Vì sao chí phèo muốn làm người lương thiện

Vì sao chí phèo muốn làm người lương thiện? Bài viết sau đây cung cấp cho các bạn dàn ý chi tiết cùng một số bài văn mẫu hay được chọn lọc. Mời các bạn tham khảo!

 

Dàn ý quá trình thức tỉnh của Chí Phèo

1.1. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Nam Cao, tóm lược giá trị tư tưởng của tác phẩm Chí Phèo và dẫn dắt vấn đề: phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo.

1.2. Thân bài

1. Tóm tắt đôi nét về cuộc đời của Chí Phèo trước khi bị tha hóa. 

- Chí Phèo đã từng là một người nông dân lương thiện. 

2. Chí Phèo sau khi ra tù (trước khi gặp Thị Nở)

- Sau khi bị Bá Kiến hãm hại, Chí Phèo bị bắt vào tù

- Nhà tù Thực dân đã biến Chí từ một người nông dân 20 tuổi lương thiện trở thành một người thay đổi cả nhân hình lẫn nhân tính: 

+ Ngoại hình: đầu trọc lốc, răng cạo trắng hớn, mặt cơng cơng, hai mắt gườm gườm, ngực và tay đầy những nét chạm trổ. 

+ Nhân tính: Là kẻ đâm thuê chém mướn cho Bá Kiến, chuyên đi rạch mặt ăn vạ. Là kẻ nát rượu, suốt ngày chìm đắm trong men say. Trở thành tên đầu trâu mặt ngựa khiến nhiều người khiếp sợ.

- Làm tay sai cho Bá Kiến

⇒ Trước khi gặp Thị Nở, Chí Phèo bị coi là “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”

3. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở khiến Chí Phèo  được đánh thức về bản năng, nhân tính. Nhận thức được thế giới xung quanh. Nhận thức về chính bản thân mình.

+ Không ai đáp lại lời chửi của Chí Phèo nên Chí rẽ vào nhà Tự Lãng uống rượu. Khi đã hả hê, Chí Phèo lảo đảo ra về thì bỗng gặp một người đàn bà ngủ quên ở bờ sông gần nhà chính là Thị Nở.

+ Sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, lần đầu tiên thấy Chí Phèo thực sự “tỉnh”. Chí bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài và tỉnh để cảm thấy miệng đắng và “lòng mơ hồ buồn”. Hắn cảm thấy “sợ rượu” 

=> Dấu hiệu của sự thức tỉnh rõ ràng nhất

+ Chí cảm nhận cuộc sống xung quanh: âm thanh của tiếng chim hót, tiếng người cười nói… Hắn tỉnh táo để nhận thức hoàn cảnh của mình, để thấy mình cô độc.

=> Cuộc gặp với Thị đã làm Chí Phèo thực sự tỉnh táo sau những cơn say triền miên

+ Chí Phèo xúc động trước sự quan tâm của Thị Nở vì Thị Nở làm hắn vừa vui vừa buồn: buồn khi nghĩ lại những lỗi lầm của mình; vui vì lần đầu tiên trong cuộc đời hắn được quan tâm, chăm sóc và yêu thương.

Tình yêu thương được thể hiện qua bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy tư bao điều về cuộc sống. Trước sự quan tâm của Thị Nở, Chí Phèo thấy mình trẻ con, muốn làm nũng với Thị.

+ Chí Phèo nhớ về những ước mơ giản đơn của mình ngày trước khi nghe thấy tiếng cười nói vui vẻ của những người xung quanh. Hắn cảm thấy cô độc và nhận ra rằng mình cũng đã già, vẫn khao khát có một cuộc sống giản dị.

+ Chí Phèo thèm lương thiện: Tình yêu của Thị Nở làm hắn nghĩ bản thân có cầu nối để trở về, khiến hắn đủ hi vọng và mong ước có một gia đình: “Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”.

=> Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã đem đến những biến chuyển tâm lí rõ nét trong Chí Phèo. Gặp Thị Nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc chưa hề có trong đời, mang đến niềm vui, niềm hi vọng và mong ước trở về làm người lương thiện trỗi dậy. Thị Nở đã đánh thức con người tốt bụng trước kia của Chí Phèo khiến cho hắn thấy ân hận về những lỗi lầm của mình; sống lại khao khát có một gia đình nhỏ nhoi và mơ tưởng về một tương lai hạnh phúc với Thị.

4. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người một lần nữa của Chí khi tình yêu bị ngăn cấm.

