Chỉ ra điểm khác biệt giữa truyện cười và ca dao hài hước

A. TRUYỆN NGỤ NGÔN

I. KHÁI NIỆM VÀ NGUỒN GỐC TRUYỆN NGỤ NGÔN

1. Khái niệm:

Truyện ngụ ngôn là truyện kể có tính chất thế sự, dùng cách ẩn dụ để thuyết minh cho một chủ đề luân lý, triết lý một quan niệm nhân sinh hay một nhận xét về thực tế xã hội

2. Nguồn gốc truyện ngụ ngôn

Một bộ phận truyện ngụ ngôn bắt nguồn từ truyện loài vật. Trong quá trình sống gần gũi với tự nhiên và chưa hoàn toàn tách mình ra khỏi tự nhiên, người cổ đạị đã từng quan sát, tìm hiểu các con vật(để dễ săn bắt và tự vệ) . Cũng do sự phân biệt giữa con người và tự nhiên chưa rõ ràng nên người ta đã gán cho mọi vật tính cách của con người. Truyện loài vật ra đời trên cơ sở đó. Khi con người có ý thức mượn truyện loài vật để nói về con người thì truyện ngụ ngôn xuất hiện.

Truyện ngụ ngôn có liên quan đến cách nói bằng hình tượng của nhân dân. Trong cách nói của mình, nhân dân thường dùng những sự vật cụ thể, những so sánh, ví von để diễn đạt cái trừu tượng( chẳng hạn cách nói ngu như bò, nhanh như cắt…Khi lối nói tỉ dụ về sự vật, con vật cụ thể nầy chuyển thành tỉ dụ có tính chất thế sự thì truyện ngụ ngôn ra đời.

II NỘI DUNG TRUYỆN NGỤ NGÔN:

1. Truyện ngụ ngôn có nội dung đã kích giai cấp thống trị.

Truyện ngụ ngôn được nhân dân dùng làm vũ khí đấu tranh chống giai cấp thống trị. Bộ phận truyện này nêu lên được những nhận xét sâu sắc về tầng lớp thống trị trong xã hội cũ: đó là thói ngang ngược của kẻ quyền thế (Khi chúa sơn lâm ngả bệnh) tội cướp của hại người (Chèo bẻo và ác là) thói đạo đức giả của chúng (Mèo ăn chay).

2 . Truyện ngụ ngôn phê phán thói hư tật xấu của mọi người.

Truyện ngụ ngôn cũng là tiếng nói giáo dục, phê bình nhắm vào các thói hư tật xấu của con người như: thói huênh hoang đi kèm với bệnh chủ quan (Ếch ngồi đáy giếng) , tính tham lam vô độ (Người nông dân và con lừa , Thả mồi bắt bóng) thói đoán mò của người kém hiểu biết (Cà cuống với người tịt mũi).

3. Triết lý dân gian trong truyện ngụ ngôn.

Truyện ngụ ngôn nêu lên những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn cuộc sống. Những kinh nghiệm nầy tuy chưa là ý niệm triết học đích thực nhưng là những bài học bổ ích. Chẳng hạn, truyện ngụ ngôn khuyên con người nên đứng đúng vị trí của mình (Qụa mặc lông công) , sống cần có lập trường (Ðẽo cày giữa đường) tác hại của óc xa rời thực tế (Chị bán nồi đất) nêu lên sức mạnh của sự đoàn kết (Chuyện bó đũa).

Có những kinh nghiệm sống của nhân dân đã được truyện ngụ ngôn khái quát lên thành những quan niệm triết học. Ðó có thể là quan niệm về tính tương đối của sự vật hiện tượng trong tự nhiên và xã hội (Mèo lại hoàn mèo) sự vận động và phát triển của thế giới theo qui luật khách quan…Chính vì vậy mà so với cổ tích và truyện cười thì truyện ngụ ngôn thiên về giáo dục hơn.

