tỷ giá USD/VND và giá vàng tăng cao đã là một ngun nhân khơng nhỏ khiến chỉ số CPI của tháng 11/2009 tăng mạnh le6n,55% so với tháng 10/2009 tong bơi cảnh giá hàng hóa trên thế giới vẫn ở mức thấp. Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 20 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật - Ngồi ra, việc liên tục giảm giá đồng nội tệ sẽ ảnh hưởng tới lòng tin của người dân và doanh nghiệp trong nền kinh tế đối với đồng nội tệ, cũng như cơng tác điều hành cùa Ngân hàng nhà nước. Nó khiến các doanh nghiệp gặp phải kho khăn khi kinh
doanh tại một nước có lòng tin vào nội tệ đứng ở mức thấp, cũng như chính sách tiền tệ thường xun thay đổi, khơng hồn tốn đúng như chủ trương điều hành lãi suất cà tỷ giá mà Ngân hàng nhà nước đã tun bố. Hơn nữa, với việc ngun liệu, phụ tùng sản xuất trong nước hiện vẫn nhập khẩu chủ yếu từ nước ngoai, thì việc giảm giá đồng nội tệ cũng sẽ làm tăng chi phí nhập khẩu khi phải thanh tốn bằng ngoại tệ mạnh. - Sự mất lòng tin ở đồng nội tệ khi đồng nội tệ giảm giá trong một thời gian dài cũng sẽ làm gia tăng sự nắm giữ đồng ngoại tệ. Thực chất ở đây là mối quan hệ giữa VND và việc nắm giữ USD, nó ảnh hưởng tới việc huy động vốn VND của các Ngân hàng thương mại, ảnh hưởng tới tăng trưởng tín dụng cho vay bằng VND khi gói hỗ trợ lãi suất kết thúc. Do vậy, việc điều chỉnh giảm giá VND để tỷ giá USD/VND niêm yết tại các Ngân hàng thương mại sát với cung - cầu USD thực tế, hay để kích thích xuất khẩu thì cũng cần phải có các ngưỡng nhất định để hài hòa giữa mục đích tỷ giá niêm yết phản án đúng mối quan hệ cung - cầu USD thực tế, đồng thời cũng giữ vững lòng tin của người dân và doanh nghiệp ở đồng nội tệ và cơng tác điều hành của Ngân hàng Nhà nước. 2- Ảnh hưởng của tỷ giá hối đối đến hoạt động xuất nhập khẩu Xuất nhập khẩu hàng hóa của nước ta trong tháng 11/2009 có dấu hiệu tích cực khi cả xuất khẩu và nhập khẩu cùng đạt mức tăng trưởng dương. Tuy vậy, kim ngạch nhập khẩu vẫn tăng nhanh hơn xuất khẩu và mức nhập siêu được dự báo có thể đạt 1,75 tỷ USD, đưa tổng mức nhập siêu từ đầu năm đến nay lên gần bằng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tình hình cụ thể như sau: Chỉ tiêu Đơn vị tính Thực hiện 11 tháng năm 2008 Ước thực hiện 11 tháng năm 2009 11tháng 09 / 11tháng
08 Số lượng Trị giá Số lượng Trị giá Số lượng Trị giá Tổng trị giá xuất khẩu tr USD 58,017 51,406 88.6% Doanh nghiệp có vốn FDI tr USD 31,981 27,069 84.6% Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu Thủy sản tr USD 4,185 3,928 93.9% Cà phê 1000T 886 1,824 1,022 1,507 115.3% 82.6% Gạo 1000T 4,306 2,713 5,698 2,535 132.3% 93.4% Cao su 1000T 586 1,505 637 1,018 108.7% 67.6% Than đá 1000T 18,600 1,323 22,281 1,174 119.8% 88.7% Dầu thơ 1000T 12,289 9,900 12,670 5,769 103.1% 58.3% Sản phẩm gỗ tr USD 2,555 2,271 88.9% Hàng dệt may tr USD 8,272 8,178 98.9% Giày dép các loại tr USD 4,249 3,572 84.1% Hàng điện tử và linh kiện máy tính tr USD 2,482 2,508 101.0% Tổng trị giá nhập khẩu tr USD 75,051 61,603 82.1% Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 21 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật
Doanh nghiệp có vốn FDI tr USD 25,826 22,417 86.8% Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu Thức ăn chăn ni và ngun liệu 1000T 1,620 1,616 99.8% Xăng dầu 1000T 11,791 10,522 11,864 5,758 100.6% 54.7% Hóa chất tr USD 1,654 1,457 88.1% Phân bón 1000T 2,901 1,429 3,922 1,215 135.2% 85.0% Chất dẻo ngun liệu 1000T 1,574 2,755 2,008 2,552 127.6% 92.6% Sản phẩm từ chất dẻo tr USD 1,060 975 92.0% Gỗ và sản phẩm tr USD 1,022 798 78.1% Vải tr USD 4,104 3,821 93.1% NPL dệt may, da giày tr USD 2,196 1,739 79.2% Thép các loại 1000T 7,743 6,483 9,001 4,903 116.2% 75.6% Sản phẩm từ thép tr USD 1,256 1,207 96.1% Kim loại thường khác 1000T 440 1,674 494 1,449 112.3% 86.6% Đtử, máy tính và linh kiện tr USD 3,405 3,513 103.2% Máy, tbị, dụng cụ, ptùng tr USD 11,831 10,613 89.7% Ơtơ ngun chiếc chiếc 48,395 978 66,299 1,035 137.0% 105.8% Linh kiện, phụ tùng ơtơ tr USD 1,750 1,595 91.1% Về xuất khẩu: Tính chung, kim ngạch xuất khẩu 11 tháng năm 2009 đạt trên 51,4 tỷ USD, giảm 11,4% so với cùng kỳ năm 2008 và bằng 79,6% kế hoạch năm. Trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI (kể cà dầu thơ) đạt gần 27, 1 tỷ USD, chiếm 52,7% tổng kim ngạch xât khẩu chung và giảm 15,4% so với cùng kỳ năm 2008 (nếu khơng tính dầu thơ thì chỉ giảm 3,5%). Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước đạt trên 24,3 tỷ USD, giảm 6,5% so với cùng kỳ năm 2008. Trong dó phải kể đến các mặt hàng nơng sản như: sắn và các sản phẩm từ sắn tăng đến 147%, hạt tiêu tăng 52,4%, gạo tăng 32,3%, chè tăng 27,8%, cà phê tăng 15,3% Bên cạnh đó là các mặt hàng dầu thơ, xăng dầu, thân đá, vàng và đá q cũng tăng. Các nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ yếu khác như dệt may, giày dép, đồ gỗ, dây cáp điệnvẫn tiếp tục giảm sút
kim ngạch, chủ yếu do thị trường bị thu hẹp và giá xuất khẩu giảm mạnh. Như vậy, sau 11 tháng thực hiện, mặc dù Chính phủ cùng các ngành, các cấp và doanh nghiệp đã rất cố gắng nhằm góp phần tăng nhanh khối lượng hàng hóa xuất khẩu, nhưng do giá cả hàng hóa thế giới giảm mạnh nên kim ngạch xuất khẩu vẫn chưa đạt như mong muốn. Dự báo kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả năm 2009 chỉ có thể đạt ở mức khiêm tốn là 6,5 tỷ USD, giảm 9,9% so với năm 2008. Về Nhập khẩu: Mặc dù từ tháng 9 đến nay nhập khẩu qua từng tháng ln đạt mức cao, nhưng tính chung cho cả 11 tháng năm 2009 thì kim ngạch chỉ đạt 61,6 tỷ USD, giảm tới 17,9% so với cùng kỳ năm 2008 và bằng 81,5% kế hoạch cả năm. Trong đó, nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi đạt gần 22,4% tỷ USD, giảm 13,2%, nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước đạt gần 39,2 tỷ USD, gảm 20,4% so với cùng kỳ năm 2008. về hàng hóa, nhìn chung khối lượng của phần lớn nhóm, mặt hàng nhập khẩu chủ yếu đều có mức tăng khá so với cùng kỳ năm 2008 như: ơtơ, phân hóa học, thép, chất dẻo, cao su, bơng, sợi, thức ăn chăn niKim ngạch 11 tháng đầu năm nay vẫn giảm so với cùng kỳ năm 2008, chủ yếu vẫn do giá cả hàng hóa nhập khẩu sút giảm. Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 22 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật Nhập siêu về hàng hóa cả nước tính chung trong 11 tháng tăng lên gần 10,2 tỷ USD, bằng 59,9% so với cùng kỳ năm 2008, nhưng so với kim ngạch xuất khẩu thì mức nhập siêu trên sẽ bằng 19,8%. Với mức nhập siêu như trên và có thể còn cao hơn trong tháng 12 tới thì cả năm có thể vượt qua mức 12 tỷ USD. Tình hình nhập siêu này tiếp tục tác động tiêu cực đến cán cân thanh tốn, tạo sức ép tăng tỷ giá. Bên cạnh đó, nhập siêu giảm so với cùng kỳ thì sức ép đối với cán cân thanh tốn, đối với tỷ giá năm nay khơng phải chủ yếu đến từ nhập siêu, mà đến từ các yếu tố khác, trong đó có việc giảm nguồn cung từ đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp nước ngồi, kiều hối, du lịch, và quan trọng hơn là tình trạng găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp và cá nhân cùng với tâm lý lo ngại sự mất giá của đồng tiền quốc gia.