- Bởi chính bà cô Thị không cho Thị qua lại với Chí. Hình ảnh bà cô đại diện cho định kiến xã hội. Những đau đớn thất vọng “rưng rưng khóc” của Chí. Sự thất vọng phẫn uất cùng cực của Chí khi lần nữa bị cự tuyệt với thiện lương.

- Tình yêu bị ngăn cấm bởi bà cô thị Nở, bởi vậy, khi Thị Nở từ chối, Chí Phèo thất vọng và đau đớn: “Ngẩn người”, “ngẩn mặt”: Thái độ biểu thị sự hiểu ra, nhận thức được tình cảnh của mình.  Trông hắn thật đáng thương.

+ Thoáng thấy hương cháo hành: hồi tưởng về tình yêu đã trải qua

+ Chí Phèo mong muốn níu kéo hạnh phúc qua hành động nắm lấy tay Thị Nở.

+ Hắn tìm đến rượu rồi “ôm mặt khóc rưng rức”.  Mong muốn quay trở về làm người lương thiện không thể thực hiện được nữa, Chí đau đớn, tuyệt vọng

5. Cái kết của Chí Phèo khi đến nhà bá Kiến đòi thiện lương

+ Khi bị thị Nở ruồng bỏ, Chí Phèo quay lại bản chất của con người hiện tại, toan cầm dao đi đến nhà thị. Hắn cầm dao vừa đi vừa chửi nhưng “hắn không rẽ vào nhà thị Nở mà thẳng đường đến nhà Bá Kiến và nói thẳng với Bá Kiến: niềm phẫn uất đã khiến Chí Phèo xác định đúng kẻ thù của mình. Hắn đòi cụ bá trả lại lương thiện và cầm dao đâm chết cụ rồi sau đó tự vẫn.

=> Hành động tự kết liễu thể hiện sự phẫn uất và tuyệt vọng đến tột cùng.

 

1.3. Kết bài

Khái quát về nhân vật Chí Phèo cùng với giá trị của tác phẩm. Nhấn mạnh đây là một tác phẩm hiện thực mang tính nhân đạo sâu sắc và khẳng định tài năng của nhà văn Nam Cao trong việc miêu tả và khắc họa tâm lý nhân vật. Cuối cùng, bày tỏ một số cảm nhận của bản thân khi phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo.

 

Bài văn mẫu 1

“Tao muốn làm người lương thiện ! Ai cho tao lương thiện?” Đấy là câu nói của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao , nó khiến cho những ai có lương tri đếu cảm thấy đau lòng, đều phải ưu tư . Những tưởng tâm trạng chua xót , bi thương và bế tắc ấy chỉ có trong truyện Chí Phèo , chỉ có trong thời kỳ trước Cách Mạng Tháng 8-1945, thế mà trong xã hội hiện tại vẫn không có không ít người phải đau đớn thốt lên rằng : “Ai cho tôi làm người lương thiện ? ”

Người xưa đã nói : “Nhân bất thập toàn” . Là con người không ai dám vỗ ngực xưng tên rằng mình là người hoàn thiện, chưa bao giờ gây ra lầm lỗi . Điều quan trọng là ta biết nhìn ra những khuyết điểm , những lỗi lầm của mình để sửa đổi , làm cho hoàn thiện hơn . Chính điều này mới đáng quý , nó cũng thể hiện sức mạnh nội tâm và khả năng làm chủ bản thân của ta , Những ai từng phạm lỗi và biết sửa đổi đều đáng quý , đáng trân trọng .

Hơn nữa hầu hết những người đã từng phạm tội , đã từng gây nguy hại cho người khác , gây bất an cho cộng đồng xã hội đếu có hoàn cảnh đặc biệt . Ta nên hiểu và cảm thông với họ , không nên phân biệt đối xử với họ một khi họ đã quay đầu , đã quyết định đoạn tuyệt với quá khứ lầm lỗi và muốn hoàn lương . Chính sự cảm thông đối xử thân thiện và giúp đở của xã hội sẽ giúp họ tự tin hơn trong cuộc sống , giúp họ xây dựng một cuộc sống hiền lương , góp phần hạn chế giảm bớt số lượng những người tái phạm . Mặt khác khi một người phạm tội . có những hành động bất lương , xã hội không thể đổ hết mọi tội lỗi m trách nhiệm lên người đó , mà phải biết rằng cộng đồng xã hội cũng gánh một phần trách nhiệm trong sự phạm tội của họ . Như chúng ta đã biết việc hình thành nhân cách của con người ngoài yếu tố tự giáo dục , tự rèn luyện của bản thân còn có sự tác động từ môi trường gia đình , nhà trường và xã hội . Trong đó gia đình là môi trường có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến nhân cách đạo đức và nếp sống của mỗi người . Vì vậy , các bậc phụ huynh , những người làm công tác giáo dục và mọi người xung quanh đều có phần trách nhiệm trước những việc làm sai trái , những hành động thiếu đạo đức của những phạm nhân .

