Các loại rủi ro thường gặp trong ngân hàng

Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, rủi ro luôn luôn tồn tại và bản thân mỗi ngân hàng không thể triệt tiêu rủi ro mà phải đương đầu với rủi ro. Có nhiều cách phân chia rủi ro của NHTM.

Theo Ủy ban Basel (1999) cho rằng rủi ro của các tổ chức tài chính được phân thành tám loại: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý và rủi ro danh tiếng.

Hay Steinwand (2000) cho rằng rủi ro lớn phải mà các tổ chức tài chính vi mô phải đối mặt như sau:

Bảng 1.1: Rủi ro chính các tổ chức tài chính vi mô phải đối mặt

Rủi ro tài chính Rủi ro hoạt động Rủi ro chiến lược
Rủi ro tín dụng Rủi ro giao dịch Rủi ro quản trị
Rủi ro giao dịch Rủi ro nguồn nhân lực Hiệu quả giám sát và cấu trúc quản trị kém
Rủi ro danh mục Rủi ro thông tin và công nghệ
Rủi ro thanh khoản Rủi ro gian lận
Rủi ro thị trường Rủi ro pháp lý và sự
tuân thủ
Rủi ro danh tiếng
Rủi ro lãi suất   Rủi ro kinh doanh bên ngoài
Rủi ro tỷ giá   Rủi ro sự kiện
Rủi ro danh mục đầu tư    
Nguồn: Steinwand (2000)

Những loại rủi ro mà các tổ chức tài chính phải đối mặt gồm có năm loại như rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro hệ thống (Altman, 1998)

Khác với cách phân loại ở trên, theo Angelopoulos and Mourdoukoutas (2001) rủi ro có thể được phân loại thành hai nhóm: rủi ro truyền thống và phi truyền thống rủi ro. Rủi ro truyền thống là rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro chính trị và pháp lý và rủi ro hoạt động. Rủi ro phi truyền thống là rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro xử lý nợ (liquidation risk), rủi ro về giá, rủi ro danh mục đầu tư và rủi ro tài chính phái sinh.

Có nhiều loại rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng, theo Bessis (2002) các ngân hàng phải đối mặt với các loại rủi ro: Rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro khác.

Rủi ro hối đoái là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính.

Tỷ giá hối đoái thường xuyên dao động, sự thay đổi này cùng với trạng thái hối đoái của ngân hàng tạo ra thi nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy nhiên, những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho ngân hàng.

Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra tổn thất khi lãi suất thay đổi ngoài dự tính của ngân hàng.

Lãi suất của ngân hàng (cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay) thường xuyên biến động với mức độ khác nhau có thể dẫn đến tổn thất. Rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng có liên quan chặt chẽ với nhau.

Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến.

Rủi ro thanh khoản làm gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản như phải huy động vốn với lãi suất cao hơn, hoặc làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán.

Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do khách hàng vay không trả nợ đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Rủi ro tín dụng ở hai góc độ là rủi ro từ huy động vốn và rủi ro trong cho vay.

Ngoài các loại rủi ro ở trên thì theo Bessis (2002) thì còn có các loại rủi ro khác như rủi ro thị trường, rủi ro lệch hạn, rủi ro tính thanh khoản thị trường, rủi ro hoạt động

Như vậy, trong hoạt động của ngân hàng các ngân hàng phải đối mặt với nhiều loại rủi ro trong đó rủi ro lớn mà các ngân hàng phải đối mặt là rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối và việc hiểu các thành phần rủi ro cho phép các ngân hàng có chính sách quản trị rủi ro phù hợp. Trong các loại rủi ro các ngân hàng phải đối mặt thì rủi ro tín dụng là loại rủi ro quan trọng nhất, đây là loại rủi ro phụ thuộc cả về phía khách hàng và ngân hàng (Wang, 2013).

Rủi ro tín dụng là gì? Các loại rủi ro tính dụng trong ngân hàng? Đặc điểm và dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng là gì?

Hiện nay như chúng ta đã biết thì tín dụng trong hoạt động của ngân hàng thương mại là một nghiệp vụ quan trọng đem lại nguồn thu để duy trì bộ máy và tích lũy lợi nhuận. Tuy nhiên, hoạt động này cũng được đánh giá là tiềm ẩn nhiều rủi ro mà các Ngân hàng thương mại luôn phải đối mặt.

