Ví dụ cơ thể người là một khối thống nhất

Chào bạn! Cơ thể là một thể thống nhất, vì tất cả các cơ quan, bộ phận trong một cơ thể dều có sự liện quan tới nhau, tuy là mỗi bộ phận có một chức năng riêng biệt nhưng chúng đều ảnh hưởng tới nhau rất mật thiết, cụ thể nếu một bộ phận hay một cơ quan nào đó hoạt động không tốt thì cơ quan kia cũng sẽ không hoạt động hết hiệu quả] ví dụ, nếu bạn bị sổ mũi thì sẽ bị viêm họng, thế thôi người ta thường gọi: Tai- Mũi-Họng; Răng-Hàm-Mặt,...vì các cơ quan này liên quan nhau.

chúc bạn học tốt!

nghĩa đen : cơ thể là 1 khối thống nhất vì khi thíu đi bất kì phần nào thì toàn bộ cơ thể sẽ khó khăn thích nghi với cuộc sống , ảnh hưởng nhiều về tinh thần và thể chất cũng như sinh hoạt hằng ngày của con người (^-^) nghĩa bóng( đối với học sinh ) : là một con người thì luôn tốn tại song song những ý thức xấu và tốt , tùy vào sự kiên định và kiến thức tích lũy được trong đời sống mà chúng ta biểu hiện qua phẩm chất đạo đức , qua những lối sống

Cái này mình tự làm nha có gì góp ý ^-^ ( có lạc đề thì thông cảm ngen *-* )