Ngày nay trong xã hội chúng ta đang tồn tại định kiến và phân biệt đối xử rất hà khắc đối với những người đã từng phạm pháp . Phần lớn mọi người vẫn luôn nhìn những người đã từng phạm pháp bằng ánh mắt miệt thị , không muốn cộng tác và tiếp xúc với họ . Và sự phân biệt đối xử ấy không chỉ có trong đời sống hằng ngày mà nó còn được cụ thể hóa bằng văn bản . Hãy nhìn vào những tiêu chí , những yêu cầu đới với các ứng viên hầu hết các nhà tuyển dụng trong nước thì chúng ta sẽ thấy rõ điều này . Trong nhiều tiêu chí yêu cầu tuyển dụng có một mục nêu rất rõ ràng rằng : “Không tuyển dụng nhữngngười có tiền án tiền sự , những người đã từng phạm pháp” . Nếu tất cả các nhà tuyển dụng đều áp dụng những điều này thí chẳng khác gì xã hội chúng ta đang đẩy những người đã từng phạm pháp vào bước đường cùng . Chúng ta thử nghĩ , một người không đủ điều kiện để tự kinh doanh , tự kiếm sống phải đi làm thuê , đi kiếm công ăn việc làm , nhưng họ đến đâu cũng bị xua đuổi bị từ chối thì làm sao họ có thể sống được ? Họ lấy tiền đâu ra để chi trả những sinh hoạt phí thường nhật ? Lấy đâu để chin trả những chi phí lúc ốm đau ? Đây là chưa nói đến việc họ còn phải nuôi gia đình , người thân . Trước sự bức bách đấu tranh để sinh tồn như thế thì không còn cách nào khác buộc họ phải làm những việc phi pháp . Không ai dám khẳng định là tất cả những người đã từng phạm pháp khi đã mãn hạn tù , đã thi hành xong bản án đều biết hoàn lương , biết phục thiện . Hẳn nhiên là có những người “ ngựa quen đường cũ” vẫn tiếp tục phạm pháp không chịu sửa đổi , Nhưng ít ra thì cũng có một số người thực sự tỉnh ngộ , họ thấy được tội lỗi của mình muốn được sống tốt để chuộc lại lỗi lầm , để làm lại cuộc đời . Chính sự vô tâm , thiếu trách nhiệm và thiếu sự cảm thông của cộng đồng xã hội đã khiến cho những biết phục thiện ấy phải ngậm đắng nuốt cay , phải chịu nhiều thiệt thòi . nếu như họ có ý chí phấn đấu và có sức kiên định thì phải chịu bầm dập và khổ đau ê chề mới có thể hòa nhập được vào cộng đồng xã hội , kiếm được công ăn việc làm . Còn những ai thiếu ý chí , thiếu sức kiên định thì rất dễ đi đến con đường phạm pháp . Chừng nào xã hội chúng ta còn có sự khinh miệt và phân biệt đối xử với những người đã từng phạm pháp thì chừng ấy con số những phạm nhân tái phạm vẫn còn gia tăng .

Bài văn mẫu 2 

“Tao muốn làm người lương thiện!” nhưng “Ai cho tao lương thiện bây giờ?”… Những khẩn cầu da diết của một anh Chí chuyên đi rạch mặt ăn vạ, sống say xỉn suốt ngày cuối cùng cũng làm lòng người vương chút xót thương. Chỉ tiếc rằng, đến lúc nhận ra đâu là cái thiện, cái ác lại chính là lúc Chí kết liễu cuộc đời mình. Kết cục bi thảm của câu chuyện, khiến người đọc tự đặt ra câu hỏi đầy day dứt: Chí muốn làm người lương thiện, nhưng tại sao lại đi giết người?

