So sánh hai loại hình ngôn ngữ đơn lập và khuất chiết

Tập hợp câu hỏi và câu trả lời ngành Ngôn ngữ học

MỤC LỤC

Câu 1: So sánh đặc điểm loại hình ngôn ngữ biến hình và loại hình ngôn ngữ đơn lập, cho ví dụ 1

1. Đặc điểm loại hình của ngôn ngữ đơn lập 1

2. Đặc điểm loại hình của ngôn ngữ biến hình 3

Câu 2: Hãy nhận xét sự phát triển của loại hình học: từ loại hình học (LHH) cổ điển đến loại hình học hiện đại 5

I. Loại hình học trong thế kỷ XIX 5

1. Bảng phân loại của F.Schlegel 5

2. Bảng phân loại của A. Schlegel 6

3. Bảng phân loại của Humbold 7

4. Bảng phân loại của A. Schlegel 7

II. Loại hình học đầu thế kỷ XX 8

III. Loại hình học hiện đại 9

So sánh hai loại hình ngôn ngữ đơn lập và khuất chiết
11 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Ngày: 22/01/2014 | Lượt xem: 9382 | Lượt tải: 22
So sánh hai loại hình ngôn ngữ đơn lập và khuất chiết
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tập hợp câu hỏi và câu trả lời ngành Ngôn ngữ học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu 1: So sánh đặc điểm loại hình ngôn ngữ biến hình và loại hình ngôn ngữ đơn lập, cho ví dụ Phân loại ngôn ngữ theo loại hình là cách phân loại căn cứ vào cấu trúc và chức năng của chúng. Kết quả phân loại cho ta các loại hình ngôn ngữ: biến hình, chắp dính, đơn lập, đa tổng hợp. Ở đây ta sẽ đi vào so sánh đặc điểm loại hình ngôn ngữ biến hình (LHNNBH) và loại hình ngôn ngữ đơn lập (LHNNĐL). Nếu phương pháp so sánh - lịch sử hướng vào sự phát triển lịch sử của các ngôn ngữ thành thuộc phương pháp so sánh - loại hình lại hướng vào hiện tại, vào hoạt động của kết cấu ngôn ngữ. Nhiệm vụ trung tâm của phương pháp so sánh này là tìm hiểu những cái giống nhau và khác nhau trong kết cấu của hai loại hình ngôn ngữ này. ta sẽ so sánh các mặt khác nhau của ngôn ngữ như: - Ngữ âm - Từ vựng - Ngữ pháp. 1. Đặc điểm loại hình của ngôn ngữ đơn lập Tiêu biểu cho loại hình này là tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Thái, các tiếng Môn - Khơmer, v.v… Đặc điểm chính của loại hình này là : + Có hiện tượng từ trùng với căn tố. + Có hiện tượng từ không biến hình. + Từ trong câu đều “độc lập” vớ nhau. + Từ bao giờ cũng đơn âm. - Từ không biến đổi hình thái. Hình thái của từ tự nó không chỉ ra mối quan hệ giữa các từ ở trong câu, không chỉ ra chức năng cú pháp của các từ. Qua hình thái, tất cả các từ dường như không có quan hệ với nhau, chúng đứng ở trong câu tương tự như đứng biệt lập một mình. Chính xuất phát từ đặc diểm này mà người ta gọi loại hìn này là “đơn lập”. VD: Thuỷ quân Cà chua - Quan hệ ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp được biểu thị chủ yếu bằng hư từ và trật tự từ. Ví dụ: + Dùng hư từ: Cuốn vở - Những cuón vở đọc - Sẽ dọc đã đọc đang đọc + Dùng trật tự từ: Cửa trước - trước cửa Cả nước - nước cả Nhà nước - nước nhà - Tính phân biệt. Trong các ngôn ngữ này, các từ đơn tiết làm thành hạt nhân cơ bản của từ vựng. Phần lớn những đơn vị được gọi là từ ghép, từ phát sinh được cấu tạo từ các từ dơn tiết này. Vì thế ranh giới các âm tiết thường trùng với ranh giới các hình vị, hình vị không phân biệt với từ và do đó ranh giới giữa đơn vị gọi là từ ghép và cụm từ cũng khó phân biệt. Ví dụ: Tiếng Hán: /Học/sinh/khán/thư/ Tiếng Việt: Học/sinh/đọc/sách/ So sánh với tiếng Nga /y/re/ /ru/m/a/em/ /z/y/ Qua so sánh trên ta thấy về cơ bản tiếng Hán, tiếng Việt rất khác so với tiếng Nga. Ở tiếng Nga hình vị ít khi liên quan đến âm tiết một âm tiết có khi là một phần của hình vị, có khi bằng một hình vị. - Những từ có ý nghĩa đối tượng, tính chất, hành động… không phân biệt nhau về mặt cấu trúc. Tất cả đều được diễn đạt bằng các từ không biến đổi. Ví dụ: “cưa” - dụng cụ để xẻ gỗ. “cưa” - hành dộng xẻ gỗ. Chính vì vậy, một số nhà ngôn ngữ học cho rằng trong các ngôn ngữ đơn lập không có cái gọi là “các từ loại”. 2. Đặc điểm loại hình của ngôn ngữ biến hình Thuộc loại hình này có tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Hy Lạp, tiếng A Rập, v.v… Đặc đểm của loại hình này là: - Có hiện tượng biến đổi của nguyên âm và phụ âm ở trong hình vị, sự biến đổi này mang ý nghĩa ngữ pháp và được gọi là “biến tố bên trong”. Ví dụ: tooth - teeth Tiếng Anh: food - feet (bàn chân) (những bàn chân) Tiếng A Rập: balad - bilọd (làng) (những làng) Tiếng Nga: (thoát khỏi) (thoát khỏ) (thể hoàn thành) Ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp được dung hợp ở trong từ nhưng không thể tách bạch phần nào biểu thị ý nghĩa từ vựng, phần nào biểu thị ý nghĩa ngữ pháp. Chính xuất phát từ đặc điểm này mà người ta goi là các ngôn ngữ “hoà kết” (biến hình) - Ngôn ngữ biến hình cũng có cả các phụ tố. Nhưng mỗi phụ tố có thể đồng thời mang nhiều ý nghĩa và ngược lại, cùng một ý nghĩa có thể diễn đạt bằng các phụ tố khác nhau. Ví dụ: Trong tiếng Nga, phụ tố a trong Pyka biểu thị cả nguyên cách lẫn số ít, phụ tố - e và - u dùng biểu thị số ít, giới cách trong “b cmore” (trong cái bàn) và “ b cmenu” (trong thảo nguyên). Vì thế, các ngôn ngữ biến hình có nhiều cách chia danh từ và động từ. Tiếng Nga hiện đại có 3 cách chia danh từ, 3 cách chia động từ. Tiếng Latinh có 5 cách chia danh từ. - Sự liên hệ chặt chẽ của các hình vị ở trong từ. Mối liên hệ chặt chẽ ngay cả chính tố cũng không thể đứng một mình: Ví dụ: Chính tố Pyk - trong tiếng Nga luôn luôn phải có phụ tố đi kèm theo: Pyka, pyke, pykam, … Trong ngôn ngữ biến hình chính tố được phân biệt với phụ tố. Chính tố: biểu hiện ý nghĩa từ vựng Phụ tố : biểu hiện ý nghĩa ngữ pháp. Ví dụ: Work - Worker Book - books - Trong ngôn ngữ biến hình, từ thường biến đổi hình thái để biểu thị ý nghĩa ngữ pháp: Ví dụ: Cook à cooked (hiện tại) (quá khứ) worh à worhed finish à finished Các ngôn ngữ biến hình có thể được chia ra nhiều kiểu nhỏ là chuyển dạng - phân tích và chuyển dạng - tổng hợp. Các ngôn ngữ tổng hợp có đặc điểm là, những mối liên hệ giữa các từ được biểu hiện bằng các dạng thức của từ chính vì vậy mà trong các ngôn ngữ tổng hợp có các cách khác nhau để diễn đạt mối quan hệ giữa các từ trong câu. Ngược lại ở ngôn ngữ phân tích, mối quan hệ giữa các từ trong câu, đúng hơn trong cụm từ được thể hiện không phải bằng các dạng thức của các từ mà bằng các từ phụ trợ và bằng vị trí của các từ. Hãy so sánh tiếng Nga: Tiếng La tinh: Ngôn ngữ tổng hợp Liber petr -i Tiếng Pháp Le livre de perre (Ngôn ngữ phân tích) Các ngôn ngữ chuyển dạng tổng hợp gồm các ngôn ngữ viết Ấn - Âu cổ (Hy Lạp, La tinh, Slavơ cồ, Sancrit…) và phần lớn các ngôn ngữ Slavơ hiện đại… Các ngôn ngữ chuyển dạng phân tích gồm các