Vì vậy, cần phải có giải pháp hạn chế việc găm giữ ngoại tệ, tác động vào tâm lý là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu để giải toả áp lực đối với tỷ giá; còn nhập siêu ngồi yếu tố tỷ giá còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, trong đó có yếu tố về cơ cấu, về thị trường, về giá cả và quan trọng nhất là hiệu quả sức cạnh tranh của sản xuất trong nước. Tỷ giá tăng có thể làm cho lượng xuất khẩu tăng, nhưng lại làm cho giá nhập khẩu tăng kép (vừa tăng do tính giá bằng USD, vừa tăng do tính bằng VND khi tỷ giá VND/USD tăng). Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 23 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật PHẦN III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 1- Về cơ chế, chính sách ngoại hối: Thị trường ngoại hối Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh nên việc phát triển và hồn thiện nó theo hướng tồn diện và hiện đại phù hợp với trình độ và chuẩn mực quốc tế là một đòi hỏi cấp bách. Để thị trường ngoại hối được phát triển thì ngồi việc thực hiện các giải pháp chung như: - Tiếp tục đổi mới chính sách tỷ giá theo hướng tỷ giá hình thành một cách khách quan trên cơ sở cân bằng cung cầu ngoại tệ trên thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước. - Phát triển mạnh mẽ thị trường ngoại tệ liên ngân hàng song song với việc hồn thiện và phát triển thị trường tiền tệ liên ngân hàng. - Mở rộng và phát triển thị trường tiền tệ liên ngân hàng trên cơ sở hiện đại hóa và cơng nghệ hóa các giao dịch v.v thì còn cần có các giải pháp sau: - Hồn thiện các văn bản pháp quy bảo đảm các họat động giao dịch ngoại hối diễn ra ở thị trường là hợp pháp và có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn đầu cơ, lũng đoạn thị trường để thu lợi gây ra rối loạn thị trường và nền kinh tế. Pháp lệnh Ngoại hối tuy đã được ban hành và phát huy một số tác dụng nhất định nhưng vẫn chưa Luật hóa được các hoạt động giao dịch ngoại hối
- Nâng cao vai trò của NHNN trên thị trường ngoại hối, ngồi chức năng tổ chức và quản lý thị trường ngoại hối, NHNN còn cần thực hiện tốt chức năng người mua, bán cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, bảo đảm cung cầu ngoại tệ ln cân bằng. NHNN cần có những chính sách cân đối giữa ngoại tệ và VND hợp lý. Thời gian vừa qua, lượng ngoại tệ đổ về VN ngày càng nhiều, các NHTM dư 1 lượng lớn USD vào cuối ngày dẫn đến trạng thái ngoại tệ vượt q mức cho phép. Tuy nhiên NHNN đã khơng thực hiện được việc mua vào để cân bằng trạng thái cho các NHTM, điều này dẫn đến việc các NHTM phải tìm các biện pháp tiêu cực để cân trạng thái ngoại tệ cuối ngày của Ngân hàng mình. - Luật hóa các hoạt động trên thị trường ngoại hối bao gồm các hoạt động đầu tư, vay và cho vay bảo lãnh, mua và bán các giao dịch khác về ngoại hối. - Tạo mơi trường thơng thống cho mọi người và tổ chức kinh doanh có nhu cầu thanh tốn và đưa ngoại tệ ra nước ngồi một cách chính đáng thì đều được đáp ứng đầy đủ và được phép, khơng bị cản trở hay gây phiền hà. Giải pháp này được thực hiện sẽ giúp tạo một mơi trường pháp lý thơng thống hơn cho hoạt động kinh doanh ngoại hối. Vai trò của NHNN được nâng cao, Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 24 