Chí ra sự khác nhau của câu thơ thứ hai trong phần phiên âm và phần dịch thơ

Bạn đang muốn kiếm văn mẫu so sánh phiên âm và dịch thơ bài Tỏ lòng? Cùng THPT Sóc Trăng tìm hiểu các ý sau đây để làm rõ nhé:

So sánh phiên âm và dịch thơ bài Tỏ lòng chủ yếu thể hiện cách hiểu sâu sắc nhất ở trong 2 câu thơ: đề và thực) của bài thơ:

Câu đề

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu” (phiên âm)

Bạn đang xem: So sánh phiên âm và dịch thơ bài Tỏ lòng

“Múa giáo non sông trải mấy thu” (dịch nghĩa)

Ta thấy hai từ “múa giáo” chưa thể hiện được hết ý nghĩa của hai từ “hoành sóc”. “Hoành sóc” là cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ non sông. Từ ý nghĩa lẫn âm hưởng, từ “hoành sóc” đều tạo ra cảm giác kì vĩ và lớn lao hơn.

Hình ảnh tráng sĩ hiện lên trong hành động cắt ngang ngọn giáo với mục đích giữ gìn non sông đã mấy thu rồi. Các bản dịch thơ dịch “hoành sóc” bằng “múa giáo”. Theo tôi, cách dịch như vậy là hay  nhưng chưa có sức âm vang. “Múa giáo” thể hiện sự điêu luyện, bền bỉ, dẻo dai nhưng thiếu đi độ cứng rắn, mạnh mẽ. “Cầm ngang ngọn giáo” khắc hoạ được tư thế hiên ngang, lẫm liệt, vững chãi của người trai thời Trần. Câu thơ nguyên tác dựng lên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo trấn giữ đất nước. Đó chính là dáng đứng của con người Việt Nam đời Trần.

Trong câu thơ đầu này, con người xuất hiện trong bối cảnh không gian và thời gian đều rộng lớn. Không gian mở theo chiều rộng của núi sông và mở lên theo chiều cao của sao Ngưu thăm thẳm. Thời gian không phải đo bằng ngày bằng tháng mà đo bằng năm, không phải mới một năm mà đã mấy năm rồi (cáp kỉ thu). Con người cầm cây tr­ường giáo (cũng đo bằng chiều ngang của non sông), lại được đặt trong một không gian, thời gian như thế thì thật là kì vĩ. Con ng­ười hiên ngang ấy mang tầm vóc của con ng­ười vũ trụ, non sông.

Câu thực

“Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” (Phiên âm)

“Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” (Dịch nghĩa)

Câu thơ “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” có hai cách hiểu : Thứ nhất, ta có thể hiểu là “ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”. Nhưng cũng có thể giải thích theo cách khác, với cách hiểu là: Ba quân hùng mạnh khí thế át sao Ngưu. Có thể nói quân đội nhà Trần mạnh cả về trí và lực, không những nó có được đầy đủ binh hùng tướng mạnh mà còn có những vị đại tướng quân trí dũng song toàn (như: Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật…). Vì thế thật không quá khoa trương khi nói: cái khí thế ấy đúng là đủ sức làm đổi thay trời đất.

“Tam quân” là chỉ quân đội, dân tộc; “Ngưu” có nghĩa: là sao Ngưu, là trâu. Hình ảnh ba quân trong tư thế xông lên giết giặc với khí thế bừng bừng. Thủ pháp nghệ thuật so sánh vừa cụ thể hoá sức mạnh vật chất vừa hướng tới sự khái quát hoá sức mạnh tinh thần của “hào khí Đông A”. Câu thơ gây ấn tượng mạnh bởi sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan và cảm nhận chủ  quan, giữa hiện thực và lãng mạn. Tác giả Trần Trọng Kim dịch là “Ba quân hùng khí át sao Ngưu”, còn Bùi Văn Nguyên dịch là “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”. Tôi thích cách dịch của Trần Trọng Kim, bởi lẽ dịch “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” nói được sức mạnh, khí thế dũng mãnh “Sát Thát” của quân đội, sẵn sàng lăn xả vào bọn giặc dữ một khi chúng tràn tới… nhưng chưa nói được tầm vóc. Hơn nữa dịch “át sao Ngưu”… câu thơ có lẽ giàu hình ảnh, gợi cảm hơn, kết hợp với câu thơ thứ nhất mở ra cả một không gian rộng lớn, vì thế ý thơ cũng giàu sức khái quát hơn.

Xem thêm: Phân tích bài thơ Tỏ lòng

Câu luận

“Nam nhi vị liễu công danh trái” (Phiên âm)

“Công danh nam tử còn vương nợ” (Dịch thơ)

Tỏ lòng là bài thơ nói chí. Đó là cái chí của những bậc nam nhi trong thiên hạ. Chính vì thế, món “nợ công danh” mà nhà thơ nói đến ở đây vừa là khát vọng lập công, lập danh (mong để lại tiếng thơm, sự nghiệp cho đời) vừa có ý “chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước”. Theo quan niệm lí tưởng của trang nam nhi thời phong kiến thì công danh được coi là một món nợ đời phải trả. Trả xong nợ công danh mới hoàn thành nghĩa vụ với đời, với dân, với nước. Ở phần cuối của bài thơ, tác giả vẫn “thẹn” vì mình ch­ẳng đ­ược như Vũ Hầu Gia Cát Lượng, nghĩa là vẫn muốn lập công lập danh để giúp nước giúp đời.