tếng Ấn - Âu hiện đại như các tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Anh và tiếng Bungari. Ngôn ngữ đơn lập và ngôn ngữ biến hình là hai loại hình ngôn ngữ chính mà người ta thường nhắc đến. Tất nhiên không phải tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đều nằm vào một trong những loại hình này. Ha loại hình trên đây chỉ ở thể được xem là các loại hình lý tưởng. Qua tìm hiểu so sánh các đặc điểm giữa chúng, ta sẽ hiểu rõ hơn về loại hình ngôn ngữ của thế giới. Câu 2: Hãy nhận xét sự phát triển của loại hình học: từ loại hình học (LHH) cổ điển đến loại hình học hiện đại Ngày nay loại hình học đã trở hàn một ngành đứng ở một vị trí rất then chốt, có liên quan đến rất nhiều ngành khác, một ngành có nội dung nghiên cứu hết sức phong phú và bao gồm rất nhiều hướng đi khác nhau. Nhìn lại lịch sử phát triển của loại hình học ta thấy được những bước tiến đầy thú vị. I. Loại hình học trong thế kỷ XIX Đầu thế kỷ XIX thì ngàn loại hình học bắt đầu phát triển. Thời bấy giờ đối tượng của những sự tìm tòi về mặt loại hình và đối tượng của những tìm tòi về mặt lịch sử so sánh đều lấy từ một kho ngữ liệu như nhau; lấy tiếng Phạn, tiếng Hy Lạp cổ, tiếng La tinh, tiếng Xla-vơ cổ, tiếng Giéc - manh cổ, và lấy từ các ngôn ngữ hiện đại như tiếng Đức, tiếng Xla-vơ, tiếng Lít-va… Thời kỳ này có những nghiên cứu của các nhà loại hình học như: 1. Bảng phân loại của F.Schlegel Trong cuốn sách nổi tiếng của người đứng đầu trang khuynh hướng ngôn ngữ học lãng mạ ở Đức - cuốn “Bàn về ngôn ngữ và tài trí của người Ấn Độ” (1808). F.Schlegel đã đối chiếu tiếng Phạn với tiếng Hy Lạp, tiếng La tinh, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và đi đến kết luận: - Các ngôn ngữ thế giới chia thành 2 loại: loại khuất chiết và loại chắp dính. - Ngôn ngữ nào cũng sinh ra và tồn tại mãi trong một loạil. - Ngôn ngữ thuộc loại khuất chiết thì phong phú, vững bền và sống mái, ngôn ngữ chắp dinh thì tiên thiên bất lúc, nghèo nàn máy móc, cơ giới… *Nhận xét: + Ưu điểm: người ta bắt đầu chú ý đến ngôn ngữ khác ngoài ngôn ngữ Ấn Âu, đó là khả năng ghép các từ. + Nhược điểm: . Sự phân loại thiếu thuyết phuc. . Suy luạn dựa trên cơ sở thấy một bên có, một bên không có, hiện tượng biến hình của căn tố. . Chưa có chỗ đứng cho tiếng Hán. . Chưa phát hiện hết rằng ngay trong các ngôn ngữ khuất chiết cũng có các phụ tố. 2. Bảng phân loại của A. Schlegel Năm 1818, trong cuón “Nhận xét về ngôn ngữ và văn học Prô-văng-xơ” anh của F. Schlegel là A. Schlegel đưa ra một bảng phân loại mới, để tránh những sai sót mà F. Schlegel đã mắc phải . A. Schlegel chia thành: Ngôn ngữ chắp dinh, ngôn ngữ khuất chiết. Ngôn ngữ không biến hình (xác lập trên cơ sở tiếng Hán và các tiếng ở Đông Dương). Loại hình ngôn ngữ khuất chiết cũng được A. Schlegel chia thành: hiện tượng khuất chiết bên trong và hiện tượng khuất chiết bên ngoài. Dựa trên sự có mặt của lưu từ, ông chia làm 2 loại: ngôn ngữ phân tích tính (tiếng Anh) và ngôn ngữ tổng hợp tính (tiếng La tinh, tiếng Nga, tiếng Đức). *Nhận xét: - Ưu diểm: Đề xuất thêm một loạ nữa là ngôn ngữ không biến hình. Tiếng Hán được chú ý đến qua loại hình ngôn ngữ này. Bảng phân loại này được dùng mãi đến tận ngày nay, mặc dù ngày ngày người ta đã có cách hiể khác về loại hình