III. MẤY NÉT VỀ THI PHÁP TRUYỆN NGỤ NGÔN

1. Cốt truyện và kết cấu:

Truyện ngụ ngôn là câu chuyện kể có tính chất thế sự . Tuy nhiên cốt truyện của truyện ngụ ngôn khác với cổ tích ở chỗ: Cuộc đời trong ngụ ngôn gần với hiện thực hơn trong khi cuộc đời trong cổ tích gắn với lý tưởng và ước mơ

Kết cấu truyện ngụ ngôn thường ngắn, ít tình tiết thường mỗi truyện chỉ một tình tiết trong khi câu chuyện cổ tích thường có đầu có đuôi. Nét đặc biệt trong kết cấu của truyện ngụ ngôn là phần truyện kể nổi lên còn phần ý nghĩa lắng đọng lại mà người đọc tự rút ra.

2. Nhân vật:

Nhân vật trong ngụ ngôn rất đa dạng, có thể là bất cứ cái gì trong vũ trụ: từ con người , thần linh đến loài vật, cây cỏ …Nhân vật trong truyện ngụ ngôn được xây dựng qua sự đối lập giữa thông minh và ngu ngốc, tốt bụng và xấu xa, bé nhỏ và to lớn (Voi và kiến) Tác giả dân gian cũng dùng biện pháp phủ định để khẳng định trong xây dựng nhân vật ngụ ngôn (Ðẽo cày giữa đường)

3. Biện pháp ẩn dụ:

Truyện ngụ ngôn thường dùng những ẩn dụ thông qua ngôn ngữ hàm súc. Tác giả dân gian còn miêu tả đặc điểm phổ biến của các con vật để biểu trưng cho con người . Từng con vật tiêu biểu cho từng loại người trong xã hội. Chẳng hạn, cáo xảo quyệt, mèo giả dối …

Nói về ca dao hài hước, châm biếm, có ý kiến cho rằng: “Cùng với truyện cười về sinh hoạt, những bài ca dao hài hước,...”. Bằng hiểu biết của mình về ca dao hài hước, châm biếm Việt Nam, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên

Posted in Lớp 12 On Tuesday, May 7, 2019

Nói về ca dao hài hước, châm biếm, có ý kiến cho rằng: “Cùng với truyện cười về sinh hoạt, những bài ca dao hài hước, châm biếm đã thể hiện tập trung các nét đặc trưng của nghệ thuật trào lộng Việt Nam nhằm tạo ra tiếng cười giải trí và phê phán những thói hư tật xấu, những hạng người đáng cười trong xã hội”. Bằng hiểu biết của mình về ca dao hài hước, châm biếm Việt Nam, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

Dàn ý chi tiết

I. Mở bài

Ca dao hài hước, châm biếm chiếm một vị trí đáng kể trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam.

Trích dẫn ý kiến trên.

II. Thân bài

1. Nội dung cảm xúc và chủ đề của ca dao Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Bên cạnh những bài ca dao yêu thương, tình nghĩa và những bài than thân, còn khá nhiều bài ca dao hài hước, châm biếm.

Chỉ ra điểm khác biệt giữa truyện cười và ca dao hài hước

- Góp phần tạo nên tiếng cười trong văn học dân gian có truyện cười, hò, vè sinh hoạt...; những bài ca dao châm biếm, hài hước góp thành một mảng riêng, đặc sắc.

2. Tiếng cười trong ca dao hài hước, châm biếm mang đặc trưng của nghệ thuật trào lộng dân gian. Tiếng cười trong nghệ thuật dân gian khác với tiếng cười trong các loại hình nghệ thuật bác học. Tiếng cười ấy khỏe khoắn, gắn bó với đời sống hằng ngày của dân lao động; có sự hồn nhiên, tươi vui để giải trí, giải khuây cho chính người lao động, nhưng đôi khi cũng mang tính chất phê phán các thói hư tật xấu, những đối tượng đáng cười trong xã hội.

3. Tiếng cười mang tính giải trí trong ca dao hài hước, châm biếm:

Đời sống của người dân Việt ngày xưa vất vả, khó nhọc, tiếng cười cất lên nhằm làm cho cuộc sống tươi vui, đỡ nhọc nhằn. Nó không nhằm phê phán, đả kích ai.

- Một kiểu nói khoác cho... vui vẻ:

Ở đâu mà chẳng biết ta?

Ta con ông Sấm, cháu bà Thiên Lôi.

Xưa kia ta ở trên trời,

Đứt dây rơi xuống làm người trần gian.