Phải chăng nhà văn Nam Cao đã cố tình để “đứa con đẻ” của mình vào hoàn cảnh éo le, để rồi ông phải đau đớn cởi nút thắt ấy bằng chính máu và nước mắt của những người nông dân cùng khổ giống như Chí? Chí là một đứa trẻ mồ côi, không cha không mẹ. Chí chưa một lần được biết đến hơi mẹ. Cả làng Vũ Đại thay nhau nuôi nấng Chí. Cho đến khi làm được việc, Chí đi ở cho nhà Bá Kiến để lấy chỗ nương thân sinh sống qua ngày. Ngỡ rằng, cuộc đời làm nô bộc cứ thế qua đi, nhưng sự đời éo le cùng những tai họa đã ập đến với Chí. Chí bị bà ba – vợ ba của Bá Kiến dụ dỗ, hãm hại đẩy vào tù. Oan ức, cay nghiệt và lòng thù hận đã theo Chí trong suốt những năm tháng dài đày ải trong tù. Khiến Chí từ một chàng thanh niên hiền lành tốt bụng trở thành một con quỷ dữ khi quay lại làng. Giờ đây, trước mắt mọi người là một con quái vật suốt ngày say xỉn, chuyên đi rạch mặt ăn vạ với những trận chửi om sòm, nghiệt ngã. Mãi cho tới khi gặp Thị Nở, dù chỉ là một cuộc tình chóng vánh mỏng manh với người đàn bà dở hơi, xấu xí nhưng chính từ những điều tưởng chừng như buồn cười ấy lại làm nên bước ngoặt lớn cho cuộc đời Chí. Lần đầu tiên Chí tỉnh rượu, lần đầu tiên hắn thấy yêu cuộc sống, yêu những điều giản dị nhất, hắn ý thức về tuổi tác, về sự đời, về những gì sắp diễn ra trước mắt mình. Cái bản chất lương thiện trong Chí đã được đánh thức sau bao ngày bị vùi dập trong men say. Nhưng bất hạnh chưa hết, Thị bỏ rơi Chí giữa lúc tình yêu đang say đắm, nồng nàn. Trong cơn tuyệt vọng, Chí càng thức tỉnh hơn, càng hiểu hơn vì sao mình ra nông nỗi này. Và Chí đã đi đến một quyết định rất táo bạo: giết chết Bá Kiến rồi tự tử để làm người lương thiện. Tình cảnh oái oăm, bi thương này khiến người đọc không khỏi xót thương và đưa ra câu hỏi: Chí muốn làm người lương thiện nhưng tại sao lại đi giết người?

Vì sao chí phèo muốn làm người lương thiện

Giết người là tội ác, là hành động của kẻ ác nhân chứ đâu phải của người lương thiện? Lương thiện là cứu người, là yêu thương, là nâng đỡ nhau. Hay tại Chí không hiểu lương thiện là gì? Không phải, Chí là người đã từng trải qua rất nhiều nỗi đau, nỗi đau thiếu vắng mẹ cha, nỗi đau bị oan ức, rồi lại đến nỗi tuyệt vọng khi bị “người yêu” cự tuyệt tình yêu, rõ ràng Chí hiểu hơn ai hết lương thiện là gì. Hơn nữa, vốn dĩ trước đây Chí cũng từng là một con người lương thiện. Nhưng do hoàn cảnh, do cái ác xung quanh Chí quá nhiều, lòng lương thiện của Chí không thể nào chống lại được những kẻ tà ác kia. Giữa một Bá Kiến và bọn cường hào tham lam, giữa những bà vợ dâm ô và độc ác, một mình Chí làm sao chống đỡ được khi bọn họ đã muốn hãm hại Chí. Thực ra, Chí hiểu rất rõ bản chất của Bá Kiến và bè lũ tay sai của hắn là tàn bạo, là bất nhân. Nếu bọn chúng còn sống ngày nào thì Chí không thể được làm người lương thiện ngày ấy. Bởi thủ đoạn của chúng quá thâm độc, Chí không chống cự lại được. Chí muốn làm người tốt, muốn có một cuộc sống thật bình yên với vợ với con. Nhưng tiếc rằng ước mơ ấy chỉ vừa mới kịp nảy lên trong đầu đã vội vàng bị dập tắt. Lý do ư? Là do Thị Nở dở hơi? Hay do người bà cô đanh đá của Thị lúc nào cũng kìm kẹp cháu mình nên Thị sợ không dám yêu nữa? Tất cả đều đúng, nhưng đằng sau những lý do ấy còn có một lý do khác mang yếu tố quyết định. Đó chính là vì những tàn ác, những định kiến của xã hội, của chế độ phong kiến bất nhân. Mà trong chế độ ấy, Bá Kiến chính là một trong những kẻ cầm đầu. Bởi thế, Chí đã xác định rất rõ kẻ thù của mình, chính là Bá Kiến chứ không phải người đàn bà đã cự tuyệt, đã hất tay Chí một cách phũ phàng.