Ukm, cái này nhé a/. Ở cấp độ tế bào: - Tất cả các bộ phận, các cơ quan trong cơ thể đều được cấu tạo bởi tế bào. Tế bào là đơn vị cấu tạo của cơ thể. - Hình dạng, kích thước tế bào thay đổi, tuỳ từng vị trí, chức năng: có thể hình tròn, hình trụ, vuông, tháp, sao… Kích thước rất nhỏ, giao động từ 5 -200 µm (Nơ ron tiểu não là loại tế bào nhỏ nhất; tế bào trứng chín là loại tế bào lớn nhất). - Mỗi tế bào đều được cấu tạo bởi các nguyên tố hoá học (khoảng 40 nguyên tố), trong đó có C, H, O, N chiếm tỉ lệ 98%; còn lại là S, P, Cl, K, Na, Ca. Fe, I, Mn, Cu, Co. Các nguyên tố đó kết hợp với nhau tạo thành các hợp chất hoá học cơ bản để xây dựng nên cấu trúc tế bào, đó là Prôtêin, Lipít, Gluxít, Nước, Muối khoáng. Trong đó Prôtêin đóng vai trò xây dựng cấu trúc của tế bào, các en zym, hoocmon; Lipit tham gia cấu tạo màng tế bào, màng các bào quan và là nguồn dự trữ năng lượng của tế bào. Gluxít là nguồn năng lượng chủ yếu của tế bào trong các quá trình sống, đồng thời tham gia cấu tạo các cấu trúc của tế bào. Muối khoáng thường có tỉ lệ xác định và đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì áp suất thẩm thấu trong tế bào. Nước kết hợp với Prôtên và các hợp chất hữu cơ khác làm cho cả tế bào có tính chất của một khối dung dịch keo. - Tuy hình dạng, kích thước khác nhau, nhưng các tế bào đều có các bộ phận cơ bản là: màng sinh chất, chất nguyên sinh (tế bào chất), nhân và các bào quan. + Màng sinh chất là lớp màng bao phía ngoài cùng của chất tế bào (nên còn được gọi là màng ngoại chất) có tính chất đậm đặc hơn phía trong. Màng sinh chất được cấu tạo bởi 2 thành phần cơ bản là Prôtêin và Lipit. Cấu trúc của màng sinh chất rất phức tạp. Có nhiều giả thuyết khác nhau về cấu trúc màng sinh chất. Theo giả thuyết của Frây Vicling, màng nguyên sinh có các lỗ là các khe hở giữa Prôtit và Lipit. Theo Singer và Nicolson (1972) màng nguyên sinh có mô hình “khảm lỏng”. Theo mô hình này các phân tử phốt pholipit xếp thành 2 lớp đều đặn có tính lỏng hướng đầu ưa nước ra phía ngoài, còn các phân tử protêin của màng có thể ngập sâu một phần trong lớp phốt pholipit, hoặc xuyên qua chúng Còn theo quan điểm của Danielli và Davson thì màng sinh chất có cấu trúc là một màng kép, gồm 2 lớp phân tử Prôtit hình cầu hay hình sợi ở phía ngoài, giữa là 2 lớp Lipít phân cực quay đầu ưa nước ra ngoài. Cấu trúc đó gọi là cấu trúc màng cơ sở. Nhờ đó giúp cho màng sinh chất có những khả năng: Thấm chọn lọc, thực hiện trao đổi chất với môi trường; Ngăn cách với tế bào khác và với môi trường; Trao đổi thông tin từ ngoài vào và ngược lại; Bài tiết các chất cặn bã hình thành trong quá trình trao đổi chất; Dẫn truyền hưng phấn… + Chất tế bào (hay chất nguyên sinh = bào tương): là khối chất nguyên sinh nhớt nằm trong màng sinh chất. Nó là thành phần bắt buộc, là môi trường diễn ra các hoạt động sống của tế bào. + Nhân tế bào. Trừ một số tế bào đặc