- Trong nội bộ nhân dân, nếu cần chê, người dân quê tặng cho một tiếng cười, cười nhưng không ai giận, chẳng ai ghét:

Bắc thang lên đến cung mây,

Hỏi sao Cuội phải ấp cây đa cả đời?

Cuội nghe thấy nói, Cuội cười:

- Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc đa.

4. Tiếng cười mang tính phê phán trong ca dao hài hước, châm biếm:

Người dân lao động phải vất vả quanh năm nhưng lại bị áp bức, khổ cực. Trái lại, nhiều kẻ ăn trắng mặc trơn đóng vai “phụ mẫu” của dân rồi sống bằng sự lừa lọc những người cả tin..., kẻ không đáng gì mà ra vẻ đạo đức... Nhân dân phê phán tất cả những hiện tượng, con người ấy.

- Nhẹ nhất là những trường hợp nhát gan, lười biếng, siêng ăn nhác làm:

Làm trai cho đáng nên trai

Một trăm đám cỗ chẳng sai đám nào.

Làm trai cho đáng nên trai

Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng.

Chỉ ra điểm khác biệt giữa truyện cười và ca dao hài hước

- Những người làm nghề bói toán, lợi dụng sự cả tin của người khác:

Hòn đất mà biết nói năng,

Thì thầy địa lí hàm răng chẳng còn.

- Cao hơn nữa là địa chủ, quan lại phong kiến:

Từ nay tôi kệch đến già,

Tôi chẳng dám cấy ruộng bà nữa đâu.

Ruộng bà vừa xấu vừa sâu,

Vừa bé hạt thóc, vừa lâu đồng tiền.

Từ ngày Tự Đức lên ngôi:

Cam chẳng thấy nồi, trẻ khóc như ri.

Bao giờ Tự Đức chết đi,

Thiên hạ bình thì lại dễ làm ăn.

5. Tiếng cười trong ca dao hài hước, châm biếm nói riêng không có những hình thức nghệ thuật mang tính ước lệ của văn chương bác học. Rất hiếm khi gặp điển cố, điển tích trong ca dao dân ca. Nếu có, đó là những điển tích ai cũng biết, ai cùng hiểu. Trái lại, ca dao hài hước, châm biếm sử dụng nhiều thủ pháp quen thuộc để tạo nên tiếng cười:

- Đối lập:

Nói thi đâm năm chém mười,

Đến bữa tối trời chẳng dám ra sân.

- Ngoa dụ:

Làm trai cho đáng lên trai,

Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng.

- Chơi chữ:

Anh hùng là anh hùng rơm,

Ta cho mồi lửa hết cơn anh hùng.

Các hình thức nghệ thuật trên thường kết hợp với nhau để tạo nên cách nói mỉa mai châm biếm nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, hoặc cần thiết thì đả kích không thương xót.

Bài viết liên quan

Chỉ ra điểm khác biệt giữa truyện cười và ca dao hài hước

Quan niệm của em về lối sống giản dị của một con người có văn hóa

Chỉ ra điểm khác biệt giữa truyện cười và ca dao hài hước

Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Chỉ ra điểm khác biệt giữa truyện cười và ca dao hài hước

Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi: Mùa thu nay khác rồi... Những buổi ngày xưa vọng nói về

Chỉ ra điểm khác biệt giữa truyện cười và ca dao hài hước

Bình luận câu tục ngữ “Anh em khinh trước, làng nước khinh sau”

Chỉ ra điểm khác biệt giữa truyện cười và ca dao hài hước

Phân tích nhân vật cô Hiền trong truyện Một người Hà Nội của nhà văn Nguyễn Khải

Chỉ ra điểm khác biệt giữa truyện cười và ca dao hài hước

Trong bài thơ Giải đi sớm của Hồ Chí Minh, hình ảnh người tù bị giải đi sớm đã hóa thành nhà thơ đi dưới bầu trời hồng rực rỡ với hồn thơ đang chín ở trong lòng. Qua bài thơ, hãy làm rõ hình ảnh trên

Viết bình luận

Họ tên

Địa chỉ email

Nội dung

So Sánh Truyện Ngụ Ngôn Và Truyện Cười | Giống, Khác Nhau

4 Tháng Mười, 2021 0 Doãn Rần

Văn học Việt Nam luôn đa dạng và phong phú với các thể loại truyện. Tuy nhiên, chính sự khác nhau cơ bản của chúng lại khiến cho các bạn học sinh phải đau đầu tìm kiếm câu trả lời. Trong bài viết hôm nay, chúng tôi xin gửi đến bạn nội dung so sánh truyện ngụ ngôn và truyện cười chính xác nhất. Mời bạn đọc theo dõi!