Chí giết Bá Kiến để làm người lương thiện là hoàn toàn đúng. Mặc dù đó là hành động giết người, nhưng trong cái xã hội ấy, hành động này lại là hành động đáng được nhân dân hưởng ứng. Bởi giết Bá Kiến là giết bọn tàn ác, bất nhân. Bọn chúng không chỉ đàn áp mình Chí mà còn đàn áp tất cả những ai thấp cổ bé họng như Chí. Biết bao nhiêu người nông dân cũng đang phải khổ sở chịu đựng cảnh sống lầm than, oan ức như Chí mà không thể nào lên tiếng được. Bọn chúng còn sống ngày nào, nhân dân còn khổ sở ngày đó. Có lẽ, trong những giây phút tủi hờn, Chí nghĩ rằng mình chẳng còn gì phải đáng tiếc cho cuộc đời này, mẹ không, cha cũng không, rồi đến ngay cả một mảnh tình vắt vai tưởng chừng như hạnh phúc cũng vừa bị vụt tắt ngay trong chốc lát, vậy thì Chí còn sống trên cõi đời này làm gì? Rồi khi Chí già nua, ai sẽ bên cạnh, lúc ốm đau mệt mỏi, chắc chỉ có mình Chí nằm co ro hưu quạnh trong túp lều rách nát. Chí nghĩ về sự cô đơn, nó còn đáng sợ hơn cả bệnh tật. Bởi thế, cái chết lúc này vừa giải thoát Chí khỏi cuộc đời đầy ngang trái, vừa là động lực để Chí cầm giao giết chết kẻ cầm quyền ác độc kia.

Chí giết chết Bá Kiến rồi tự tử – hành động giết người nhưng lại được mang tên là lương thiện. Tại sao ư? Bá Kiến chết, nhân dân sẽ bớt khổ dù sau hắn vẫn còn những bè lũ tay say. Nhưng ít nhất cái chết của hắn cũng là một mũi dao chĩa thẳng vào đồng bọn của hắn và cảnh cáo rằng: con giun xéo lắm cũng quằn, nhất định sẽ có ngày họ đứng lên để giành lại quyền sống, quyền tự do cho chính mình. Chí chết, nhưng vẫn còn bao nhiêu người dân nữa, họ sẽ cùng nhau đoàn kết hợp sức lại lật đổ chế độ phong kiến bạo tàn thâm độc.

Chí giết Bá Kiến không chỉ vì mối thù riêng của bản thân mà vì Chí không muốn ai bị lâm vào hoàn cảnh giống mình nữa. Hơn nữa, Chí hiểu rằng nếu hắn còn sống, thì Chí vẫn sẽ là một kẻ chuyên đi đâm thuê chém mướn, chuyên rạch mặt ăn vạ. Chí không muốn tiếp tục những chuỗi ngày cay đắng, bê tha ấy nữa. Chí muốn kết thúc cuộc đời hắn, và cũng kết thúc cả cuộc đời mình để mọi người không còn phải nghe những tiếng chửi đổng om sòm nữa.

Bởi thế, hành động Chí giết Bá Kiến là hoàn toàn đúng, và lúc này tâm trí của Chí cũng hoàn toàn tỉnh táo. Chí không say. Chí làm rất đúng. Nhà văn Nam Cao đã rất thành công khi dẫn dắt và sắp đặt cho các nhân vật của mình vào những tình huống éo le nhưng lại rất hợp tình hợp lý. Chí giết Bá Kiến cũng chính là ý niệm của ông khi ông chứng kiến cảnh dân mình phải chịu áp bức bóc lột nặng nề đến mức đánh mất cả nhân tính tốt đẹp vốn có của bản thân. Dù ông đau xót khi phải để Chí chết nhưng đó lại là một cách rất xứng đáng để Chí không làm nên những cái nhìn ghê tởm cho mọi người nữa. Mặt khác, giết Bá Kiến là để cứu giúp nhân dân, để đánh thức lòng can đảm của dân chúng, thúc giục họ hãy đứng lên tự giải phóng lấy chính mình. Như vậy, hành động Chí giết Bá Kiến là hoàn toàn đúng, đặc biết rất đúng với tâm niệm được làm người lương thiện của Chí.

Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo, ông hướng ngòi bút đến đề tài quen thuộc đó là cuộc sống khốn khổ, bị bần cùng hóa, lưu manh hóa của người nông dân, người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ trước cách mạng tháng Tám nhưng Nam Cao chọn cho mình một lối đi riêng. Đặc biệt, đến với truyện ngắn “Chí Phèo”- một kiệt tác trong văn xuôi Việt Nam hiện đại của nhà văn Nam Cao viết vào năm 1941. Truyện kể lại cuộc đời của một người dân cùng cực tên là Chí Phèo. Chí Phèo là biểu hiện sống động của bi kịch sinh ra là người mà không được làm người. Để quên đi số phận bất hạnh của mình, Chí Phèo tìm đến rượu, say triền miên và sống kiếp sống mù tối của thú vật. Những tưởng hẳn chỉ có thể sống một cuộc đời ngận tràn men say, nhưng không, Chí Phèo đã thật sự có thể hồi sinh sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở. Và quá trình thức tỉnh của Chí Phèo được coi là một trong những đoạn thể hiện sâu sắc ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

 

Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi không cha không mẹ, Chí được một ông đổ ống lươn nhặt ở lò gạch về rồi được dân làng nuôi lớn. Lớn lên, Chí vốn là người nông dân hiền lành, lương thiện và làm canh điền cho Bá Kiến. Xã hội phong kiến bóc lột, đè nén, áp bức, Chí bị vợ Bá Kiến dụ dỗ rồi khiến hắn ghen mà đẩy vào tù, biến Chí từ một người nông dân hiền lành trở thành một thằng lưu manh và trở thành tay sai đắc lực cho bọn cường hào trong làng. Nhà tù Thực dân đã biến Chí từ một người nông dân 20 tuổi lương thiện trở thành một người thay đổi cả nhân hình lẫn nhân tính. Hắn với "đầu trọc lốc, răng cạo trắng hớn, mặt cơng cơng, hai mắt gườm gườm, ngực và tay đầy những nét chạm trổ", là kẻ đâm thuê chém mướn cho Bá Kiến, chuyên đi rạch mặt ăn vạ. Là kẻ nát rượu, suốt ngày chìm đắm trong men say. Trở thành tên đầu trâu mặt ngựa khiến nhiều người khiếp sợ. Chí gần như sống trong vô thức, bị xã hội ruồng bỏ, bị cướp mất quyền làm người, bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Và cứ thế Chí Phèo say triền miên. Say để hắn quên đi quyền làm người, say để làm những việc mà người ta giao cho hắn làm, đốt phá, cướp giật, doạ nạt… của bao người dân lương thiện. Hắn mộng mị trong cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, thức dậy hãy còn say… Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ có hắn ở đời. Hắn trở thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”.

Cứ tưởng Chí Phèo mãi mãi sống triền miên trong những cơn say, kiếp thú vật rồi sẽ kết thúc bằng cách vùi xác. Nhưng bằng tài năng cùng với trái tim nhân đạo của một nhà văn lớn, Nam Cao đã để Chí Phèo có cơ hội để làm lại cuộc đời, trở thành Chí lương thiện một lần nữa. Ông đã đem tình thương chạm đến tận đáy trái tim cô độc khát khao yêu thương của con người là người ta vẫn gọi là “con quỷ dữ làng Vũ Đại”. Một viễn cảnh mới xảy ra, khi không ai đáp lại lời chửi của Chí Phèo nên Chí rẽ vào nhà Tự Lãng uống rượu. Khi đã hả hê, Chí Phèo lảo đảo ra về thì bỗng gặp một người đàn bà ngủ quên ở bờ sông gần nhà chính là Thị Nở- người đàn bà dở hơi xấu xí, và quá lứa lỡ thì. Thị Nở đi qua vườn nhà Chí và ngủ quên trong vườn nhà hắn vào một đêm trăng mát rười rượi. Còn Chí Phèo thì vừa uống rượu ở nhà tự Lãng về, muốn ra sông tắm, vô tình hắn gặp Thị ở đó. Đêm hôm ấy, họ ăn nằm với nhau, sự chung đụng ấy hoàn toàn ngẫu nhiên, mang tính bản năng của người đàn ông trong cơn say. Những phẩm chất của người nông dân lao động tiềm tàng sâu trong con người hắn bất chợt được khơi dậy. Sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, lần đầu tiên thấy Chí Phèo thực sự “tỉnh”. Chí bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài và tỉnh để cảm thấy miệng đắng và “lòng mơ hồ buồn”. Hắn cảm thấy “sợ rượu”, cảm nhận cuộc sống xung quanh: âm thanh của tiếng chim hót, tiếng người cười nói… Hắn tỉnh táo để nhận thức hoàn cảnh của mình, để thấy mình cô độc nhưng hính âm thanh ấy đã đưa Chí Phèo về với thực tại.