ngôn ngữ đó. -Nhược điểm: Ông đã bỏ qua loại hình ngôn ngữ rập khuôn dựa trên ngôn ngữ của người Thổ dân. 3. Bảng phân loại của Humbold Về cơ bản ông vẫn giữ nguyên 3 loại hình của A. Schlegel nhưng thay tên gọi loại hình của nhóm 3 là: loại hình đơn lập, đồng thời ông bổ sung thêm loại hình ngôn ngữ của người da Đỏ, người châu Phi, đó là loại hình rập khuôn (đa tổng hợp). *Nhận xét: - Ưu điểm: Ông là người đặt nền móng cho ngành loại hình học hiện đại. Là người bổ sung, dần dần đi đến sự hoàn chỉnh cho bảng phân loại. - Nhược: Còn có cách nhìn mà hiện nay chúng ta không thể nào tán thành: + Ông cho rằng đặc điểm loại hình ngôn ngữ phản ánh đặc điểm tâm lý dân tộc, từ quan điểm này khiến cho tâm lý sự khác biệt về ngôn ngữ dẫn đến sự khác biệt về chủng tộc. + Sự phát triển của loại hình ngôn ngữ phản ánh sự phát triển của xã hội loài người nói chung và các dân tộc nói riêng. 4. Bảng phân loại của A. Schlegel Ông là tác giả của lý thuyết nổi tiếng về “hinh cây ngữ hệ”. Ông có đóng góp một bảng phân loại riêng. Ông đã vận dụng nhiều tiêu chuẩn để phân loại: kết hợp cả hình thái và lưu từ, dựa vào đặc tính tổng hợp tính và phân tích tính. Hình thức biểu hiện bằng các ký hiệu gần giống ký hiệu toán học: Ông chia ngôn ngữ thành 3 loại chính: Ngôn ngữ đơn lập, ngôn ngữ chắp dính, ngôn ngữ biến hình: - Ưu điểm: + Đây là bảng phân loại hết sức rõ ràng, lôgic vì vậy mà nó tồn tại đến đầu Thế kỷ 20. + Bước đầu đưa ra được bức tranh về loại hình ngôn ngữ thế giới cụ thể. + Bước đầu xác lập được phương pháp nghiên cứu và phân loại loại hình học ngôn ngữ. + Bước đầu các nhà loại hình học cố gắng giải thích về các đặc điểm loại hình. - Hạn chế: + Không có vị trí dành cho loại hình ngôn ngữ hỗn nhập, là bảng đóng kín, không có khả năng chỉ ra thêm một loại hình mới nào nữa. + Hầu hết dựa trên ngữ liệu của ngôn ngữ Ấn - Âu. + Tiêu chí phân loại còn đơn giản, phần lớn mới chỉ tập trung vào tiêu chí hình thái học. + Các loại hình ngôn ngữ phân biệt nhau quá rạch ròi và những ngôn ngữ chỉ được quy vào một loại hình mà tiếng Nga bản thân nó lại có nhiều loại hình. Kết luận: Trên đây là một giai đoạn có thể cho là giai đoạn đầu trong lịch sử loại hình học. Trong giai đoạn này, những loại hình chính về mặt cấu trúc ngôn ngữ đều đã được phát hiện, và người ta đã phân biệt chúng một cách khá chính xác. Người ta đã thấy sự lặp đi lặp lại đặc trưng của loại hình ở các cấp độ ngôn ngữ khác và cũng đã thấy hiện tượng một ngôn ngữ có thể đồng thời tồn tại nhiều nét khác nhau thuộc các loại hình khác nhau (Ví dụ: F. Schlegel và Humboldt). Tuy nhiên về cơ bản thì các bảng phân loại ở thế kỷ XIX vẫn là những bảng phân loại dựa trên nguyên tắc đơn giản “mỗi ngôn ngữ - một loại hình”, và chưa có nhà nghiên cứu nào phát hiện ra được một cách đầy đủ nguyên nhân vì sao ở ngôn ngữ lại có sự tổ chức thành loại hình như vậy. II. Loại hình học đầu thế kỷ XX Giai đoạn thứ hai trong lịch sử loại hình học là giai đoạn bắt đầu bằng E.Sapir (1884 - 1939). - Tiêu chuẩn phân loại: lấy từ làm đơn vị phân tích các đặc điểm loại hình, trên cơ sở đó lựa chọn các tiêu chí phân loại. - Sapir đã đề xuất 4 loại khái niệm được diễn đạt trong từ của các ngôn ngữ. + Khái niệm cụ thể, diễn đạt bằng căn tố (có ở trong mọi ngôn ngữ). + Khái