SOẠN BÀI CA DAO HÀI HƯỚC, ngắn 1

Câu 1.

Đây là lời đối đáp vui đùa của nam nữ thường thấy trong ca dao. Nó đem đến tiếng cười và hàm chứa một ý nghĩa văn sâu sắc.
- Hỏi cưới là việc hệ trọng cả đời vậy mà chàng trai trong bài ca dao lại sử dụng những hình ảnh tự trào hài hước: dẫn voi, dẫn trâu, dẫn chuột,….
- Lời dẫn cưới của chàng trai trong 6 câu đầu:

Cưới nàng anh toan dẫn voi

Dẫn con chuột béo mời dân, mời làng

- Lời thách cưới của cô gái: một nhà khoai lang
🡺 Cách đối đáp đầy hài hước của đôi trai gái trong lời dẫn cưới và thách cưới cho ta thấy niềm lạc quan, yêu đời, vui trong cảnh nghèo khó của đôi trai gái
- Biện pháp được sử dụng trong bài ca dao là: nói quá kết hợp với lối nói khoa trương , lối diễn đạt đối lập.

Câu 2.

Tiếng cười trong 3 bài ca dao 1, 2 và 3 là tiếng cười phê phán, châm biếm những thói hư tật xấu của một bộ phận người trong xã hội.

- Sự khác nhau trong mỗi tiếng cười

  • Bài ca dao 2: vận dụng biện pháp đối lập giữa sức trai với khả năng “khom lưng chống gối, gánh hai hạt vừng”.
  • Bài ca dao 3: Vận dụng biện pháp nói quá, đối lập để chế giễu kiểu đàn ông lười nhác, không có ý chí
  • Bài ca dao 4: Vận dụng biện pháp nói quá để chế giễu loại phụ nữ vô duyên, thiếu tế nhị trong xã hội

Câu 3.

Ca dao hài hước thường sử dụng các biện pháp nghệ thuật như sau:
- Cường điệu, phóng đại
- Hình ảnh đối lập
- Ngôn từ mỉa mai, châm biếm

1. Khái niệm truyện cười

Cũng như những thể loại tự sự dân gian Việt Nam khác, truyện cười khá phong phú và đa dạng. Không thể không thừa nhận mối quan hệ khó phân định rõ ràng giữa truyện cười và một số thể loại tự sự dân gian khác như ngụ ngôn, cổ tích sinh hoạt (Điều này chúng tôi đã điểm qua khi đề cập đến thể loại cổ tích). Theo ông Hoàng Tiến Tựu, thuật ngữ truyện cười đã được giới nghiên cứu sử dụng như một thuật ngữ chuyên môn khoảng 4 thập kỷ nay để chỉ tất cả các hình thức truyện kể dân gian có tác dụng gây cười (như tên gọi của nó), lấy tiếng cười làm phương tiện khen chê và mua vui giải trí.

Nói đến những chức năng cơ bản như trên của truyện cười, thiết nghĩ cũng nên điểm qua một số tên gọi đi kèm theo chức năng ấy không thể tách rời. Đó là những thuật ngữ như truyện khôi hài, truyện tiếu lâm, truyện trào phúng, truyện châm biếm, đả kích, truyện Trạng… Tuy nhiên, nếu tiếp cận vào kho tư liệu phong phú của truyện cười, ta sẽ thấy mỗi một thuật ngữ vừa nêu, theo như tên gọi của nó, gắn với một tiểu loại truyện cười khác nhau.

Ví dụ như truyện khôi hài gắn liền với những truyện gây cười vô thưởng vô phạt, cười chỉ để cười, chất mua vui giải trí theo kiểu “một nụ cười mười thang thuốc bổ” chủ yếu để mang lại cho đời sống những niềm vui – có thể không sâu sắc – nhưng ít nhiều làm vơi bớt gánh nặng cơm áo nhọc nhằn của người dân lao động.

Truyện trào phúng, châm biếm, đả kích… thì đã đặt ra vấn đề phê phán. Tiếng cười vì vậy, không chỉ đơn thuần là tiếng cười giải trí mà đã có ý nghĩa xã hội hàm chứa bên trong. Nhưng như ý nghĩa của các từ châm biếm, trào phúng, đả kích cũng ít nhiều khác nhau về tính chất, mức độ, đối tượng. Có thể hiểu rằng tiểu loại này sẽ nhắm đến nhiều nội dung cười khác nhau, theo mức độ từ thấp đến cao, đối tượng từ cùng giai cấp đến các lực lượng giai cấp đối kháng. Đó có thể là những điều chưa tốt, chưa đẹp trong nội bộ nhân dân mà dân gian cười để xây dựng một nền tảng đạo đức hoàn thiện. Đó cũng có thể là những thói hư tật xấu của một bộ phận đại diện cho chế độ phong kiến – như những quái thai mà xã hội phong kiến đã đẻ ra. Ở đây là hình ảnh của các thầy đồ, thầy bói, thầy lang và cả thầy chùa. Tiếng cười như sự mỉa mai sâu cay mà thâm thúy nhằm gạn đục khơi trong để thanh lọc xã hội, trở về với những chuẩn mực rực rỡ lấp lánh của một thời đại phong kiến hoàng kim trong quá khứ. Và không dừng ở đó, tiếng cười của nhóm truyện này còn vạch mặt chỉ tên cả những ngôi vị đáng trọng nhất của cái gọi là xã hội phong kiến đương thời – bọn quan lại sâu dân mọt nước, bọn vua chúa bất tài vô dụng…

Còn nói đến truyện tiếu lâm thì có người chiết tự chữ Hán để giải thích rằng đó là “rừng cười” (Tiếu là cười, lâm là rừng?). Nhưng trong quá trình diễn xướng của loại truyện này, mỗi khi người kể bắt đầu cất lời cho “truyện tiếu lâm” của họ, tức là người nghe chuyện sắp được nghe những câu chuyện mà tính “tục” rất đậm đặc và tính chất “tục” của truyện trở thành thủ pháp chính để gây cười.

Thuật ngữ truyện Trạng là nói đến danh từ dùng theo thói quen của nhân dân. Nghĩa của thuật ngữ này cũng khá phong phú. Dựa vào các tài liệu nghiên cứu, ta có thể khái quát thành ba nét nghĩa như sau. Thứ nhất, truyện Trạng nhằm chỉ chung tất cả những mẩu chuyện mang tính giai thoại về những ông Trạng nổi tiếng có thực hoặc được coi là có thực (bao hàm cả những truyện Trạng nghiêm túc, không hề có yếu tố gây cười). Thứ hai, nét nghĩa hẹp hơn là chỉ những truyện kể hài hước về những nhân vật chính là Trạng. Cuối cùng, nghĩa cụ thể hơn của từ này là để chỉ chung tất cả những mẩu giai thoại hài hước về các nhân vật nổi tiếng ở địa phương, bao gồm cả những ông Trạng có thật trong lịch sử, cả những ông Trạng do nhân dân phong tặng hay cả những người nổi tiếng về tài kể chuyện hài hước như thể mình là người đã trải qua, đã từng chứng kiến. Chưa nói đến một số người còn hiểu ở nghĩa hẹp rằng truyện Trạng là những truyện nói khoác, bốc phét (những truyện dựa trên thủ pháp cường điệu, ngoa dụ để gây cười, càng phi lý chừng nào, khoác lác chừng nào thì càng gần với truyện Trạng chừng ấy).

Nói như trên để thấy quả thật tìm một định nghĩa để bao quát hết các tiểu loại truyện cười trên thực tế là một việc không đơn giản. Tuy nhiên, ta vẫn có thể xác định những điểm chung nhất về thể loại này – đặc biệt là tiêu chí cơ bản của nó – yếu tố gây cười. Trên tiêu chí này ta thử điểm qua các khái niệm về truyện cười của một số nhà nghiên cứu.

Ông Chu Xuân Diên (SGK10 tập 1) cho rằng Truyện cười dân gian là những truyện kể có dung lượng nhỏ, mô tả những khía cạnh tức cười của các hiện tượng trong cuộc sống (thường là các hiện tượng tiêu cực).

Ông Đỗ Bình Trị (SGK 10 Tập 1- Ban KHXH) diễn giải rõ hơn rằng Truyện cười là những truyện kể làm bộc lộ cái đáng cười ở dạng nực cười của nó để gây cười. Theo ông, cái đáng cười là cái gây ra cái cười. Đó là những hiện tượng mang một loại mâu thuẫn đặc biệt: hình thức bên ngoài có vẻ hợp lẽ tự nhiên nhưng thực chất bên trong là trái tự nhiên; hình thức bên ngoài có vẻ phù hợp với nội dung bên trong, nhưng lại để lộ ra sự không phù hợp. Khi cái đáng cười gây ra cái cười là khi trí óc ta phát hiện ra cái đáng cười và truyện cười thực chất là truyện được sáng tác ra để cười. Từ đó, ông kết luận rằng, cái cười hài hước, cái cười châm biếm là sản phẩm của nhận thức lý tính. Mục đích mua vui và phê phán nằm ngay ở bản thân cái cười do truyện gây ra. Vậy cũng cần nhấn mạnh rằng, truyện cười có thể là truyện hài hước cốt mua vui, có thể là truyện châm biếm nhằm đả kích, nhưng luôn là sản phẩm của tư duy logic và óc phê phán.

Ông Trần Vĩnh (ĐHSP TPHCM) ví truyện cười như những tấn hài kịch nhỏ, phơi bày những oái oăm trái ngược, phê phán sự nhố nhăng, lố bịch trong xã hội, giúp ta nhận rõ mặt không phù hợp của sự vật, sự việc.

Nói chung tất cả đều cố gắng tiếp cận nội dung, chức năng và đối tượng của thể loại tự sự dân gian này để tìm ra những khái niệm xác đáng nhất về truyện cười. Những khái niệm vừa nêu giúp ta nhận diện rõ hơn thể loại độc đáo này của văn học dân gian. Đó là một thể loại truyện kể dân gian, thường có dung lượng ngắn, chủ yếu khai thác các yếu tố gây cười để mua vui, để phê phán và đả kích những cái xấu, những hiện tượng và đối tượng tiêu cực trong cuộc sống xã hội. Nhưng để có thể tiếp cận truyện cười một cách đầy đủ và cụ thể hơn, chúng ta hãy tìm hiểu về bản chất thể loại của truyện cười.

Truyện cười là gì, phân loại truyện cười

Truyện cười là gì?các thể loại và ý nghĩa của chúng ra sao?Mọi người thường nói “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”, những câu chuyện cười trong cuộc sống hàng ngày mang lại những tiếng cười sảng khoái giúp xua tan mọi buồn đau, vất vả. Còn trong đời sống văn học thì sao?

Chỉ ra điểm khác biệt giữa truyện cười và ca dao hài hước

Truyện cười là gì

Truyện cười là một thể loại nằm trong khối văn học dân gian của dân tộc. Truyện cười Việt Nam có những nét đặc biệt riêng, mượn những câu chuyện hài trong cuộc sống để gây tiếng cười, nhưng đôi khi cũng là những câu chuyện mang tính mỉa mai, châm biếm được khắc họa bằng ngôn ngữ dí dỏm, gây cười.

Truyện cười tồn tại dưới nhiều hình thức. Chúng ta vẫn thường nghe những cái tên như Trạng Quỳnh (Truyện trạng), Truyện tiếu lâm, Truyện khôi hài hay Truyện trào phúng và các giai thoại hài hước…

Truyện cười mang hiện tượng cười

Hiện tượng cười trong truyện cười được hiểu đơn giản là hình thức gây cười của tiếng cười. Trong đó chia làm 2 gồm tiếng cười sinh học và tiếng cười tâm lý xã hội.

Tiếng cười sinh học là do bản thân con người tự phát ra, vì vậy mang tính bản năng, vô thức.