biệt không nhân (vídụ hồng cầu) hoặc nhiều nhân (ví dụ tế bào cơ vân) còn hầu hết mỗi tế bào đều thường có 1 nhân. Nhân thường nằm ở giữa tế bào, hình cầu hay hình bầu dục. Nhân gồm có màng nhân ngăn cách với phần tế bào chất xung quanh. Màng nhân cũng có cấu trúc màng kép và là màng cơ sở. Trên màng nhân có nhiều lỗ nhỏ. Bên trong có chất nhân (nhân tương) chứa thể nhiễm sắc và hạch nhân. Hạch nhân là khối cầu nhỏ tạo bởi ARN. Nhiễm sắc thể (NST) là những thể nhỏ hình dây nằm trong nhân, cấu tạo bởi chất AND gắn với Prôtêin loại histon. Số lượng nhiễm sắc thể trong tế bào sinh dưỡng ở mỗi loài động vật là một số cố định 2n (của người là 23 cặp NST, của ruồi dấm là 4 cặp …). Riêng số lượng NST của tế bào sinh dục chỉ là 1n. Nhân là trung tâm điều khiển mọi hoạt động sống của tế bào, đồng thời giữ vai trò quan trọng trong di truyền. + Các bào quan. Bào quan là những cấu trúc đặc biệt nằm trong khối chất nguyên sinh, thực hiện các chức năng nhất định của tế bào. Người ta phân biệt 2 loại bào quan là bào quan chung và bào quan chuyên hoá (bào quan đặc biệt) Bào quan chung là các bào quan thực hiện các chức năng giống nhau ở các tế bào khác nhau, như: Ty thể, Ribôxôm, Lizôxôm, Trung thể, Mạng lưới nội chất, Thể gôngi Ty thể : là những bào quan hình que, hay chuỗi hạt, có cấu trúc màng kép, trong có nhiều vách ngăn tạo thành tấm răng lược, trong đó chứa đầy enzim hô hấp. Nó là trung tâm cung cấp năng lượng cho mọi hoạt động sống của tế bào. Ribôxôm: là những bào quan nhỏ nằm rải rác trong chất tế bào hoặc bám vào thành của lưới nội bào hay trên màng nhân. Ribôxôm không có cấu trúc màng kép, trong chứa nhiều loại ARN. Ribôxôm có vai trò trong tổng hợp Prôtêin. Lizôxôm (tiểu thể): là những hạt nhỏ hình trứng chứa nhiều enzim có khả năng làm tiêu huỷ các sản phẩm của chất sống nên có tác dụng tiêu hoá các chất hữu cơ lạ xâm nhập vào tế bào. (Chúng có nhiều trong các tế bào gan). Trung thể (tiểu thể trung tâm) nằm gần nhân, hình hạt nhỏ, đóng vai trò quan trọng trong phân bào và chi phối sự vận động của tế bào. Mạng lưới nội bào: là hệ thống ống và túi nhỏ thông nhau và liên hệ với màng nhân, màng sinh chất và màng các bào quan. Nó có cấu trúc màng cơ sở. Có 2 loại lưới nội bào: loại không hạt và loại có hạt. Lưới nội bào đóng vai trò quan trọng trong sự dẫn lưu và chuyển hoá (trao đổi chất) trong tế bào. Bộ máy Gôngi: là những túi dẹt, có chức năng chế tiết các chất tiết. Nó tham gia vào quá trình chuyển hoá các chất, thâu tóm các chất do tế bào tiết ra. Ngoài các thành phần trên, ở những tế bào đặc biệt, còn có những thành phần nhỏ khác gọi là bào quan chuyên hoá như sợi tơ cơ trong các tế bào cơ; hạt sắc tố trong tế bào thượng bì da; các sợi thần kinh có khả năng dẫn truyền xung thần kinh; các thể vùi trong tế bào là các chất Prôtêin, Lipít, Gluxít tích tụ trong tế bào dưới dạng các hạt (ví dụ: hạt glycogen dự trữ ở gan)

+ Khoảng gian bào: Phía ngoài của mỗi tế bào là khoảng gian bào, có vai trò ngăn cách các tế bào với nhau và là nơi để tế bào trao đổi chất với môi trường ngoài. Trong gian bào chứa đầy chất gian bào. Trong đó có các sợi cốt giao và các sợi đàn hồi mảnh, dài, bền, xoắn vào nhau để tạo thành một khối. Đó là cơ sở để tạo thành các tổ chức mô.

Last edited by a moderator: 12 Tháng năm 2013

câu 1 em hãy nêu ví dụ chứng minh cho luận điểm:''cơ thể là một khối thông nhât''?
:khi (76)::khi (76)::khi (76)::khi (129)::khi (129)::khi (129):


Cơ thể NGƯỜi là một khối thống nhất được thể hiện ở 2 nội dung:
- Sự thống nhất trong cấu tạo: + Ở cấp độ tế bào: Tế bào là đơn vị cấu tạo của cơ thể, bất kỳ cơ quan hay bộ phận trong cơ thể đều được cấu tạo từ tế bào. Mỗi tế bào có thể có hình dạng, kích thước, khác nhau tùy vị trí, chức năng nhưng nhìn chung tế bào đều có các bộ phận cơ bản: "màng sinh chất, chất tế bào, nhân và bào quan". + Ở cấp độ mô: Mô là tập hợp các yếu tố có cấu trúc tế bào và các yếu tố không có cấu trúc tế bào, hình thành trong quá trình tiến hoá của sinh vật, từ những lá phôi nhất định, đảm nhận những chức năng nhất định trong cơ thể. Có 4 loại mô chính: mô bì, mô liên kết, mô cơ, mô thần kinh. + Ở cấp độ cơ quan, hệ cơ quan: Các mô khác nhau cùng đảm nhận một chức năng nhất định hợp thành cơ quan. Các cơ quan khác nhau cùng thực hiện một chức năng hợp thành hệ cơ quan.Cơ thể người là một khối thống nhất gồm các cơ quan, các hệ cơ quan khác nhau. Mỗi cơ quan, hệ cơ quan đảm nhiệm một chức năng nhất định. Hệ vận động gồm cơ và xương, có nhiệm vụ giúp cơ thể di chuyển trong không gian; tham gia tạo hình dáng cơ thể, tạo khoang cơ thể chứa các nội tạng. Hệ tiêu hoá: gồm ống tiêu hoá và tuyến tiêu hoá, làm nhiệm vụ tiêu hoá và hấp thu các chất dinh dưỡng từ thức ăn, đồng thời đào thải các chất cặn bã ra môi trường ngoài. Hệ tim mạch: gồm tim và mạch máu, có nhiệm vụ cung cấp chất dinh dưỡng và ôxy cho các cơ quan, các tổ chức; đồng thời tham gia điều hoà các quá trình sinh lý trong cơ thể bằng con đường thể dịch, đảm bảo cho cơ thể là một khối thống nhất. Hệ tiết niệu: gồm thận và đường dẫn niệu, có nhiệm vụ gúp cơ thể thực hiện quá trình lọc làm sạch máu, và thải các chất độc hại trong máu ra ngoài bằng con đường bài xuất nước tiểu. Hệ sinh dục: gồm cơ quan sinh dục nam, nữ, có nhiệm vụ đảm bảo cho sự phát triển và sinh tồn nòi giống. Hệ thần kinh: gồm phần trung ương là não bộ, tuỷ sống và phần ngoại biên là các dây thần kinh, có nhiệm vụ giúp cơ thể tiếp nhận thông tin, xử lí thông tin, liên kết các bộ phận của cơ thể thành một khối thống nhất thông qua việc điều khiển, điều hoà, phối hợp sự hoạt động của các cơ quan. Hệ nội tiết: gồm nhiều tuyến nội tiết khác nhau, có nhiệm vụ sản xuất ra các hocmôn, góp phần điều hoà các quá trình sinh lí trong cơ thể thông qua con đường thể dịch, đảm bảo cho cơ thể là một khối thống nhất, toàn vẹn. Các giác quan: gồm giác quan thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác…Giúp cho cơ thể nhận biết được hình ảnh, âm thanh, hương, vị muôn màu muôn vẻ của thế giới khách quan…

- Sự thống nhất về mặt chức năng:

+ Cơ thể người tuy có cấu tạo phức tạp, nhưng luôn luôn lại là một khối thống nhất, vì toàn bộ các tế bào, các tổ chức, các cơ quan và hệ cơ quan trong cơ thể luôn hoạt động đồng bộ. Nếu một một bộ phận hay một cơ quan nào đó hoạt động không bình thường thì cơ thể sẽ hoạt động không bình thường. + Mỗi tế bào đều thực hiện các đặc trưng chung của một cơ thể sống, đó là tế bào cũng thực hiện sự trao đổi chất và năng lượng thông qua quá trình đồng hoá và dị hoá; cũng sinh trưởng và phát triển; cũng sinh sản và cũng cảm ứng với môi trường.

+ Sự thống nhất về mặt chức năng còn thể hiện ở chỗ sự tổn thương về một bộ phận nào đó đều ảnh hưởng đến sự hoạt động sinh lý của các bộ phận khác và cả toàn bộ cơ thể.

Các bạn trên trả lời dài mình chưa đọc kĩ hết được, nhưng hình như cũng chả có cái trọng tâm là mấy

Ví dụ cơ thể người là một khối thống nhất
.

Ngồi tản mạn phân tích đề bài chút :

em hãy nêu ví dụ chứng minh cho luận điểm:''cơ thể là một khối thông nhât''?

Các bạn cứ trả lời dài dằng dặc luôn, cơ mà câu hỏi người ta yêu cầu là NÊU VÍ DỤ chứ đâu yêu cầu CHỨNG MINH. Cách trả lời: Bạn có thể trả lời theo hướng sau: Nêu một ví dụ, chẳng hạn là một phản xạ nhé -> Phân tích khi xảy ra phản xạ các cơ quan cùng nhau tham gia hoạt động như thế nào, chẳng hạn da, mắt, não, xương, tim, ... -> Kết luận.

Cũng lâu rồi không đọc sách sinh, cơ mà biết mang máng thế thôi bạn .