niệm phát sinh, diễn đạt bằng phụ tố cấu tạo từ (có thể có hoặc không có trong một ngôn ngữ). + Khái niệm nửa cụ thể nửa quan hệ kiểu như Khái niệm về số của danh từ, thời gian của động từ… + Khái niệm quan hệ, tức là Khái niệm về những mối ràng buộc từ này với từ kia ở trong mệnh đề. - Kết quả phân loại cho thấy tính phức tạp và hệ tính hệ thống của các loại hình ngôn ngữ. Khắc phục được hạn chế là mỗi ngôn ngữ chỉ có một đặc điểm loại hình. Cũng đã phản ánh tính đa dạng của các ngôn ngữ thế giới (cả Ấn Âu và Phi Ấn Âu). Đặt dấu nối từ loại hình học cổ điển sang loại hình hiện đại. Tuy nhiên vẫn còn có những nhược diểm như: chưa giải thích rõ lý do lựa chọn và quan hệ giữa các tiêu chí - Trên lý thuyết nhấn mạnh đến tiêu chí Khái niệm nhưng trên thực tế chủ yếu vẫn dựa vào tiêu chí hình thái. Kết luận: Nhưng dù sao bảng phân loại của Sapir vẫn là bảng được đánh giá là tốt nhất, hoàn chỉnh nhất trong số những bảng đã có từ trước. Nhà ngôn ngữ học Tiệp Khắc V.Skalicka thì kết luận rằng công trình của Sapir chính là công trình đã mở lối, giúp chúng ta thoát ra khỏi cái ngõ cụt của loại hình học cổ điển. Có thể nói rằng hầu như không có một nhà loại hình học hiện đại nào là không ít nhiều chịu một phần ảnh hưởng của Sapir. III. Loại hình học hiện đại Có hai khuynh hướng: Loại hình học định tính: bảng phân loại của V.Skalicka Loại hình học định lượng: bảng phân loại Greenberg Skalicka nhấn mạnh đến mối quan hệ qua lại giữa các mặt hình thái, cú pháp, ngữ âm, cấu tạo từ của ngôn ngữ, và chỉ ra rằng cần phải tìm những qui tắc giúp ta từ một hiện tượng này có thể suy đoán ra một hiện tượng khác. Còn phương pháp phân loại của J.Greenberg là chọn một văn bản có độ dài là 100 từ rồi đếm xem thử trong văn bản đó mỗi loại đơn vị, mỗi loại hiện tượng ngữ pháp đã xuất hiện mấy lần. Sau đó là bước tính các chỉ số. Kết quả nghiên cứu của hai nhà loại hình học hiện đại này đã mở ra cho chúng ta loại hình học ngày nay. Loại hình học hiện đại đã bỏ được cách nhìn kỳ thị đứng trước vận động loại hình ngôn ngữ như ở thế kỷ XIX. Họ cho rằng hiện không có cơ sở khoa học khách qun nào để có thể khẳng định rằng loại hình nào phát triển hơn, tiến bộ hơn loại hình nào. Loại hình học hiện đại hết sức coi trọng cơ sở lý luận. Tất cả các nhà loại hình học hiên đại đều đòi hỏi phải định nghĩa một cách hết sức chính xác Khái niệm “loại hình”, phải chỉ ra một cách thật minh bạch các đặc trưng của ngôn ngữ và các tiêu chuẩn phân loại ngôn ngữ, phải tìm ra cho được đơn vị chuẩn có thể dùng để so sanh tất cả mọi ngôn ngữ; phải dựng cho được một hệ thống thuật ngữ và tiền đề càng chính xác càng tốt. Các nhà loại hình học hiện đại đều nhận thức rõ ràng ngôn ngữ là một hiện tượng phức tạp, đứng trước các ngôn ngữ thế giới không chỉ có một khả năng phân loại duy nhất, mà rất có thể có nhiều hướng phân loại khác nhau… Các hướng phân loại khác nhau này sẽ bổ sung cho nhau, và chỉ có thể dựa vào một tổng hợp nhiều hướng nhìn khác nhau như thế thì mới hy vọng phát hiện ra được một cách thật đầy đủ tất cả các đặc trưng loại hình của ngôn ngữ ./. Tập hợp câu hỏi và câu trả lời ngành Ngôn ngữ học MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • So sánh hai loại hình ngôn ngữ đơn lập và khuất chiết
    NNH (69).doc

