Vậy là từ đó về sau, mọi người mặc nhiên công nhận bản Chinh Phụ ngâm diễn âm hiện hành là của Đoàn Thị Điểm. Cái biết định hình từ đó cứ lưu truyền mãi như thế khiến các sách về sau như Chinh Phụ ngâm khúc dẫn giải của Nguyễn Đỗ Mục (Tân Dân, 1944),Chinh Phụ ngâm khúc giảng luận của Thuần Phong Ngô Văn Phát (1952), Chinh Phụ ngâm của Vũ Đình Liên-Hoàng Ngọc Phách-Lê Thước,Nữ lưu văn học sử của Lê Dư, Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử trích yếu củaNghiêm Toản, Việt Nam Văn học sử Giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ cũng như Chinh Phụ ngâm của Vân Bình Tôn Thất Lương do Tân Việt xuất bản ở miền Nam... đều cứ theo lời người xưa mà cho rằng Chinh Phụ ngâm diễn âm hiện hành là của Đoàn Thị Điểm. Ngay cả Từ điển Văn học 2005 do Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Táchủ biên cũng viết trong mục từ Đoàn Thị Điểm: “...có lẽ trong thời gian xa chồng bà đã dịch ra quốc âm tập thơ Chinh Phụ ngâm từ bản chữ Hán của danh sĩ Đặng Trần Côn...”. Show Chinh Phụ Ngâm bản dịch Nôm Song Thất Lục Bát 18/01/2012 1. Giới thiệu tác phẩm, trích từ wikipedia
2. Bản dịch 7768 Tác phẩm nguyên bản tiếng Hán là 1 tác phẩm công phu, nhưng mà do hạn chế về mặt ngôn ngữ cho nên chưa đủ trình độ thưởng thức, hơn nữa, xưa nay quen thuộc vs bản 7768 cho nên post này chủ yếu là về bản dịch Nôm này. Bản dịch Nôm trong sách giáo khoa trước nay vẫn dc cho là của Đoàn Thị Điểm, gồm 412 câu thơ theo thể 7768, chia ra làm 13 phần, trong đó có nx dòng thơ nổi tiếng, vd như: (lấy từ http://www.hdvietnam.net/vanhoa/vanhoc/chinhphungam.html) Thuở trời đất nổi cơn gió bụi, Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy, Chàng từ sang đông nam khơi nẻo Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói Nghệ thuật: Ko nhớ sách Học tốt Văn học ngày xưa bình luận gì, mà cũng chưa đọc phân tích bình luận về bài thơ này, đây chỉ là các remarks cá nhân 😛 Thể thơ: 7768, cá nhân thôi, cảm thấy thể thơ này lưu loát mà uyển chuyển, ko quá mềm mại như 68 (vì 68 chuyên đề dung vần bằng ở cuối câu), mà đọc lên còn có thêm sự gãy gọn, cứng cáp của thể thất ngôn. Điển tích điển cố: Cái này dĩ nhiên là có 2 mặt ưu và khuyết: Ưu điểm: Mang tính ước lệ cao, ý tứ trang trọng, cổ điển. Nhược điểm: lời lẽ sáo rỗng, ý tứ nhàm chán, hoa mỹ và ko đúng với thực tế, vd – Toàn địa danh Tàu: Cam Tuyền, Tràng Thành, Hàm Dương, Tiêu Tương, Cầu Vị, Thái Sơn, Man Khê, Ngọc (Môn) quan này nọ… (Mặt khác, cũng có ich lợi là giúp người đọc làm quen điển cố và sự tích Tàu luôn 1 thể) – Ở Vn có nx thứ này ko? 😛 Sương như búa bổ mòn gốc liễu. Hương gượng đốt, hồn đà mê mải, Các nàng chinh phụ của Vn thời đó thì có mà đi cày đi cấy, nuôi heo nuôi bò, hái dâu nuôi tằm ko còn sức để thở chứ đừng nói gì gương lược với chả đàn hát 😛 Tuy nhiên, cái này ko trách dc người dịch, vì bản gốc của Đặng Trần Côn viết như thế nào thì họ đành phải dịch ra như vậy thôi 😛 Trách thì trách hẳn Đặng Trần Côn. Điểm nổi bật nhất về nghệ thuật của bản dịch có lẽ là các điệp từ, điệp ngữ và điệp ý, vd: Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại, Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm, Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối, Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái, Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió Tin thường lại người không thấy lại, Thư thường