Tiếng cười tâm lý xã hội có thể nói là rất tinh tế và phức tạp. Nó mang hai kiểu cười gồm cười tán thưởng và cười phê phán. Trong đó tán thưởng thể hiện sự yêu thích, mến mộ, đồng tình và biểu dương thì cười phê phán lại là cười châm biếm ở những điểm họ phủ nhận và khinh ghét.

Chủ đề và mục đích truyện cười

Truyện cười Việt Nam với nhiều tên gọi khác nhau, mang những mục đích gây cười khác nhau. Dưới đây là các mục đích gây cười:

Tiếng cười mua vui, giải trí

Nằm trong mục truyện khôi hài, yếu tố giải trí luôn được đặt lên hàng đầu, song song có lồng ghép một vài yếu tố phê phán nhưng rất nhẹ nhàng. Phê phán ở đây là nói về cái ngược đời trong xã hội, những cái lẽ trái tự nhiên của người dân trong thói xấu để lại những lầm lỡ, hớ hênh.

=> Tác dụng: gây cười, giải trí lành mạnh.

Một số truyện khôi hài được biết đến như Ăn vụng gặp nhau, Tay ải tay ai, Tam đại con gà…

Tiếng cười mang tính phê bình, giáo dục

Tính phê bình, giáo dục được thể hiện nhiều trong các câu chuyện trào phúng nhằm phê phán thói hư, tật xấu trong bộ phận nhân dân. Họ mang những bản chất khác (yếu tố trào phúng) ngoài những khía cạnh được khai thác trong các câu chuyện cổ tích hay ca dao.

Một số truyện cười có thể đọc như Áo mới lợn cưới, Sợ quá nói nhiều hay Hội sợ vợ…

Xem thêm >>>Vấn đề phân loại truyện cười

Tiếng cười mang tính đả kích

Truyện cười có yếu tố phê phán cấp bậc cao hơn nhằm đả kích, vạch trần xấu xa, ác độc, thường là mang bản chất của giai cấp trong xã hội phong kiến xưa gọi là trào phúng thù.

Truyện trào phúng phát triển thời kì vua chúa, truyện cười của thầy chùa, thầy lang, thầy pháp… Đặc biệt là hệ thống truyện cười nổi tiếng được biết đến với tên gọi Trạng Quỳnh nhằm phê phán, lên án và mang yếu tố đả kích cao, chĩa mũi giáo vào chính bọn phong kiến vua chúa thối nát.

Một số truyện cười tiêu biểu là Quan huyện thanh liêm, Thần bia trả nghĩa, Chỉ có một con ma, trạng Quỳnh…

Phân loại truyện cười

Dựa theo kết cấu mà phân chia truyện cười thành 2 loại là truyện cười kết chuỗi và truyện cười không kết chuỗi.

Truyện cười kết chuỗi

  • Trạng Lợn: các câu chuyện cười đa số xoay quanh nhân vật trung tâm, là đối tượng gây cười mang tính phê phán
  • Trạng Quỳnh: các câu chuyện của Trạng Quỳnh xoay quanh nhân vật chính là người mưu trí, nhanh nhẹn và thông minh. Qua các tình huống thì bộc lộ tiếng cười mang tính khen ngợi, tán thưởng, dũng cả đối đầu với cái ác.

Truyện cười không kết chuỗi

Chúng ta vẫn thường nghe đến 3 hình thức, tên gọi như truyện tiếu lâm, truyện khôi hài hay truyện trào phúng. Đó đều là 3 loại nằm trong mục truyện cười không kết chuỗi. Đặc điểm để phân loại như sau:

  • Truyện tiếu lâm là những câu chuyện cười trong cuộc sống gây cười mạnh mẽ bởi có yếu tố tục (Đỡ đẻ giỏi nhất đời, Thơm rồi lại thối, Trời sinh ra thế, Đầy tớ…)
  • Truyện khôi hài chủ yếu đem lại tiếng cười mang tính giải trí (Tay ải tay ai, Ba anh mê ngủ…)
  • Truyện trào phúng lại thiên về phê phán những thói xấu, biểu hiện, hiện tượng xấu trong cuộc sống (Lạy cụ đề ạ, truyện Nam mô boong, Phú hộ ngã sông…)

Nghệ thuật gây cười

Nhắc đến truyện cười ngoài yếu tố nội dung gây cười thì còn đặc biệt chú ý đến nghệ thuật của nó để thấy rõ được cái hay được lồng ghép trong mỗi câu chuyện.

