Giao dịch vốn là gì

Giao dịch chuyển nhượng vốn là hành vi cá nhân hay tổ chức đại diện thực hiện giao dịch một phần hay toàn bộ quyền, tài sản và nghĩa vụ, trách nhiệm của mình cho một công ty, tổ chức hay cá nhân nào đại diện cho bên nhận. Theo Điều 53 luật doanh nghiệp 2014, các quyền và nghĩa vụ này sẽ được định giá bằng tiền hoặc các giá trị vật chất khác tương ứng theo thỏa thuận của bên chuyển nhượng va bên nhận chuyển nhượng.

Giao dịch vốn là gì

Giao dịch chuyển nhượng vốn

Trong giao dịch về chuyển nhượng vốn có yếu tố nước ngoài thì việc các nhà đầu tư băn khoăn là liệu họ có quyền tự quyết phương thức chuyển nhượng, liệu họ có được thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán ở nước ngoài, hoặc chuyển khoản ở nước ngoài. Phạm vi bài viết sẽ giải quyết vấn đề này.

Quy định nhà nước về giao dịch chuyển nhượng vốn

Giao dịch về chuyển nhượng vốn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam thuộc giao dịch ngoại hối chịu sự điểu chỉnh của Pháp lệnh ngoại hối và Luật đầu tư.

Theo quy định tại Pháp lệnh ngoại hối và Thông tư 05/2014/TT-NHNN Thông tư 06/2019-TT-NHNN thì các giao dịch về đầu tư trực tiếp do doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài thực hiện thông qua tài khoản vốn đầu tư trực tiếp do doanh nghiệp mở tại ngân hàng được phép để thực hiện các giao dịch liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam theo quy định pháp luật. Các giao dịch về đầu tư gián tiếp do nhà đầu tư nước ngoài mở tại ngân hàng được phép để thực hiện các giao dịch thu chi được phép liên quan đến hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Phương thức thanh toán trong giao dịch chuyển nhượng vốn được thực hiện theo các bước như sau: Nhà đầu tư mua vốn hoặc mua cổ phần của công ty Việt Nam sẽ chuyển số tiền chuyển nhượng vào tài khoản vốn đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp. Sau đó tiền từ tài khoản này sẽ chuyển vào tài khoản người bán ở nước ngoài hoặc trong nước.

Quy đinh trên là khá khó thực hiện trên thực tế vì các bước trên không quy định một cách chi tiết và rõ ràng mà phải tổng hợp nhiều điều khoản thuộc Pháp lệnh, Thông tư ngân hàng nhà nước. Mục đích của việc quy định phương thức thanh toán như trên được hiểu là để cơ quan nhà nước Việt Nam kiểm soát về vấn đề thuế.

Thiết nghĩ, quy định trên là khó thực hiện trên thực tế vì nó quá lòng vòng và gây lãng phí cho nhà đầu tư. Ví dụ công ty 100% vốn Việt Nam bán phần vốn góp cho nhà đầu tư nước ngoài, lúc tiến hành mua bán thì công ty Việt Nam không có tài khoản vốn góp vì ngân hàng yêu cầu Giấy chứng nhận đầu tư hoặc giấy đăng ký kinh doanh có tên nhà đầu tư nước ngoài mới mở được tài khoản này, dẫn đến nhà đâu tư không thanh toán được tiền mua phần vốn góp, đây trở thành câu chuyện con gà và quả trứng cái nào có trước! Ngoài ra, Viêc thanh toán tiền chuyển nhượng qua tài khoản trung gian thì ngân hàng sẽ thu phí chuyển ra chuyển vào và cũng đợi mất một khoản thời gian.

Tuy nhiên, nếu thả nổi cho nhà đầu tư tự quyết toán với nhau thì có thể thất thoát rất lớn nguồn thuế thu nhập từ các giao dịch M&A có yếu tố nước ngoài.

Do đó, chúng tôi kiến nghị Ngân hàng nhà nước ban hành thông tư quy định rõ ràng phương thức thanh toán tiền giao dịch chuyển nhượng vốn góp, cổ phần. Bãi bỏ điều kiện mở tài khoản vốn góp phải có Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có tên nhà đầu tư nước ngoài.