tới, người chưa thấy tới, Nhưng mà, nói đi cũng phải nói lại, trong bản Hán văn, hình như Đặng Trần Côn cũng sử dụng nhiều điệp từ điệp ngữ thì phải, vd: Phong liệt chỉ song xuyên trướng khích 3. Ảnh hưởng (các bài hát “ăn theo”) Thực ra thì thế này, sở dĩ bạn AC thik bài Chinh Phụ Ngâm là do từ hồi be bé, bạn AC rất chi là xui xẻo :(, sớm bị exposed to 1 loại hình văn nghệ “sến sũa” 😛 là cãi lương và nhạc vàng (bao gồm cả nhạc tiền chiến và tình ca sau 45). Mà chiến tranh và các đôi uyên ương bị chia loan rẽ thúy chính là 1 topic vô cùng là sôi động của loại hình văn nghệ này, mà tình cờ, Chinh Phụ Ngâm trở thành 1 tài liệu, 1 nguồn cảm hứng dào dạt cho các văn nghệ sỹ thời xưa. Từ là từ phu tướng (*) Có bản ghi là “Bảo kiếm sắc phong lên đàng” 😛 Lệnh vua hành quân trống kêu dồn, Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn, Con ơi lòng mẹ ủ ê Ngày anh xa vắng Con ơi à ơi . . . Bao nhiêu hưng vong Cũng ko có j ngạc nhiên vì sao nhiều nhạc sỹ thời đó lại tìm thấy cảm hứng từ Chinh Phụ Ngâm, thay vì Kiều hay là Lục Vân Tiên, là bởi vì VN trải qua quá nhiều chiến tranh, cái cảnh chinh phu ra trận, chinh phụ mòn mỏi ở nhà nó quá quen thuộc rồi. Có lẽ các chuyện tình yêu tay 3 tay 4 của các tiểu thư, hay gái lầu xanh vs các công tử/thư sinh con nhà giàu hoặc ít nhất cũng thư hương (kiểu Kim Trọng, Thúc Sinh, hay Lục Vân tiên) hay các anh hùng hão hán kiểu Từ Hãi này nọ nó có vẻ ko quen thuộc vs cuộc sống dân thường chăng? 😛 1 điều nữa là, motip chinh phụ/hòn vọng phu chỉ phổ biến trong văn nghệ thời tiền chiến (pre 1945) và sau này tiếp nối ở miền Nam, chứ ko dc phổ biến ở miền Bắc, bởi vì người chinh phụ trong xã hội XHCN ko dc khuyến khích (hoặc là cấm) ngồi ủ rũ héo hon than vãn sầu bi vớ vẩn 😦 mà phải “3 đảm đang, ba sẵn sàng” 😛 Hoàng Việt (Lê Trực), sau 1945 cũng viết Tình ca về chia li, nhưng mà tinh thần nó hùng tráng khác hẳn với Tiếng Còi trong Sương Đêm: Chinh phụ ngâm có nghĩa là gì?Chinh phụ ngâm (征婦吟 Lời than vãn của người phụ nữ có chồng đi đánh trận), còn có tên khác là Chinh phụ ngâm khúc (征婦吟曲) là tác phẩm văn vần của Đặng Trần Côn, ra đời trong khoảng năm 1741 giai đoạn sơ kỳ Cảnh Hưng và về sau được nhiều người dịch ra thơ Nôm. Đây là thi phẩm chủ yếu viết theo lối tập cổ, dài 476 câu thơ.
Chinh phụ ngâm khúc thuộc thể loại gì?- Chinh phụ ngâm là khúc ngâm dài, diễn tả mọi cung bậc của nỗi buồn triền miên ở người chinh phụ. Nguyên tác của Đặng Trần Côn được viết bằng chữ Hán, theo thể đoản trường cú (câu ngắn, câu dài xen nhau). Dịch giả Đoàn Thị Điểm đã dịch tác phẩm của Đặng Trần Côn sang bản chữ Nôm với thể thơ song thất lục bát.
Thể loại ngâm khúc có đặc điểm gì?Ngâm khúc là thể loại trữ tình trường thiên thuần túy Việt Nam viết bằng thể thơ song thất lục bát, thường có quy mô tương đối lớn (thường là trăm câu thơ, lớn hơn nữa là đến vài trăm câu thơ). Ngâm khúc là những khúc tự tình trên cơ sở xây dựng hình tượng nhân vật độc thoại.
Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn được diễn Nôm ra thể thơ gì?Tài năng kiệt xuất, cộng với tâm trạng đồng cảm sâu sắc, Hồng Hà Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã chuyển ngữ tác phẩm chữ Hán của Đặng Trần Côn ra chữ Nôm bằng thể thơ song thất lục bát vô cùng uyển chuyển, thể hiện một tài năng nghệ sĩ rất tài hoa. Nó là gan ruột, là nước mắt xót đau dầm dề của chính người chuyển ngữ.
|