Phân loại các loại hình ngôn ngữ

Sự phân loại hiện nay thường được nhiều người chấp nhận nhất là sự phân loại các ngôn ngữ trên thế giới thành 4 loại hình: • loại hình khuất chiết • loại hình chắp dính • loại hình đơn lập • loại hình lập khuôn 1. Loại hình khuất chiết. » Xem thêm

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. Phân loại các loại hình ngôn ngữ* Sự phân loại hiện nay th ường được nhiều người chấp nhận nhất l à sự phân loại các ngôn ngữ trên thế giới thành 4 loại hình: • loại hình khuất chiết • loại hình chắp dính • loại hình đơn lập • loại hình lập khuôn 1. Loại hình khuất chiết. Loại hình này còn được gọi là ngôn ngữ hoà kết, ngôn ngữ hình thức, ngôn ngữ hữu cơ. Đặc điểm của loại hình này là: quan hệ ngữ pháp được diễn đạt ở ngay trong bản thân từ nhờ từ có biến hình ở trong câu nói (1). Trong từ – một trong những đơn vị cơ bản nhất của ngôn ngữ loại hình này – có sự đối lập giữa căn tố với phụ tố: căn tố và phụ tố (nói chung là các hình vị trong từ) kết hợp chặt chẽ với nhau, hoà làm một khối: giữa phụ tố và các ý nghĩa mà chúng diễn đạt không có một sự tương ứng đơn giản kiểu một đối một (một phụ tố – một ý nghĩa). Ngôn ngữ thuộc loại hình khuất chiết còn có thể chia nhỏ ra thành: a, Ngôn ngữ tổng hợp, tức là ngôn ngữ có đầy đủ các đặc điểm loại hình vừa nêu trên; b, Ngôn ngữ phân tích, là ngôn ngữ trong đó hiện t ượng biến hình của từ đã có
  2. phần giảm bớt đi, và thay vào đó, người ta dùng hư từ, dùng trật tự từ, dùng ngữ điệu để diễn đạt quan hệ ngữ pháp 2. Loại hình chắp dính Ngôn ngữ thuộc loại hình này còn được gọi là ngôn ngữ niêm kết. Đặc điểm của loại hình này là quan hệ ngữ pháp cũng diễn đạt bên trong từ, trong từ cũng có sự đối lập rõ rệt giữa căn tố và phụ tố; nhưng căn tố ít biến đổi và có thể tách ra dùng độc lập thành từ; còn phụ tố thì kết hợp một cách cơ giới với căn tố, mỗi phụ tố thường diễn đạt một ý nghĩa nhất định (quan hệ 1–1). Loại hình khuất chiết và loại hình chắp dính là hai loại hình đã được xác định từ lâu, ngay từ khi hướng loại hình học mới bắt đầu được hình thành. Hiện nay cũng không có ai nghi ngờ về sự tồn tại của hai loại hình này và cũng không có ai phản bác gì về những ngôn ngữ đã được quy vào hai loại hình này. Từ trước đến nay ai ai cùng đều nhất trí rằng các ngôn ngữ Ấn-Âu (như tiếng Phạn, tiếng Hi Lạp cổ, tiếng Latin, các tiếng Xlavơ (Slavic languages), các tiếng Giecmanh (Germanic languages), các ngôn ngữ tiếng Semitic (như tiếng Do Thái cổ, tiếng Ảrập) đều thuộc loại hình khuất chiết. Hầu hết các dòng trên đây đều thuộc kiểu ngôn ngữ tổng hợp. Thuộc kiểu phân tích, thường người ta chỉ dẫn tiếng Anh hiện đại làm ví