Sau đó Chí tỉnh ngộ, nhìn lại cuộc đời mình cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Hơn hết, cái ước mơ bình dị ngày nào ''có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm…'' bỗng dưng trở lại với Chí. Chí đã tỉnh rượu và thức tỉnh về tỉnh cảm và nhận thức. Chí thấy hiện tại của mình thật đáng buồn bởi “hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”, “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”, hắn khát khao một cuộc sống giản dị. Chí Phèo thèm lương thiện: Tình yêu của Thị Nở làm hắn nghĩ bản thân có cầu nối để trở về, khiến hắn đủ hi vọng và mong ước có một gia đình: “Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”. Chí Phèo xúc động trước sự quan tâm của Thị Nở vì Thị Nở làm hắn vừa vui vừa buồn: buồn khi nghĩ lại những lỗi lầm của mình; vui vì lần đầu tiên trong cuộc đời hắn được quan tâm, chăm sóc và yêu thương.

Tình yêu thương được thể hiện qua bát cháo hành của Thị Nở làm hắn suy tư bao điều về cuộc sống. Bát cháo hành của Thị Nở tuy giản đơn, mộc mạc nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự hồi sinh thức tỉnh của Chí. Bát cháo được nấu lên bằng tình yêu thương chân thành, sự cảm thông, thấu hiểu của Thị Nở dành cho Chí, chính vì vậy mà nó có sức lay động mạnh mẽ bản chất lương thiện vốn đã bị vùi sâu trong tâm hồn Chí. Trước sự quan tâm của Thị Nở, Chí Phèo thấy mình trẻ con. Hắn muốn làm nũng với Thị như với mẹ. Chưa bao giờ thấy hắn hiền như lúc này…Khi nhận được bát cháo hành từ tay Thị, Chí rất ngạc nhiên, mắt hắn ươn ướt. Vậy là Chí đã khóc, một con người đã lấy đi biết bao nhiêu nước mắt của người khác vậy mà giờ đây chính hắn lại khóc. Hắn đã khóc, khóc vì đây là lần thứ nhất hắn được người ta cho, lại được cho bởi tay một người đàn bà. Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà bâng khuâng, vừa vui vừa buồn và một cái gì nữa giống như là ăn năn, hối lỗi…Và đây cũng là lần đầu tiên Chí biết đến cái duyên của một người, đó là khi Thị Nở múc cháo “nhìn trộm hắn rồi lại cười toe toét. Trông Thị thế mà có duyên”. Nhìn Thị hắn nghĩ lại quá khứ khi mà hắn phải chăm sóc cho bà ba, phải làm những việc xấu xa hắn thấy nhục hơn là thích. Bát cháo hành của Thị Nở có sức mạnh thật kì diệu, nó đã làm cho một người như Chí phải suy nghĩ: “Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây thù?”.

Sau những tháng ngày sống gần như vô thức, cuộc gặp gỡ định mệnh này đã đem đến những biến chuyển tâm lí rõ nét trong Chí Phèo. Chút tình thương mộc mạc, tự nhiên cộng với sự quan tâm chăm sóc giản dị của Thị Nở- người con gái xấu xí ''ma chê quỷ hờn'' đã đánh thức lương tri trong Chí, đánh thức bản chất lương thiện vốn có trong con người hắn. Gặp Thị Nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc chưa hề có trong đời, mang đến niềm vui, niềm hi vọng và mong ước trở về làm người lương thiện trỗi dậy. Thị Nở đã đánh thức con người tốt bụng trước kia của Chí Phèo khiến cho hắn thấy ân hận về những lỗi lầm của mình; sống lại khao khát có một gia đình nhỏ nhoi và mơ tưởng về một tương lai hạnh phúc với Thị. Chí đã tỉnh táo và suy nghĩ về cuộc đời mình, triền miên trong suy nghĩ và xúc động. Như vậy, với sự trở lại của lí trí và nhận thức về chính mình, cùng những tình cảm, cảm xúc của một con người, Chí đang dần thức tỉnh một cách toàn diện cả về nhận thức và ý thức và bắt đầu hồi sinh để trở về với kiếp người. Suốt 5 ngày đêm cả hai đều chìm đắm trong men say của tình yêu.