– Nhân vật: trung tâm gây cười dựa vào các hành vi ứng xử trong hoàn cảnh cụ thể. Nhân vật không mang một cuộc đời số phận cụ thể như trong các câu chuyện cổ tích hay truyện ngắn mà chỉ là lát cắt trong cuộc sống biểu thị một hành động, thói quen nhỏ có thể gây cười. Vì vậy các câu chuyện cười thường ngắn. Nếu truyện cười xoay quanh một nhân vật trung tâm thì mỗi câu chuyện về họ cũng không cần sâu chuỗi, logic với nhau.

+ Nhân vật trong truyện cười không hẳn là nhân vật trung tâm gây cười mà có thể yếu tố cốt lõi gây cười lại là một nhân vật phụ nào đó.

– Cái hay trong một câu chuyện cười nằm ở kết cấu của nó. Thông thường gồm 3 phần như sau:

  • Phần 1: Giới thiệu về tình huống gây cười, nhân vật xuất hiện
  • Phần 2: Phát triển nội dung đỉnh điểm gây cười (Mâu thuẫn được đẩy lên cao trào)
  • Phần 3: Phơi bày cái đáng cười, câu chuyện kết thúc.

– Các phương pháp gây cười được sử dụng linh hoạt như lấy tiếng nói để gây cười, cử chỉ gây cười, hoàn cảnh gây cười, phóng đại sự việc hoặc sử dụng điều bất ngờ hay yếu tố ẩn dụ, nhân hóa…

Các ví dụ truyện cười

Bệnh lải nhải (tìm trên mạng)

Câu chuyện gây cười được hé lộ ở câu nói cuối cùng của anh chồng. Tưởng chừng như chỉ là cuộc đối thoại bình thường của đôi vợ chồng nhưng tác giả muốn nhắn nhủ đặt địa vị của mình trong vị trí của người khác để hiểu rõ và thông cảm cho đối phương.

Trong cuộc sống phải nhìn nhận vấn đề ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Có như vậy mới tránh việc suy xét vấn đề một cách phiến diện, vội vàng.

Tam đại con gà (tìm trên mạng)

Câu chuyện cười được nhiều người biết đến. Nhắc đến sự dốt nát, không biết gì mà còn giấu dốt mọi người đều nghĩ ngay đến “Tam đại con gà”. Câu chuyện mở đầu giới thiệu một anh chàng dốt nát nhưng lại hay lên mặt. Yếu tố gây cười dần được hé lộ khi anh ta được dân làng mời về dạy trẻ. Đến chữ đơn giản nhất “Kê” là “gà” nhưng thầy lại không biết và dạy học trò là “dủ dỉ là con dù dì”.Thầy còn xin đài âm dương để chứng minh là mình dạy đúng. Đỉnh điểm gây cười ở chỗ đã sai còn ngụy biện, nói cùn “Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà”. Tam đại con gà vì thế mà ra đời.

Qua câu chuyện, tác giả muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng trong cuộc sống đừng quá đề cao bản thân mà giấu dốt sẽ gây tiếng cười mỉa mai, châm biếm.

Trong kho tàng văn học dân gian của nhân loại còn có rất nhiều câu chuyện cười, hài hước mang ý nghĩa sâu sắc khác. Mỗi một câu chuyện sẽ mang đến cho chúng ta những tiếng cười ẩn sau đó là bài học quý giá về cuộc sống. “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”.

Hi vọng với kiến thức truyện cười là gì? phân loại và tác dụng của truyện cười đã giúp các bạn hiểu hơn về thể loại này.

Thuật Ngữ -
  • Khái niệm tục ngữ là gì, nội dung và nghệ thuật của tục ngữ

  • Từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội là gì?

  • Thành ngữ là gì, tác dụng và lấy ví dụ

  • Động từ là gì, cụm động từ là gì ví dụ trong lớp 6

  • Luận điểm là gì, luận cứ là gì, ví dụ trong Ngữ văn 7

  • Nghĩa của từ là gì, cho ví dụ Lớp 6

  • Quan hệ từ là gì, ví dụ kiến thức lớp 5, 6, 7