Câu kết

“Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu” (Phiên âm)

“Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu” (Dịch nghĩa)

Trong câu thơ cuối, nỗi “thẹn” đã thể hiện vẻ đẹp nhân cách của người anh hùng. Phạm Ngũ Lão “thẹn” vì chưa có đ­ược tài năng mưu lược như Vũ Hầu Gia Cát Lượng (Khổng Minh – đời Hán) để giúp dân cứu nước, thẹn vì trí và lực của mình thì có hạn mà nhiệm vụ khôi phục giang sơn, đất nước còn quá bộn bề. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão cũng là những day dứt của Nguyễn Trãi hay của Nguyễn Khuyến sau này. Đó là những nỗi thẹn có giá trị nhân cách – nỗi thẹn của những con người có trách nhiệm với đất nước, non sông.

Hết

Trên đây là một số luận về việc so sánh phiên âm và dịch thơ bài Tỏ lòng, mong rằng nội dung này sẽ giúp các em hiểu rõ hơn về bài thơ!

Xem thêm: Cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng

[Văn mẫu 10] So sánh phiên âm và dịch thơ bài Tỏ lòng trong câu đề và câu thực để so với nguyên tác chữ Hán với câu thơ dịch đã thể hiện được hết ý nghĩa chưa.

Đăng bởi: THPT Sóc Trăng

Chuyên mục: Giáo dục

Dịch nghĩa

Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?

Dịch thơ

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.

-Nhận xét:

Câu: "Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?"

-> Câu nghi vấn: có từ để hỏi "làm thế nào" kết hợp với dấu hỏi chấm.

- Câu trần thuật: "Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ."

-> Câu trần thuật với dấu chấm kết thúc câu.

- Cả hai câu đều nhằm mục đích bộc lộ sự xúc động, hân hoan trước cảnh đẹp của đêm trăng đẹp.

Câu thứ hai trong nguyên tác có nghĩa là “Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?”. Câu thơ dịch dịch thành: Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ đã làm mất đi cái xốn xang, bối rối của nhân vật trữ tình (cũng là mất đi sự lãng mạn và nhạy cảm trước thiên nhiên trong tâm hồn của Bác)

HỌC TỐT NHÉ BẠN!!UwU

1. Thơ Ngắm Trăng :

Phiên âm :

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.

Dịch nghĩa :

Trong tù không rượu cũng không hoa,
Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?
Người hướng ra trước song ngắm trăng sáng,
Từ ngoài khe cửa, trăng ngắm nhà thơ.

Dịch thơ :

Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.

2.

+Khác nhau : 

 Phiên âm  :   “Đối thủ lương tiêu nại nhược hà?” 

 Là câu hỏi tu từ (câu nghi vấn) để thể hiện rõ tâm trạng xốn xang trước cái cảnh trăng đẹp trong tù 

 Dịch thơ  :   “Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ”.

Đây là câu trần thuật để kể. Câu kể này sẽ làm mất đi tâm trạng xốn xang trước cảnh đẹp đó, đồng thời cũng sẽ làm giảm đi tình yêu nước, thiên nhiên của tác giả. 

Ta có thể thấy câu phiên âm sẽ cho ta thấy rõ giá trị của  bài thơ. Còn câu dịch thơ sẽ không sát nghĩa  ,rõ tình yêu thiên nhiên, yêu nước của Bác Hồ.

Em thấy câu phiên âm hay hơn vì :

  câu phiên âm sẽ cho ta thấy rõ giá trị của bài thơ. Còn câu dịch thơ sẽ không sát nghĩa  , không rõ tình yêu thiên nhiên, yêu nước của Bác . 🙂

Đọc đoạn thơ sau đây và trả lời các câu hỏi (Ngữ văn - Lớp 8)

1 trả lời

Câu văn nào dưới đây là câu ghép (Ngữ văn - Lớp 6)

2 trả lời

Trang chủ » Lớp 8 » Soạn văn 8 tập 2

Bài tập 2: Trang 47 sgk ngữ văn 8 tập 2 Đọc câu thứ hai trong phần dịch nghĩa bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh (Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?) và câu thứ hai trog phần dịch thơ (Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ). Cho nhận xét về kiểu câu và ý nghĩa của hai câu đó.

Bài làm:

  • Câu thứ hai trong phần dịch nghĩa bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh (Trước cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào?) là câu nghi vấn vì có dấu hỏi chấm ở cuối câu và có từ để hỏi: biết làm thế nào?
  • Câu thứ hai trog phần dịch thơ (Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ) là câu trần thuật, kết thúc câu bằng dấu chấm.
  • Nhận xét về kiểu câu: trong câu nghi vấn thể hiện rõ hơn sự bối rối, hộp hộp của nhà thơ; trong câu trần thuật chỉ thể hiện được sự xúc động của nhà thơ trước cảnh trăng đẹp, mất đi sự bối rối, hồi hộp.
  • Ý nghĩa: cả hai câu đều diễn tả ý: Nhà thơ xúc động mãnh liệt trước cảnh đẹp của đêm trăng sáng.

=> Trắc nghiệm ngữ văn 8 bài: Câu trần thuật

Từ khóa tìm kiếm Google: câu 2 trang 47 văn 8 tập 2, soạn văn câu 2 trang 47 văn 8 tập 2, trả lời câu 2 trang 47 văn 8 tập 2, nhận xét về kiểu câu và ý nghĩa, câu thứ hai trong phần dịch nghĩa, câu thứ hai trog phần dịch thơ.

Lời giải các câu khác trong bài