Nhưng, phũ phàng thay thay, cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt Chí Phèo. Những định kiến của bà cô Thị Nở hay cũng như thành kiến mà xã hội này dành cho hắn như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt Chí Phèo dập tắt ngọn lửa hoàn lương vừa nhen nhóm lên trong Chí. Rồi cả Thị Nở, người đàn bà mà hắn đặt trọn lòng hi vọng đó nghe lời bà cô cũng” rướn cái môi vĩ đại mà ném vào hắn bao lời chửi mắng”. Một bi kịch trong một chuỗi nhưng bi kịch của cuộc đời anh Chí. Thông qua lời nói của bà cô Thị Nở gay gắt là đại diện cho định kiến xã hội, cho những quan niệm cổ hữu, hà khắc đã ăn sâu vào suy nghĩ của những con người lạc hậu, ích kỷ, hẹp hòi. Bà cô không muốn cho Thị Nở đến với Chí Phèo vì hắn không có gia đình, không có công việc ổn định. Bà ngăn cản tình yêu giữa Chí Phèo và Thị Nở còn vì sự ganh tị. Tình thương đã mong manh dễ tan vỡ, không dễ gì có được đã bị định kiến kia làm vỡ vụn tình yêu thương. Thị Nở như chiếc phao cứu sinh cuối cùng mà hắn là người chết đuối vừa níu được nên hắn tìm mọi cách để níu giữ cơ hội mong manh để quay trở lại làm người lương thiện nhưng không thành. Thị Nở, người đàn bà mà hắn đặt trọn lòng hi vọng đó nghe lời bà cô cũng” rướn cái môi vĩ đại mà ném vào hắn bao lời chửi mắng”. Một bi kịch trong một chuỗi nhưng bi kịch của cuộc đời anh Chí. Hắn lại đi uống rượu. Hắn tìm đến men rượu để quên đi cảm giác lúc này. Nhưng càng uống hắn chỉ càng cảm thấy cô đơn, tuyệt vọng. Càng uống hắn lại càng tỉnh và càng cảm thấy buồn… Hắn thoáng thấy hương cháo hành và thế là hắn ôm mặt khóc. Lần này hắn khóc không phải vì bát cháo hành mà là vì hắn tiếc nuối cho tình cảm, tình yêu thương mà hắn nhận được, đó cũng là giọt nước mắt bất lực, chính xã hội ấy đã đẩy hắn vào con đường bi kịch này. Đến khi hắn muốn quay trở lại thì cũng chính xã hội ấy lại không chấp nhận hắn. 

Khi bị Thị Nở ruồng bỏ, Chí Phèo quay lại bản chất của con người hiện tại. Phẫn uất, tuyệt vọng Chí xách dao đi định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận trong vô thức Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Niềm phẫn uất đã khiến Chí Phèo xác định đúng kẻ thù của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người, đòi lương thiện. Chí hỏi những câu hỏi mà không lời giải đáp đầy cay đắng, chất chứa nỗi đau đớn đầy phẫn uất của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân, đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Chí Phèo đã giết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết sự bế tắc của số phận. Đó là sự thức tỉnh về quyền sống, không chấp nhận một cuộc sống của một con quỷ dữ nữa, anh muốn hoàn lương mà nhưng xã hội này không cho phép. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời tố cáo mãnh liệt cái xã hội vô nhân đạo, xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái chết ấy là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trước ngưỡng cửa làm lại cuộc đời. 

Tác phẩm Chí Phèo thông qua quá trình thức tỉnh của nhân vật chính, nhà văn đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Tác phẩm đã lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đã đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Nam Cao cũng đã thể hiện sự thương cảm và tấm lòng trân trọng sâu sắc với bi kịch của những người nông dân trong xã hội cũ. Bên cạnh đó, nhà văn cũng khẳng định sức sống bất diệt của thiện lương. Mong muốn một cuộc sống đời thường hạnh phúc chính là bản tính tự nhiên tốt đẹp của con người. Đây là khát khao mà không một thế lực nào có thể hủy diệt được.