Thật vậy, ngày nay giao dịch chuyển nhượng vốn là nhu cầu mà các công ty đều có lúc cần đến. Việc trang bị kiến thức về luật trong mảng chuyển nhượng giúp các công ty, tổ chức, doanh nghiệp có thể chủ động trong mọi hoạt động của mình, đồng thời cũng tránh được những rủi do liên quan đến giao dịch tương ứng.

Thành lập từ năm 2007, với trên 13 năm hình thành và phát triển cùng đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm tư vấn chuyên sâu về tư vấn đầu tư nước ngoài, Luật Trí Minh đã cung cấp dịch vụ tư vấn thủ tục đăng ký đầu tư nước ngoài và tư vấn về giao dịch chuyển nhượng vốn của nhà đầu tư nước ngoài tới hàng nghìn doanh nghiệp, chúng tôi luôn cố gắng đem đến dịch vụ tốt nhất cho khách hàng của mình.

06 ĐIỀU THỰC SỰ KHÁC BIỆT CỦA LUẬT TRÍ MINH:

(1) Luật sư/Chuyên viên cao cấp sẽ là người trực tiếp tư vấn, trao đổi, xử lý công việc và giám sát chất lượng thực hiện cho quý Khách hàng;

(2) Mọi chi phí triển khai công việc luôn được thông báo, thỏa thuận rõ ràng, hợp lý và minh bạch, không phát sinh thêm chi phí;

(3) Luật Trí Minh luôn bám sát công việc, cập nhật quý Khách hàng thường xuyên và kịp thời;

(4) Các tài liệu, giấy tờ, kết quả luôn được giao nhận tận nơi trong các quận nội thành Hà Nội/Tp. HCM;

(5) Khách hàng luôn được lắng nghe, thấu hiểu, được tham vấn đưa ra quyết định tối ưu nhất và hài lòng nhất;

(6) Luật Trí Minh có thể cung cấp tư vấn trực tiếp bằng các ngoại ngữ: tiếng Anh.

Ngoài dịch vụ tư vấn luật giao dịch chuyển nhượng vốn, Luật Trí Minh còn cung cấp nhiều dịch vụ pháp lý liên quan khác đối với người nước ngoài, công ty vốn nước ngoài, ví dụ như:

(1) Dịch vụ tư vấn pháp luật thường xuyên

(2) Dịch vụ tư vấn hợp đồng hợp tác kinh doanh vốn nước ngoài

(3) Dịch vụ tư vấn góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp công ty Việt Nam

(4) Tư vấn đăng ký điều chỉnh dự án đầu tư cho công ty vốn nước ngoài

(5) Tư vấn thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp cho công ty vốn nước ngoài

(6) Tư vấn xin Visa, Giấy phép lao động, Thẻ tạm trú cho nhà đầu tư, người lao động, chuyên gia nước ngoài vào Việt Nam làm việc tại công ty vốn nước ngoài

(7) Tư vấn hợp đồng và các giao dịch kinh doanh của công ty vốn nước ngoài

>>> Hãy liên hệ ngay với Công ty Luật chúng tôi theo thông tin liên hệ dưới đây để cùng trao đổi, tư vấn, xúc tiến hợp tác và rất nhiều hỗ trợ pháp lý liên quan.

(SINCE 2007) CÔNG TY LUẬT TRÍ MINH

Văn phòng Hà Nội: Tầng 5, Tòa nhà Viet Tower (Thái Bình Group), Số 01 Thái Hà, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội.

ĐT: (+84) 24-3766-9599

Văn phòng Tp. Hồ Chí Minh: Lầu 8, Tòa nhà Alpha, Số 151 Nguyễn Đình Chiểu, Phường 6, Quận 3, TP Hồ Chí Minh

ĐT: (+84) 28-3933-3323

Website: www.luattriminh.vn

Email: 

Ngày 17/6/2008 tại Hà Nội, đã diễn ra Hội thảo “Tự do hóa giao dịch vốn và sự ổn định khu vực tài chính Việt Nam” do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với Ngân hàng Công thương Việt Nam tổ chức. Hội thảo đã tập trung vào những nội dung chủ yếu sau đây:
1. Cơ sở lý luận về tự do hóa giao dịch vốn
Một cách đơn giản, giao dịch vốn (GDV) là những giao dịch liên quan đến chuyển vốn đầu tư của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, tự do hóa GDV là quá trình dỡ bỏ dần những hạn chế áp dụng đối với những giao dịch này. Đối với người dân, tự do hóa GDV cho phép họ thực hiện các hoạt động ở nước ngoài như mở tài khoản ngân hàng, tham gia hoạt động đầu tư nhằm đạt lợi nhuận cao. Các doanh nghiệp được phép đầu tư và sở hữu những công ty khác, các dòng vốn được tự do lưu chuyển từ nơi có tỷ suất sinh lợi thấp sang nơi có tỷ suất sinh lợi cao. Lợi ích của tự do hóa GDV là:

- Hình thành sự bình đẳng trong hoạt động đầu tư tài chính, các luồng vốn luân chuyển linh hoạt và hiệu quả, tạo điều kiện tiếp cận các luồng vốn quốc tế tăng vốn đầu tư trong nước, chuyển giao công nghệ và phát riển thị trường tài chính;
- Nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn vốn, giúp các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn trong và ngoài nước với chi phí thấp, nâng cao tính tự chủ của nhà đầu tư và khả năng phản ứng của thị trường, góp phần hoàn thiện thể chế;
- Việc mở cửa thị trường tín dụng làm tăng tính linh hoạt của các doanh nghiệp trước những biến động về hàng hóa và lợi nhuận.
Bên cạnh những thuận lợi, tự do hóa GDV cũng tạo ra sự đa dạng hóa các rủi ro phát sinh. Nếu chính sách vĩ mô không đủ mạnh và quản lý tài chính yếu kém, việc gia tăng luồng vốn vào quá mức sẽ gây ra những rủi ro đáng kể đối với nền kinh tế.
Tự do hóa GDV tác động mạnh đến hệ thống ngân hàng, cả chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương và hoạt động kinh doanh của các TCTD, các tập đoàn và ngân hàng lớn ngày càng có ảnh hưởng mạnh đến chính sách của các quốc gia. Quá trình tự do hóa GDV ảnh hưởng đến các NHTM – thành viên trực tiếp tham gia các GDV quốc tế và thông qua hoạt động của những khu vực khác trong nền kinh tế, gây khó khăn về quản lý tài sản, nhất là trong việc điều chỉnh tỉ giá, lãi suất, phòng ngừa rủi ro nhằm cân bằng lợi ích giữa việc nắm giữ ngoại tệ và nội tệ cũng như cơ cấu tiền gửi và cho vay.
Trong quá trình tự do hóa GDV, các luồng vốn vào ngày càng tăng mạnh. Trong đó, luồng vốn vào quá mức có thể dẫn đến tăng trưởng kinh tế quá nóng, nếu tiền cung ứng tăng quá mức so với tăng trưởng GDP thực tế sẽ làm tăng tổng phương tiện thanh toán (M2), gây áp lực lạm phát và biến động về tỉ giá hối đoái, làm tăng thâm hụt cán cân vãng lai, nhất là khi sản xuất trong nước phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, làm thay đổi cơ cấu tài trợ và tiềm ẩn rủi ro cán cân thanh toán và tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng.
Trong xu thế toàn cầu hóa, chu chuyển các luồng vốn giữa các quốc gia tăng mạnh cả về qui mô và tốc độ, mỗi quốc gia cần có chính sách và biện pháp đối phó thích hợp nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững. Đặc biệt là, cần xác định rõ liều lượng, lộ trình và thời điểm áp dụng chính sách, trước hết cần dựa trên mục tiêu kinh tế của nước thụ hưởng, cơ chế tỉ giá, các qui định về thể chế. Trong đó, cần xác định được động cơ và nguyên nhân của luồng vốn vào, cơ cấu luồng vốn, tác động của nó đến nền kinh tế và hệ thống tài chính. Nếu luồng vốn vào do cầu tiền trong nước tăng lên, giá chứng khoán và bất động sản giảm, dẫn đến điều chỉnh danh mục đầu tư và không cần can thiệp vì việc mở rộng tiền sẽ không gây áp lực lạm phát. Trái lại, khi luồng vốn vào do lãi suất thế giới thấp hơn, giá của tài sản tài chính và bất động sản tăng lên, trường hợp này cần có biện pháp điều chỉnh.
Luồng vốn vào quá nhiều đòi hỏi phải can thiệp nhằm giảm áp lực tăng M2, nhưng rất tốn kém, hiệu quả của biện pháp này tùy thuộc vào trình độ phát triển thị trường tài chính trong nước, thậm chí có thể làm nguồn vốn vào tăng trở lại, gây khó khăn cho các nhà tạo lập chính sách, việc điều hành CSTT trở nên khó khăn nếu đồng thời phải thực hiện mục tiêu ổn định tỉ giá, duy trì CSTT độc lập và tài khoản vốn mở.