  3. dụ. Riêng một đôi nhà nghiên cứu thì cũng nhập luôn cả tiếng Pháp vào kiểu phân tích ở trong nội hạt loại hình khuất chiết. Còn đối với loại hình chắp dính thì người ta thường nhất trí cho rằng ví dụ điển hình nhất là các ngôn ngữ Thổ Nhĩ Kì, các ngôn ngữ Uran-Antai và một số ngôn ngữ châu Phi kiều như ngôn ngữ Băngtu. 3. Loại hình đơn lập Những ngôn ngữ thuộc loại hình này còn được gọi là các ngôn ngữ không có hình thái, ngôn ngữ không biến hình, ngôn ngữ đơn lập hai ngôn ngữ phân tiết. Ở loại hình này, quan hệ ngữ pháp chỉ được diễn đạt bằn trật tự trước sau của từ và/hoặc bằng các hư từ. Ở loại hình này, từ không có hiện tượng biến hình. Trong một số ngôn ngữ thuộc loại hình này, đơn vị cơ bản là hình tiết: đây là một đơn vị có nghĩa, có vỏ ngữ âm thường trùng với âm tiết, có khả năng vừa dùng như từ vừa dùng như hình vị. Ở loại hình này, người ta thường hay nói đến vấn đề khó xác định ranh giới từ, vấn đề khó phân biệt các yếu tố hư với yếu tố thực cũng như vấn đề mặt cấu tạo từ ít phát triển. Ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập có thể chia nhỏ thành:
  4. a, những ngôn ngữ vừa không có hiện t ượng biến hình từ vừa không có cấu tạo từ, tức là những ngôn ngữ chỉ có căn tố (Hán cổ); b, và những ngôn ngữ không có biến hình từ nhưng có cấu tạo từ: đây l à trường hợp những ngôn ngữ có thân từ (Indonesia). Loại hình đơn lập được xác định ở sau hai loại hình khuất chiết và chắp dính. Người ta biết đến loại hình này sau khi tiếp xúc với văn ngôn Trung Quốc. Trong cách định nghĩa loại hình hiện nay đang còn có chỗ khác nhau, nhưng trong việc quy ngôn ngữ nào vào loại hình này thì người ta lại tương đối thống nhất. Từ trước đến nay bao giờ tiếng Hán cũng được quy vào loại hình này, đặc biệt là Hán cổ đại. Ngoài tiếng Hán, người ta còn kể đến các ngôn ngữ thuộc khu vực Đông Nam Á, ngôn ngữ Aranta ở châu Úc và các ngôn ngữ Eve, Ioruba ở châu Phi. Điểm thường gây tranh luận nhiều nhất ở loại hình này là việc quy các ngôn ngữ vào các kiểu nhỏ: chẳng hạn, đứng trước tiếng Việt hiện đại, có người đem nó xếp cùng tiếng Hán cổ đại và coi là ngôn ngữ căn tố; có người lại coi nó là ngôn ngữ có thân từ. 4. Loại hình lập khuôn Ngôn ngữ thuộc loại hình này đôi khi còn được gọi là ngôn ngữ hỗn nhập hay đa tổng hợp.