Thò trường ngoại hối - Thực trạng & Giải pháp GVHD : TS. Diệp Gia Luật đủ để đảm nhận vai trò là tiếng nói quyết định trong việc đảm bảo cung cầu ngoại tệ trên thị trường trong nước. 2- Về cơng tác quản lý ngoại hối: - Quản lý tốt dự trữ ngoại hối, tăng tích lũy ngoại tệ: Mức dự trữ ngoại tệ bao nhiêu ln là vấn đề được các cơ quan quản lý bàn thảo. Nếu dự trữ q lớn cũng là một trong những yếu tố dẫn đến lạm phát, mặt khác chi phí cho việc dự trữ khối lượng tiền q lớn cũng rất tốn kém. Ngược lại, nếu nguồn dự trữ khơng bảo đảm khả năng thanh tốn các khoản nợ đến hạn cũng rất nguy hiểm, vì dự trữ ngoại tệ là sự phương tiện cuối cùng của nền kinh tế quốc gia, nhằm mục đích phòng vệ khi an ninh tài chính bị đe doạ, giảm thiểu nguy cơ
khủng hoảng kinh tế có thể xảy ra. Để xử lý bài tốn này, các quốc gia đang phát triển thường sử dụng tiền dự trữ đầu tư vào trái phiếu chính phủ Mỹ - một trong những loại trái phiếu chính phủ an tồn nhất, nhưng lại có lãi suất rất thấp. Việt Nam với qui mơ dự trữ hiện tại chưa phải là q mức (khoảng 12 tuần nhập khẩu) nhưng cũng có tốc độ tăng trưởng mạnh trong mấy năm gần đây, nên cũng cần có một số đổi mới trong cơng tác quản lý dự trữ ngoại hối theo hướng nâng cao hiệu quả đầu tư dự trữ ngoại hối thơng qua việc xây dựng tiêu chuẩn, lựa chọn cơ cấu dự trữ ngoại tệ theo thơng lệ quốc tế. Việt Nam cần phải đa dạng hố nguồn dự trữ ngoại tệ thơng qua việc đầu tư vào nhiều loại trái phiếu chính phủ khác nhau. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng nên nghiên cứu mơ hình đầu tư một phần dự trữ vào các kênh khác để tối ưu hố hiệu quả đồng tiền dự trữ, tăng cường cơng tác quản lý rủi ro nhưng vẫn phải đáp ứng được các mục tiêu quản lý của dự trữ ngoại hối như an tồn và thanh khoản. Thực tế ở Việt Nam hiện nay, Bộ Tài chính vẫn quản lý một phần ngoại tệ để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của Ngân sách nhà nước. Một số ý kiến cho rằng, theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, ngân sách nhà nước có cả nguồn thu và chi bằng ngoại tệ nên việc Bộ Tài chính giữ lại ngoại tệ để chi là hợp lý. Tuy nhiên, việc phân tán trong quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước sẽ khơng tạo thuận lợi cho Ngân hàng Nhà nước trong việc bảo đảm khả năng thanh tốn quốc tế và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Trong thời gian trước mắt vẫn xem đồng USD có vị trí quan trọng trong dự trữ ngoại tệ của mình nhưng cũng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để phòng tránh rủi ro khi USD bị mất giá. - Xây dựng chính sách phát triển xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, chỉ nhập những hàng hóa cần thiết cho nhu cầu sản xuất và những mặt hàng thiết yếu trong nước chưa sản xuất được. - Nới lỏng tiến tới tự do hóa trong quản lý ngoại hối, hoạt động này bao gồm việc giảm dần tiến đến loại bỏ sự can thiệp trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước trong việc xác định tỷ giá, xóa bỏ các qui định mang tính hành chính trong kiểm sốt ngoại
hối, thiết lập tính chuyển đổi cho đồng tiền Việt Nam. Nhà nước chỉ thực hiện vai trò điều tiết khi cần thiết. - Về các cơng cụ trong điều hành, quản lý: Nhóm thực hiện: Nhóm 4 Trang 25