Tự do hóa giao dịch tài chính quốc tế mà trọng tâm là GDV là vấn đề quan trọng nhưng rất phức tạp và cần được tiến hành một cách có trật tự và thận trọng, tùy thuộc và điều kiện của mỗi nước, những lợi ích tiềm năng và khả năng cạnh tranh của hệ thống tài chính. Quá trình này cần được bắt đầu bằng tự do hóa luồng vốn FDI, đồng thời phải lành mạnh hóa hệ thống tài chính, xây dựng cơ sở hạ tầng tài chính và giám sát chặt chẽ thị trường tài chính.
2. Kinh nghiệm quốc tế về tự do hóa giao dịch vốn
Theo quan điểm nghiên cứu của McKinnon, OECD thống nhất quan điểm là, tự do hóa GDV được thực hiện ở giai đoạn cuối của quá trình cải cách thị trường tài chính. Trong đó, các loại hình vốn trong quá trình tự do hóa GDV bao gồm: FDI, đầu tư cổ phiếu, đầu tư trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty, các công cụ thị trường tiền tệ, tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng và phi ngân hàng, các công cụ tiền tệ và công cụ thị trường tiền tệ, tín dụng phi thương mại và các công cụ phái sinh. Theo khuyến nghị của OECD, tự do hóa FDI sẽ được tiến hành trong giai đoạn đầu của quá trình cải cách, dần dần đến những hạng mục sau, và cuối cùng là các công cụ phái sinh.
Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) lại dựa vào rủi ro để đánh giá, xây dựng lộ trình tự do hóa tài chính và cuối cùng là tự do hóa tài khoản vốn. Xuất phát từ kết quả phân tích những điều kiện ban đầu, bao gồm các chính sách kinh tế vĩ mô, tình hình phát triển của thị trường tài chính, các vấn đề về thể chế và thông tin, các biện pháp tự do hóa tài chính trong và ngoài nước, ADB đưa ra các biện pháp chính sách trong quá trình tự do hóa tài chính. Trong đó, những phân tích, đánh giá và dự báo về mức độ rủi ro chính sách là cơ sở để đưa ra lộ trình phù hợp với khả năng hấp thụ của nền kinh tế và kết quả chuẩn bị của nền kinh tế.
Cách tiếp cận của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) là, để xây dựng lộ trình tự do hóa, cần xem xét đầy đủ mọi vấn đề từ cải cách vi mô, cơ cấu, xây dựng thể chế, các chính sách kinh tế vĩ mô và chế độ tỉ giá hối đoái. Mục tiêu của quá trình này là giám sát và đánh giá quá trình cải cách của quốc gia, là cách tiếp cận có ưu điểm và đề cập đầy đủ các khía cạnh của nền kinh tế, nhưng cách tiếp cận này rất phức tạp và đòi hỏi phải có đầy đủ các dữ liệu cần thiết.
Nhìn chung, các nước công nghiệp phát triển đều áp dụng cơ chế “mở” và nhà nước không kiểm soát hoạt động liên quan đến các giao dịch tài chính quốc tế nhưng cũng rất thận trọng trong việc quản lý các luồng vốn vào ngắn hạn. Phần lớn các nước đang phát triển, trong đó có Trung Quốc xây dựng lộ trình tự do hóa dựa trên cách tiếp cận của ADB, bắt đầu từ việc tự do hóa FDI, tiếp theo là tự do hóa ngoại thương, sau đó là cải cách ngân hàng và hệ thống tài chính. Về cơ bản, dù áp dụng cách tiếp cận nào cũng chỉ nên thực hiện tự do hóa các GDV sau khi đã tạo lập đầy đủ và đồng bộ những điều kiện cần thiết về cơ sở kinh tế, tài chính, pháp lý. Theo đó, cần tuân thủ những nguyên tắc cơ bản sau đây:

- Thực hiện mở cửa có giới hạn các GDV, thẩm định kỹ lưỡng các dự án sử dụng vốn nước ngoài, giám sát chặt chẽ sự chu chuyển của các dòng vốn ngắn hạn và các GDV trên thị trường chứng khoán, đồng thời duy trì một số hạn chế đối với việc chuyển vốn ra nước ngoài. Các khoản vay nước ngoài ngắn hạn được quản lý theo hạn mức số dư, chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý và phải thực hiện chế độ thông tin báo cáo;
- Tự do hóa GDV dài hạn trước khi tự do hóa GDV ngắn hạn, trong đó FDI là bước khởi đầu của tự do hóa GDV do nguồn vốn FDI là vốn dài hạn và ít bị tác động trước những biến động về tài chính hơn tín dung ngân hàng và những nguồn vốn khác, nếu có hiện tượng đào thoát vốn ra nước ngoài thì nguồn vốn FDI cũng không gây ra khủng hoảng tài chính như đầu tư tài chính hoặc vay nợ;
- Thực hiện chính sách ưu đãi đối với FDI thông qua việc nới lỏng các qui định về chuyển vốn, mua ngoại tệ chuyển về nước, cơ cấu vốn góp;
- Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài;
- Lành mạnh hóa hệ thống tài chính – ngân hàng trước khi tự do hóa GDV nhằm tránh nguy cơ mất khả năng thanh toán;
- Tự do hóa GDV phải gắn liền với việc tăng cường kỷ luật tài chính, trong đó hệ thống ngân hàng là trung tâm, tránh tình trạng bảo lãnh ngầm của chính phủ đối với các nguồn vốn vào;
- Tạo lập hạ tầng cơ sở vững chắc cho các hoạt động đầu tư quốc tế, nhất là đầu tư gián tiếp vào cổ phiếu, trái phiếu và những công cụ nợ khác.
3. Thực trạng tự do hóa giao dịch vốn tại Việt Nam
Việt Nam đang thực hiện tự do hóa GDV một cách có trật tự, bắt đầu từ thu hút FDI và mở cửa ngoại thương, nới lỏng kiểm soát lợi nhuận chuyển ra, và gần đây các nhà đầu tư được phép mua trái phiếu chính phủ với khối lượng và giá trị không hạn chế, mua 49% cổ phiếu doanh nghiệp và 30% cổ phiếu ngân hàng. Cho đến trước năm 2006, nguồn vốn vào chủ yếu là FDI và vay nợ nước ngoài. Từ cuối năm 2006, vốn đầu tư gián tiếp tăng mạnh, nhưng bắt đầu giảm từ đầu năm 2008. Sự có mặt của luồng vốn vào gián tiếp đã gây những tác động đáng kể đến nền kinh tế trong nước từ áp lực tăng giá VND, đến lạm phát, tỉ giá và tính thanh khoản của thị trường và của các NHTM.
Luồng vốn vào gián tiếp tăng mạnh trong năm 2007 và chiếm tới trên 50% tổng nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam, là yếu tố thúc đẩy đầu tư, nhưng hiệu quả sử dụng vốn tại Việt Nam rất thấp nên đã tạo áp lực lạm phát, thâm hụt cán cân vãng lai đã lên tới 10% GDP và tiếp tục tăng trong những tháng đầu năm 2008, tiềm ẩn rủi ro đảo chiều luồng vốn và mất cân bằng đối ngoại. Trong bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến theo chiều hướng xấu, việc đối phó trở nên rất khó khăn, do độ mở cửa của kinh tế Việt Nam rất lớn so với qui mô của nền kinh tế, lên đến 150% GDP, cao hơn nhiều so với các nước trên thế giới và trong khu vực.
Tính linh hoạt của các tài sản tài chính còn thấp, các qui định pháp lý về giao dịch của các công cụ tài chính chưa được luật hóa, dư nợ tín dụng tăng mạnh nhưng rủi ro rất cao, đặc biệt khi lượng ngoại tệ chiếm tỉ trọng đáng kể trong tổng tín dụng tại các NHTM. Việc cho phép các ngân hàng được cấp tín dụng bằng ngoại tệ đã tạo điều kiện cho các ngân hàng cân đối được bảng tổng kết tài sản ngoại tệ và hạn chế rủi ro ngoại hối trong một môi trường thiếu vắng các công cụ bảo hiểm trước những dao động về tỉ giá của VND. Tuy nhiên, cơ chế khuyến khích trong các TCTD không gắn liền với mục đích hoạt động, phương pháp quản lý rủi ro tín dụng còn bất cập. Năng lực giám sát của NHNN đối với hệ thống tài chính còn nhiều hạn chế, các phương pháp giám sát vẫn dựa trên cơ chế tuân thủ các qui định hành chính một cách máy móc.
Quá trình tự do hóa GDV đã tác động mạnh tới hoạt động của các TCTD, đặc biệt là nền kinh tế đang bị đô la hóa với 30% lượng tiền gửi tại các TCTD là ngoại tệ, tỉ lệ này là 40% tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh. Trong khi đó, năng lực quản trị rủi ro tại các TCTD Việt Nam còn hạn chế, tính chất mệnh lệnh trong quan hệ tín dụng chưa được khắc phục.
Việc điều hành CSTT gặp nhiều khó khăn do NHNN phải đồng thời thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát, can thiệp trên thị trường ngoại hối để tăng dự trữ ngoại hối nhà nước và ổn định tỉ giá tránh để VND mất giá hoặc lên giá quá mức.
Về cơ bản, khu vực tài chính của Việt Nam hiện nay còn hạn chế để có thể thực hiện một tài khoản vốn hoàn toàn tự do, vốn tự có tại các TCTD còn thấp và vẫn còn có TCTD chưa đảm bảo tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, chất lượng tài sản và các khoản dự phòng chưa đáp ứng yêu cầu, tính linh hoạt của các tài sản tài chính còn thấp, hệ thống quản lý giám sát còn nhiều bất cập.
4. Vai trò của chính sách kinh tế vĩ mô đối với sự ổn định khu vực tài chính tại Việt Nam trong quá trình tự do hóa giao dịch vốn
Để thực hiện tự do hóa GDV, vấn đề ổn định chính sách kinh tế vĩ mô đóng vai trò quan trọng và là điều kiện tiên quyết, nhất là chính sách tài khóa. Theo đó, tự do hóa GDV chỉ có thể thành công nếu đi kèm với nó là cải cách chính sách tài khóa và giảm thâm hụt ngân sách xuống mức thấp nhất theo thông lệ quốc tế, sử dụng chi tiêu chính phủ một cách hiệu quả, duy trì mức lạm phát thấp. Điều này đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới chính sách tài khóa, nhất là chính sách thu chi ngân sách, giảm thiểu tác động tiêu cực lên giá cả và cơ cấu thu chi, duy trì ổn định trong hệ thống thuế suất và mức chi ngân sách, đảm bảo nhất quán với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, tăng cường quản lý nợ công và hạn chế rủi ro thanh toán.
Phối hợp đồng bộ giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là giữa chính sách tài khóa với CSTT và chính sách tỉ giá, tạo điều kiện cho sự phát triển thị trường tài chính trong nước và duy trì tính thanh khoản của thị trường ngoại hối, đảm bảo cho các luồng vốn chu chuyển phù hợp với trình độ phát triển của hệ thống tài chính và khả năng giám sát các luồng vốn quốc tế.
Xác định rõ mục tiêu của CSTT, trong đó mục tiêu hàng đầu là kiểm soát lạm phát, tạo sự chủ động của NHNN trong việc áp dụng các biện pháp chính sách, kịp thời ứng phó trước những biến động kinh tế trong và ngoài nước, đặc biệt là các luồng vốn quốc tế, theo dõi chặt chẽ diễn biến cán cân thanh toán và tỉ giá để có những điều chỉnh thích hợp.
NHNN cần nâng cao hiệu quả điều hành tiền cung ứng và lãi suất, từng bước tổ chức lại thị trường tiền tệ, nhất là thị trường tiền tệ liên ngân hàng, tăng số lượng và chủng loại giấy tờ có giá, gắn kết thị trường tiền tệ và thị trường vốn nhằm giảm thiểu rủi ro. Nâng cao năng lực quản lý giám sát hệ thống ngân hàng và năng lực cạnh tranh của TCTD, hình thành khuôn khổ pháp lý đồng bộ và bình đẳng, áp dụng đầy đủ các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn kinh doanh tiền tệ. Từng bước chuyển đổi sang cơ chế tỉ giá linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường, hoàn thiện tổ chức thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhằm ngằn ngừa rủi ro tỉ giá, nâng cao chất lượng quản lý ngoại hối nhằm đảm bảo nguồn dự trữ thích hợp, nâng cao tính chuyển đổi của VND và khắc phục tình trạng đô la hóa.
5. Khuôn khổ chính sách tự do hóa các giao dịch vốn đến năm 2020
Từng bước mở cửa thị trường vốn trong nước theo phạm vi và trình tự hợp lý, phù hợp dần với thông lệ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh. Thực hiện mở cửa thị trường vốn đồng thời với cải cách liên tục hệ thống dịch vụ tài chính, cả về cơ cấu tổ chức, trình độ nguồn nhân lực, quan điểm và phương pháp điều hành. Trong đó, cải cách về chính sách điều hành tỉ giá, quản lý ngoại hối và lãi suất có vai trò đặc biệt quan trọng.
Tự do hóa GDV phải gắn liền với việc tăng cường kỷ luật tài chính, trong đó hệ thống ngân hàng là trung tâm. Mục tiêu là minh bạch hóa hệ thống kế toán, kiểm toán, tăng cường thanh tra, giám sát và phòng ngừa rủi ro, trong đó việc thực hiện minh bạch hóa thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hiệu lực của các quyết định chính sách và biện pháp điều chỉnh.
Giám sát chặt chẽ các luồng vốn vào, nhất là vốn ngắn hạn, có biện pháp điều chỉnh cơ cấu luồng vốn nước ngoài theo hướng hạn chế rủi ro của các luồng vốn ngắn hạn thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô và kiểm soát các luồng vốn, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế và trình độ phát triển của thị trường tài chính Việt Nam, nhằm ổn định thị trường và tỉ giá hối đoái.
Tăng cường hiệu quả giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ, xây dựng các chỉ tiêu giám sát theo CAMELS, xây dựng hệ thống cảnh báo sớm và hệ thống thông tin quản lý để có biện pháp xử lý trong trường hợp cần thiết.
Trong quá trình đàm phán mở cửa dịch vụ tài chính, không nên loại bỏ những hạn chế cần thiết về tỉ lệ sở hữu vốn của bên đối tác nước ngoài, đồng thời kèm theo những ràng buộc về hình thức đầu tư và nhân sự điều hành hoặc sử dụng lao động để đảm bảo lợi ích chủ quyền quốc gia và duy trì sự kiểm soát của nhà nước đối với thị trường tài chính. Đối với hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán, cần có những bước đi và biện pháp bảo vệ hết sức thận trọng, tiến tới mở cửa toàn diện thị trường vốn khi điều kiện cho phép.
Tự do hóa GDV cần được thực hiện từ từ và chỉ khi đã có đủ những điều kiện cơ bản sau đây:
- Hệ thống ngân hàng đã phát triển mạnh, có khả năng hấp thụ và phân bổ hiệu quả các nguồn vốn vào. Đồng thời, có qui định pháp lý đầy đủ và đồng bộ nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng và hạn chế độc quyền;
- Cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh cao, có khả năng thích ứng với những thay đổi kinh tế trong và ngoài nước, các công ty được sắp xếp lại và đổi mới công nghệ nhằm tăng hiệu quả sử dụng vốn vay;
- Môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh để tránh thâm hụt ngân sách, thể hiện qua các chỉ tiêu tăng trưởng GDP, tỉ lệ lạm phát, thất nghiệp, cán cân thanh toán;
- Xây dựng hệ thống qui định thận trọng và đủ mạnh, đảm bảo thực hiện hệ thống kế toán, kiểm toán và chế độ báo cáo phù hợp. Cơ chế thị trường phát triển đồng bộ và có hiệu quả, có khả năng huy động mọi nguồn lực cho tăng trưởng;
- Đảm bảo hiệu lực của các chính sách kinh tế vĩ mô và cơ chế điều hành tỉ giá hối đoái, đảm bảo mức dự trữ ngoại hối phù hợp, có khả năng đối phó với những biến động trên thị trường ngoại hối và tỉ giá hối đoái, đáp ứng đủ ngoại tệ cho nhu cầu của đất nước;
- Tạo lập hạ tầng cơ sở cho thị trường trong nước trước khi tự do hóa các GDV, đặc biệt là cơ sở hạ tầng cho hoạt động đầu tư gián tiếp vào cổ phiếu và các công cụ nợ, góp phần giảm dần sự phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng.
XT- VPNHNN