1. Rủi ro tín dụng là gì?

Từ các định nghĩa trên, ta có thể hiểu khái niệm rủi ro tín dụng là một loại rủi ro thất thoát tài sản có thể phát sinh khi một bên đối tác không thực hiện một nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc nghĩa vụ tài chính đối với một ngân hàng. Điều này bao gồm cả việc không thanh toán nợ khi khoản nợ đến hạn cho dù đấy là nợ gốc hay nợ lãi.

Hiểu một cách khác, rủi ro tín dụng đó là loại rủi ro xảy ra khi ngân hàng không thu hồi được nợ khi khoản vay đến hạn do người vay đã không thực hiện đúng cam kết vay vốn theo hợp đồng tín dụng. Rủi ro tín dụng là loại rủi ro gắn liền với hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng.

Nói tóm lại, rủi ro tín dụng là rủi ro gắn liền với hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng. Đây là loại rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào và rất khó tránh khỏi. Có thể nói rằng việc ngân hàng kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tín dụng chính là hoạt động kinh doanh thu lợi dựa trên rủi ro phát sinh từ chính hoạt động đó. Rủi ro tín dụng tiềm ẩn trong suốt quá trình trước, trong và sau khi cấp tín dụng cho khách hàng và biểu hiện ra bên ngoài là món vay không thu hồi được, phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi, nợ có khả năng mất vốn. Hệ quả của rủi ro tín dụng:

+ Đối với bản thân Ngân hàng:

Nếu có tỷ lệ nợ xấu quá lớn thì Ngân hàng đó có thể bị Ngân hàng nhà nước đưa vào diện kiểm soát đặc biệt. Khi đó thì uy tín của Ngân hàng sẽ bị giảm sút. Những người đang có tiền gửi tại Ngân hàng sẽ ồ ạt rút tiền và chấm dứt quan hệ. Đây là thiệt hại vô hình nghiêm trọng mà không thể lường được giá trị.

Khi phát sinh nợ xấu, Ngân hàng còn phải tốn nhiều khoản chi phí để xử lý nợ như chi phí nhân viên, chi phí đi lại, chi phí gặp gỡ để xử lý nợ… Ngoài ra, Ngân hàng còn mất chi phí cơ hội cho những khoản vay mới, chậm vòng quay tín dụng… Tất cả dẫn đến giảm hiệu quả chi phí và giảm khả năng sinh lời của Ngân hàng.

+ Đối với nền kinh tế đất nước:

Hoạt động ngân hàng liên quan mật thiết đến nhiều cá nhân và lĩnh vực trong nền kinh tế nên khi ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay phá sản thì các khách hàng gửi tiền sẽ có tâm lý hoang mang và ồ ạt đi rút tiền gây khó khăn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng. Trường hợp ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, xã hội bất ổn và có thể dẫn đến suy thoái kinh tế. Rủi ro tín dụng có thể là tác nhân tạo nên một cơn khủng hoảng tài chính ảnh hưởng đến cả khu vực và thế giới. Ngân hàng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến chính sách tiền tệ, đến công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước. Nếu rủi ro tín dụng không thể kiểm soát thì sẽ gây nên “phản ứng dây chuyền” đe dọa đến sự phát triển của toàn bộ hệ thống Ngân hàng và nền kinh tế đất nước.

Rủi ro tín dụng tiếng anh là Credit risk”

Xem thêm: Hợp đồng Repo là gì? Rủi ro tín dụng đối với giao dịch Repo

2. Các loại rủi ro tính dụng trong ngân hàng:

2.1. Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro:

Rủi ro giao dịch: Là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận:

+ Rủi ro lựa chọn: là rủi ro liên quan đến quá trình đánh giá phân tích tín dụng khi ngân hàng lựa chọn phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay.

+ Rủi ro bảo đảm phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại TSĐB, chủ thể đảm bảo, cách thức đảm bảo và mức cho vay trên trị giá của TSĐB.

+ Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề.

Rủi ro danh mục: Là rủi ro phát sinh do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, bao gồm rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.

Rủi ro nội tại: Xuất phát từ các yếu tố, đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay.

Rủi ro tập trung: Khi ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng; cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế, hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định, cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.

Rủi ro tác nghiệp: Là nguy cơ tổn thất trực tiếp hoặc gián tiếp do cán bộ ngân hàng, quá trình xử lý và hệ thống nội bộ không đầy đủ hoặc không hoạt động hoặc do các sự kiện bên ngoài tác động vào hoạt động ngân hàng.