  5. Đặc điểm của loại hình này là bên cạnh những đơn vị là từ lại có thể có những đơn vị nửa là từ, nửa là câu. Loại đơn vị "nửa từ nửa câu" này thường được xây dựng trên cơ sở một dạng động từ trong đó bao gồm cả bổ ngữ, trạng ngữ và đôi khi cả chủ ngữ. Loại hình lập khuôn gần gũi với loại hình chắp dính ở nguyên tắc chắp nối hình vị với hình vị; mặt khác nó lại gần gũi với loại hình khuất chiết ở điểm có thể xảy ra hiện tượng biến đổi vỏ ngữ âm của hình vị khi hình vị kết hợp với nhau. Thông thường người ta cho rằng loại hình lập khuôn là lại hình các ngôn ngữ người da đỏ ở châu Mĩ, loại hình của một số ngôn ngữ ở Capcadơ và loại hình của các ngôn ngữ Chukôt, Camchat. Nhưng nhận định này thường hay bị chính các nhà chuyên nghiên cứu các ngôn ngữ này phản bác. Thông thường người ta hay dẫn ra ba cơ sở sau đây để phê phán việc tách các ngôn ngữ lập khuôn thành một loại hình riêng biệt: - Thứ nhất, việc tách ngôn ngữ lập khuôn thành một loại hình riêng biẹt là không logic, không có cơ sở nhất quán: ở loại hình khuất chiết, chắp dính và đơn lập, tiêu chí dùng để phân loại là "phương thức diễn đạt ý nghĩa ngữ pháp" còn ở đây, tiêu chí để xác định loại hình lập khuôn lại là tiêu chí "có kiểu loại đơn vị đặc biệt nửa giống từ, nửa giống câu".
  6. Kể ra, vào đầu thế kỉ XIX, khi Humboldt tác loại hình này thành một loại hình riêng, thì Humboldt cũng có cơ sở logic của mình: ông xuất phát từ khái niệm từ, đối lạp lọi hình không có từ (loại hình đơn lập) với loại hình có từ (từ khuất chiết hay từ chắp dính), do đó trường hợp có đơn vị nửa từ nửa câu nghĩa là "đơn vị phá vỡ ranh giới từ, hoà từ vào câu" ông cũng phải tách riêng. Nhưng hiện nay, giới loại hình học đa số không xuất phát từ khái niệm từ nữa thì cố nhiên việc tách ngôn ngữ lập khuôn thành một loại hình riêng là một việc làm thiếu cơ sở nhất quán. - Thứ hai, loại đơn vị nửa từ nửa câu rất ít khi gặp: chúng chỉ chiếm 2% đến 3% tổng số (trong một văn bản 2000 từ chỉ có độ 40–60 đơn vị lập khuôn; trong một đoạn khẩu ngữ bên cạnh 627 từ chỉ có 9 đơn vị lập khuôn). Thế nghĩa là trong các ngôn ngữ lập khuôn phương thức cấu tạo ra dạng của từ chủ yếu lại là phương thức sử dụng phụ tố, theo lối hạn định. - Thứ ba, đặc trưng của đơn vị lập khuôn là một đặc trưng chưa được xác định rõ: khi thì người ta cho nó nằm ở địa hạt cấu tạo từ (mặc dầu người ta thấy chức năng cú pháp ở các thành tố bên trong đơn vị); khi thì người ta lại cho nó nằm ở địa hạt cấu tạo từ tổ (mặc dù không ai phủ nhận nét gần gũi giữa đơn vị lập khuôn với đơn vị từ); đó là chưa kể đến các ý kiến cho rằng đơn vị lập khuôn là một đơn vị đặc biệt, vừa có tính hình thái, vừa có tính cú pháp.