Xem thêm: Tỷ lệ dự trữ thanh khoản là gì? Tỷ lệ dự trữ thanh khoản của tổ chức tín dụng?

2.2. Căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng:

Rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn: Khi thiết lập mối quan hệ tín dụng, ngân hàng và khách hàng phải quy ước về khoản thời gian hoàn trả nợ vay. Tuy nhiên, đến thời hạn quy ước nhưng ngân hàng vẫn chưa thu hồi được vốn vay.

Rủi ro do mất khả năng chi trả: Là rủi ro xảy ra trong trường hợp doanh nghiệp đi vay mất khả năng trả nợ, ngân hàng phải thanh lý TSĐB của doanh nghiệp để thu nợ.

Rủi ro tín dụng không giới hạn ở hoạt động cho vay: Bao gồm các hoạt động khác mang tính chất tín dụng của ngân hàng như bảo lãnh, cam kết, chấp thuận tài trợ thương mại, cho vay thị trường liên ngân hàng, tín dụng thuê mua, đồng tài trợ…

3. Đặc điểm và dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng là gì?

3.1. Đặc điểm của rủi ro tín dụng:

Tính tất yếu: Như đã đề cập tại phần trước, rủi ro tín dụng luôn tồn tại gắn liền với hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Điều tất yếu của mọi ngân hàng kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tín dụng là phải chấp nhận rủi ro dựa trên mối quan hệ: Lợi nhuận – rủi ro. Do đó, các ngân hàng thương mại cần phải đánh giá tính khả thi của phương án kinh doanh dựa trên mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích phù hợp với mức chấp nhận rủi ro. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà họ gánh chịu là hợp lý, kiểm soát được và nằm trong phạm vi khả năng các nguồn lực tài chính và năng lực tín dụng của ngân hàng.

Tính đa dạng, phức tạp: Sự đa dạng, phức tạp của rủi ro tín dụng xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Chẳng hạn như: loại hình thức tín dụng, quy định của pháp luật, sự chuyển biến của nền kinh tế, sự đa dạng của nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng…

Tính gián tiếp, bị động: Về mặt bản chất, sau khi ngân hàng giải ngân vốn vay và trong quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng, tình trạng rủi ro tín dụng mới xảy ra. Do đó chỉ khách hàng mới có đầy đủ thông tin về chất lượng, hiệu quả của khoản vay tín dụng đó. Vì thế, ngân hàng thương biết thông tin sau hoặc biết thông tin không chính xác về những khó khăn hay thất bại của khách hàng, dẫn đến tình trạng thông tin bất cân xứng và ngân hàng ở vào thế bị động, đưa ra những ứng phó chậm trễ.

3.2. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng:

Một số dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng thường gặp như:

+ Dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng: Khách hàng không thanh toán đúng hạn hoặc không thanh toán đầy đủ khoản vay (bao gồm cả nợ gốc và nợ lãi); Khách hàng đề nghị gia hạn nợ, cơ cấu nợ, hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ; Khách hàng sử dụng vốn khác với mục đích thỏa thuận trong hợp đồng ban đầu; Có biểu hiện giảm vốn điều lệ, vốn chủ sở hữu; Chu kỳ vay thường xuyên gia tăng.

Xem thêm: Chấp phiếu ngân hàng là gì? Rủi ro tín dụng chấp phiếu ngân hàng

+ Dấu hiệu liên quan đến phƣơng pháp quản lý và tổ chức của khách hàng: Không có sự thống nhất về quan điểm, mục đích, cách thức quản lý trong hội đồng quản trị hay ban điều hành; Thu hẹp quy mô sản xuất, chủng loại sản phẩm; Nội bộ có mâu thuẫn, tranh giành quyền lực; Quản lý nhân sự yếu kém, cơ cấu không hợp lý, đội ngũ nhân sự không gắn bó lâu dài đặc biệt là cấp quản lý…

+ Dấu hiệu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Thu nhập không ổn định; chậm thanh toán lương cho nhân viên; Sản lượng hoặc doanh thu của doanh nghiệp suy giảm, hàng tồn kho tăng đột biến; Khả năng thanh toán giảm; Các khoản nợ thương mại gia tăng một cách bất thường

+ Dấu hiệu về mặt pháp luật: Doanh nghiệp có biểu hiện vi phạm pháp luật; Có những thay đổi theo chiều hướng bất lợi về chính sách liên quan đến ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp