Phương pháp dạy học môn tự nhiên xã hội ở tiểu học docxBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.11 KB, 92 trang ) Show
thể người và mối liên hệ giữa con người và môi trường. + Nhân văn: Tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người, các thành quả lao động, sáng tạo của con người, mối quan hệ giữa con người và con người trong gia đình và cộng đồng. * Sức khoẻ: Vệ sinh cá nhân, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường, phòng tránh một số bệnh tật và tai nạn, các vấn đề về sức khoẻ tinh thần. * Xã hội: Học sinh có những hiểu biết ban đầu về xã hội theo thời gian (Biết được một số sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu, điển hình trong lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho đến ngày nay), theo không gian (Biết được nơi bản thân, gia đình và cộng đồng cư trú, sơ lược về đất nước Việt Nam, về các châu lục và các nước trên thề giới). * Thế giới vật chất xung quanh: 2 + Giới tự nhiên vô sinh: các vật thể, các chất + Giới tự nhiên hữu sinh: động, thực vật Ngoài những tri thức cơ bản trên, học sinh còn được cung cấp một số vấn đề về dân số, môi trường. 2. Về kỹ năng: Hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng như: - Biết quan sát và làm một số thí nghiệm thực hành khoa học đơn giản và gần gũi với đời sống hàng ngày. - Biết phân tích, so sánh, dánh giá một số mối quan hệ đơn giản, những dấu hiệu chung và riêng của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. - Biết giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường, biết phòng tránh một số bệnh tật và tai nạn. - Biết vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống hàng ngày. 3. Về thái độ: hình thành và phát triển ở học sinh thái độ và thói quen như: - Ham hiểu biết khoa học. -Yêu thiên nhiên, đất nước, con người, có ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường sống. - Hình thành thái độ và cách ứng xử đúng đắn đối với bản thân, gia đình, cộng đồng. Có ý thức thực hiện các quy tắc giữ vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và cộng đồng, sống hoà hợp với môi trường và cộng đồng. III. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÁC MÔN VỀ TN-XH 1. Đặc điểm chương trình Chương trình các môn TN-XH ( Khoa học, Lịch sử và Địa lý) có những đặc điểm sau: 1.1. Chương trình được xây dựng theo quan điểm tích hợp. Dạy học theo tư tưởng tích hợp được UNESCO định nghĩa như sau: " Dạy học theo tư tưởng tích hợp là cách trình bày các khái niệm và nguyên lý khoa học cho phép diễn đạt sự thống nhất cơ bản của tư tưởng khoa học, tránh nhấn mạnh quá muộn hoặc quá sớm sự sai khác giữa các lĩnh vực khoa học khác nhau"(Hội nghị về khoa học giáo dục của UNESCO- Paris, 1972). Dạy học theo tư tưởng tích hợp còn gọi là dạy học hợp nhất các khoa học. Quan điểm tích hợp được thể hiện trong các môn về TN - XH ở các khía cạnh sau: - Các môn về TN-XH xem xét tự nhiên- xã hội- con người trong một thể thống nhất, có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó con người là yếu tố cơ bản. - Chương trình các môn tích hợp kiến thức của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau như: Vật lý, Hoá học, Sinh học, Địa lý, Lịch sử, Sức khoẻ, Dân số, Môi trường, Kỹ năng sống. - Tuỳ theo trình độ nhận thức của HS ở từng giai đoạn mà chương trình có cấu trúc cho phù hợp. Cụ thể: 3 + Chương trình môn TN-XH (lớp1,2,3) được cấu trúc thành 3 chủ đề lớn: Con người và sức khoẻ, Xã hội, Tự nhiên. Chương trình được cấu trúc đồng tâm, được mở rộng và nâng cao dần qua các lớp. + Chương trình môn Khoa học được cấu trúc thành các chủ đề : Con người và sức khỏe, Vật chất và năng lượng, Động vật và thực vật, Môi trường và tài nguyên thiên nhiên. + Chương trình môn Địa lý và Lịch sử được tích hợp theo quan điểm liên môn, bao gồm các kiến thức về lịch sử và địa lý Việt Nam, sơ lược địa lý thế giới. 1.2.Trong chương trình môn cácTN-XH, kiến thức được trình bày từ gần đến xa, từ dễ đến khó nhằm phù hợp đặc điểm nhận thức của học sinh. 1.3. Chương trình các môn về TN-XH (Đặc biệt là môn TN-XH, Khoa học) được cấu trúc linh hoạt, mềm dẻo, thực tiễn, thiết thực, tạo điều kiện cho giáo viên có thể vận dụng các phương pháp mới vào quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Đồng thời, giúp học sinh có thể vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống hàng ngày. 2. Phân phối chương trình: Môn Lớp Số tiết/ tuần Tổng số tiết TN-XH 1 1 35 2 1 35 3 2 70 Khoa học 4 2 70 5 2 70 Lịch sử và Địa lý 4 2 (ĐL: 1, LS:1) 70 5 2 (ĐL: 1, LS:1) 70 IV. ĐẶC ĐIỂM SÁCH GIÁO KHOA CÁC MÔN VỀ TN-XH 1. SGK môn TN-XH và môn Khoa học a. Cách trình bày chung: SGK môn TN-XH, môn Khoa học chủ yếu được trình bày bằng những hình ảnh phong phú, sinh động, màu sắc tươi sáng bao gồm kênh hình và kênh chữ phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học. - Khác với SGK môn TN- XH cũ, kênh hình làm nhiệm vụ kép: vừa đóng vai trò cung cấp thông tin, là nguồn tri thức quan trọng của bài học, vừa đóng vai trò chỉ dẫn các hoạt động học tập cho học sinh thông qua các kí hiệu: + " Kính lúp": Yêu cầu học sinh quan sát và trả lời câu hỏi. + " Dấu chấm hỏi": Yêu cầu học sinh liên hệ thực tế và trả lời. + "Cái kéo và quả đấm": Yêu cầu học sinh thực hiện trò chơi học tập. + "Bút chì": Yêu cầu học sinh vẽ những gì đã học. 4 + "Ống nhòm": Yêu cầu HS làm nhiệm vụ thí nghiệm, thực hành. + Bóng đèn toả sáng: bạn cần biết. - Kênh chữ: Chủ yếu là các câu hỏi, các lệnh yêu cầu học sinh làm việc, trả lời câu hỏi. Ở một số bài ở lớp 2 và lớp 3 và nhất là trong môn Khoa học, kênh chữ đã được tăng cường, đóng vai trò là nguồn cung cấp thông tin của bài học. b. Cách trình bày một chủ đề: Mỗi chủ đề đều có một trang riêng để giới thiệu tên chủ đề và một hình ảnh tượng trưng cho chủ đề đó. Mỗi chủ đề được phân biệt bằng một dải màu và một hình ảnh khác nhau. Cụ thể: Chủ đề "Con người và sức khoẻ" được phân biệt bởi màu hồng với kí hiệu là một cậu bé; chủ đề "Xã hội" được phân biệt bởi màu xanh lá cây với kí hiệu là một cô bé; chủ đề "Tự nhiên" được phân biệt bởi màu xanh da trời và có kí hiệu là một ông Mặt Trời. Riêng SGK môn Khoa học: chủ đề" Con người và sức khoẻ" được kí hiệu là 2 học sinh nam, nữ; chủ đề " Vật chất và năng lượng" có kí hiệu Mặt trời; chủ đề " Động vật và thực vật" có kí hiệu là 2 bông hoa hướng dương; chủ đề "Môi trường và tài nguyên thiên nhiên" có kí hiệu là bầu trời xanh. c. Cách trình bày một bài học: Mỗi bài học được trình bày gọn trong hai trang mở liền nhau để học sinh tiện theo dõi. So với sách giáo khoa cũ, cấu trúc của mỗi bài học linh hoạt, mềm dẻo hơn. Có thể bắt đầu bằng những câu hỏi nhằm yêu cầu học sinh huy động vốn hiểu biết của mình hoặc liên hệ thực tế rồi mới đi đến phát hiện kiến thức mới của bài qua việc quan sát các hình ảnh trong SGK hay các mẫu vật. Cũng có thể bắt đầu bằng lệnh yêu cầu học sinh quan sát tranh ảnh trong SGK hay quan sát thiên nhiên, học ngoài hiện trường để tìm ra kiến thức mới rồi mới tới những câu hỏi nhằm yêu cầu học sinh vận dụng những điều đã học vào thực tiễn cuộc sống. Kết thúc bài học thường là trò chơi hoặc yêu cầu học sinh vẽ, hoặc tiến hành các thí nghiệm, hoặc thực hành những điều mà các em đã học. Với cấu trúc như vậy, mỗi bài học là một chuỗi các trình tự hoạt động học tập của học sinh, đồng thời giúp cho giáo viên lựa chọn các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp. Cuốn sách được coi là người bạn của HS, vì vậy, cách xưng hô với học sinh là "bạn". 2. Sách giáo khoa môn Lịch sử và Địa lý a. Khổ sách: 17 x 24. b. Cách trình bày chung của cuốn sách: - Kênh chữ: Khác với SGK môn TN-XH 1,2,3, trong SGK môn Lịch sử và Địa lý kênh chữ đóng vai trò chủ yếu trong việc cung cấp kiến thức, thể hiện nội dung trọng tâm của bài được đặt trong phần đóng khung và hệ thống câu hỏi cuối bài. Ngoài ra còn có những câu hỏi và lệnh ở giữa bài được in nghiêng để học sinh dễ nhận biết và được dùng để hướng dẫn HS làm việc với kênh hình và liên hệ thực tế để tìm ra kiến thức mới. 5 - Kênh hình: So với SGK phần Lịch sử và Địa lý trước đây, kênh hình được tăng lên không những về số lượng mà còn cả về thể loại. Kênh hình không chỉ minh hoạ cho kênh chữ mà còn là nguồn cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng cho HS. c. Cách trình bày một bài học: Khác với SGK môn TN-XH và môn Khoa học, cấu trúc mỗi bài học trong môn Lịch sử và Địa lý gồm có 3 phần: - Phần cung cấp kiến thức bằng kênh hình, kênh chữ. - Phần câu hỏi hoặc yêu cầu các hoạt động học tập: + Câu hỏi hoặc yêu cầu các hoạt động học tập được in nghiêng ở giữa bài gợi ý giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt động để khai thác thông tin, rèn luyện kỹ năng. + Câu hỏi ở cuối bài nhằm giúp giáo viên kiểm tra việc thực hiện mục tiêu của bài và củng cố kiến thức của học sinh sau mỗi bài học. - Phần tóm tắt trọng tâm của bài được đóng khung màu. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 1: 1. Phân tích mục tiêu của các môn về Tự nhiên và Xã hội 2. Phân tích đặc điểm chương trình các môn về Tự nhiên và Xã hội. Cho ví dụ minh hoạ. 3. Phân tích đặc điểm sách giáo khoa các môn: Tự nhiên và Xã hội, Khoa học, Lịch sử và Địa lý. Chương II PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC MÔN VỀ TN - XH I. ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC MÔN VỀ TN – XH Một trong những vấn đề trọng tâm của việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa ở bậc tiểu học nói chung, trong các môn về TN-XH nói riêng là đổi mới PPDH. Đổi mới PPDH được hiểu là đưa các PPDH mới vào nhà trường trên cơ sở phát huy mặt tích cực của các PPDH truyền thống nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Từ đặc điểm chương trình và SGK các môn về TN-XH, từ quan điểm đổi mới PPDH ở bậc tiểu học, việc sử dụng PPDH các môn về TN-XH cần dựa trên các định hướng cơ bản sau: - Đề cao vai trò chủ thể của người học: Đây chính là cách dạy học hướng tập trung vào học sinh, học sinh thực sự là chủ thể nắm tri thức, rèn luyện kỹ năng. Trong dạy học các môn TN-XH, thay cho việc chủ yếu là giảng giải, thuyết trình, đọc, nói theo tài liệu có sẵn, GV cần huy động tối đa kinh nghiệm và vốn tri thức có sẵn của HS để tổ chức cho các em tự phát hiện tri thức mới của bài học. GV thiết kế, hệ thống câu hỏi, bài tập giao cho HS thực hiện với sự hướng dẫn, giúp đỡ khi cần thiết, tổ chức các hoạt động như quan sát, thảo luận nhóm, trò chơi học tập qua đó giúp HS lĩnh hội kiến thức của bài học một cách tích cực, chủ động. 6 - Đưa các PPDH mới vào quá trình dạy học các môn về TN-XH trên cơ sở phát huy những ưu điểm của các PPDH truyền thống nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Trong dạy học các môn về TN-XH không phủ nhận việc sử dụng các PPDH truyền thống như gỉang giải, hỏi đáp Tuy nhiên, GVcần sử dụng các PPDH này theo quan điểm phát triển, kích thích, phát huy vai trò chủ động, tích cực nhận thức của HS, tạo mọi điều kiện cho HS được tham gia tích cực vào việc xây dựng bài học. Bên cạnh phát huy ưu điểm của các PPDH truyền thống, cần vận dụng một cách linh hoạt các PPDH mới như thảo luận, điều tra, đóng vai, động não Đây là các PPDH yêu cầu HS phải hoạt động tích cực với các nguồn tri thức như vật thật, tranh ảnh, sơ đồ ,đồng thời vận dụng vốn tri thức, vốn hiểu biết của mình để tự phát hiện kiến thức của bài học. - Liên quan đến việc đổi mới PPDH, đòi hỏi phải đổi mới các hình thức tổ chức dạy học, đổi mới cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, đổi mới cách đánh giá trong dạy học các môn về TN-XH. II. HỆ THỐNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC MÔN VỀ TN-XH Các môn về TN-XH tích hợp kiến thức của các ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Vì vậy phương pháp dạy học các môn này cũng rất phong phú và đa dạng. Trong các giáo trình giáo dục học dành cho các hệ đào tạo giáo viên tiểu học ở các trường sư phạm hiện nay, các nhà giáo dục học vẫn sử dụng cách phân loại các PPDH theo nguồn tri thức và đặc điểm tri giác thông tin theo các nhóm sau: -Nhóm các phương pháp dạy học dùng lời. -Nhóm các phương pháp dạy học trực quan. -Nhóm các phương pháp dạy học thực hành. Tuy nhiên, căn cứ vào đặc điểm các môn về TN-XH, vào đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học, theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học tiểu học, các phương pháp dạy học được dùng phổ biến trong dạy học các môn về TN-XH là: các phương pháp thuyết trình, hỏi đáp, quan sát, thí nghiệm, kể chuyện, điều tra, thảo luận 1. Các phương pháp thuyết trình: 1.1.Khái niệm: Thuyết trình là phương pháp dạy học thông dụng, trong đó giáo viên dùng lời nói để trình bày, giải thích nội dung bài học một cách chi tiết, dễ hiểu cho học sinh tiếp thu. 1.2. Các dạng thuyết trình được sử dụng trong dạy học các môn TN-XH: a. Giảng giải: Là dạng thuyết trình, trong đó giáo viên dùng lời nói của mình để làm sáng rõ những khái niệm, thuật ngữ, bản chất lô gic của một hiện tượng nào đó, những mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. 7 Phương pháp này thường được sử dụng trong các bài học lĩnh hội tri thức mới về những vấn đề khó, phức tạp mà học sinh không đủ khả năng tự tìm hiểu qua các hoạt động độc lập. Giảng giải còn được dùng để hướng dẫn cách thức tiến hành các hoạt động của học sinh. Để sử dụng phương pháp này có hiệu quả, cần lưu ý một số vấn đề sau: - Lời nói của giáo viên phải rõ ràng, chính xác, sinh động, giàu hình ảnh, tốc độ vừa phải. - Ngắn gọn dễ hiểu đối với học sinh: sử dụng những từ ngữ đơn giản, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh nhưng không làm cho học sinh hiểu sai khái niệm khoa học được đề cập đến. - Cần sử dụng giảng giải theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, tránh lạm dụng nó. b. Kể chuyện: Là dạng thuyết trình đặc biệt, được sử dụng trong dạy học môn TN-XH, nhất là với nhóm kiến thức lịch sử. Kể chuyện là cách dùng lời nói trình bày một cách sinh động, có hình ảnh và truyền cảm đến học sinh về một nhân vật, một sự kiện lịch sử, hoặc một hiện tượng tự nhiên, một phát minh khoa học, một vùng đất xa lạ. * Ưu điểm của phương pháp kể chuyện. - Kể chuyện tạo nên một bức tranh sinh động về những sự kiện, hiện tượng, về những nhân vật dễ gây hứng thú cho học tập cho học sinh. - Việc kể chuyện góp phần phát triển trí tưởng tượng cho học sinh. - Sức mạnh của chuyện kể của giáo viên còn ở sự tạo ra cho học sinh niềm tin vào cái Chân - Thiện - Mỹ, vào sức sáng tạo vô hạn của con người trong việc cải tạo thế giới tự nhiên và xã hội. Ngoài ra khi kể lại những câu chuyện, học sinh được tập diễn đạt câu chuyện theo ý tưởng và ngôn ngữ của mình từ đó phát triển ngôn ngữ, tư duy, khả năng diễn đạt của các em. *Tình huống sử dụng : Giáo viên có thể sử dụng phương pháp kể chuyện khi giới thiệu bài mới để gây hứng thú học tập cho học sinh, hoặc có thể sử dụng xen kẽ trong tiết học, vào cuối tiết học, cũng có thể giáo viên sử dụng phương pháp kể chuyện trong phần lớn thời gian của tiết học nhất là khi dạy các bài học trình bày các sự kiện lịch sử như diễn biến của cuộc khởi nghĩa, trận đánh trong phân môn Lịch sử. * Ví dụ về sử dụng phương pháp kể chuyện. - Ví dụ sử dụng phương pháp kể chuyện khi bắt đầu bài học. Không khí gồm những thành phần nào? (Khoa học 4) 8 Để gây hứng thú học tập, kích thích trí tò mò cho học sinh, GV có thể bắt đầu bài học bằng chuyện kể sau : Người đầu tiên trên thế giới phát hiện tra các thành phần của không khí là nhà bác học người Pháp tên là Lavôdiê. Ông đã khám phá ra các thành phần của không khí bằng cách nào? Không khí gồm những thành phần nào? Bài học hôm nay bằng các thí nghiệm chúng ta sẽ trả lời cho các câu hỏi này. * Một số yêu cầu khi sử dụng phương pháp kể chuyện Khi sử dụng phương pháp kể chuyện cần lưu ý một số vấn đề sau : - Lựa chọn các câu chuyện sao cho phù hợp với mục tiêu, nội dung bài học. - Xác định thời điểm sử dụng kể chuyện (vào giai đoạn nào của tiết học). - Dự kiến được các PP, phương tiện có thể sử dụng kết hợp với kể chuyện - Lời kể của giáo viên phải sinh động, hấp dẫn, giàu hình ảnh, uyển chuyển, kết hợp lời kể với cử chỉ, nét mặt, với việc sử dụng các phương tiện trực quan cần thiết. Có như vậy mới lôi cuốn, gây hứng thú cho học sinh. - Dành thời gian cho học sinh thảo luận hoặc cho học sinh kể lại câu chuyện bằng ngôn ngữ của mình. 2. Phương pháp quan sát. Quan sát là phương pháp dạy học đặc trưng của các môn về TN-XH, nhất là môn TN-XH lớp 1,2,3 và môn Khoa học. 2.1 Khái niệm: Phương pháp quan sát là cách thức tổ chức cho học sinh sử dụng các giác quan khác nhau để tri giác các sự vật, hiện tượng một cách có mục đích, có kế hoạch, có trọng tâm, qua đó rút ra được những kết luận khoa học. 2.2. Tác dụng của phương pháp quan sát: Đối với học sinh tiểu học, tư duy trực quan cụ thể còn chiếm ưu thế, thông qua việc tổ chức cho học sinh quan sát mới hình thành cho các em những biểu tượng và những khái niệm đầy đủ, chính xác, sinh động về thế giới tự nhiên và xã hội xung quanh. Qua đó, phát triển năng lực quan sát, năng lực tư duy và ngôn ngữ cho các em. 2.3 Cách thức sử dụng: Giáo viên sử dụng phương pháp quan sát để dạy các bài học mà học sinh có thể chiếm lĩnh kiến thức từ các sự vật, hiện tượng diễn ra trong tự nhiên và xã hội xung quanh hoặc từ tranh ảnh, mô hình, sơ đồ, biểu đồ, mẫu vật. Có thể tổ chức cho học sinh tiến hành quan sát theo trình tự sau: * Lựa chọn đối tượng quan sát: Đối tượng quan sát có thể là các hiện tượng đang xảy ra trong môi trường tự nhiên, trong cuộc sống hàng ngày, vật thật hay tranh ảnh, sơ đồ, bản đồ, mô hình Căn cứ vào mục tiêu, nội dung của từng bài học mà giáo viên lựa chọn đối tượng quan sát cho phù hợp. 9 * Xác định mục đích quan sát: Trong một bài học không phải mọi kiến thức cần cung cấp cho học sinh đều được rút ra từ quan sát, vì vậy khi đã chuẩn bị được đối tượng quan sát cần xác định việc quan sát phải đạt những mục đích nào ? Ví dụ: Quan sát các loại quả (TN-XH 3) Nếu như đối tượng quan sát là các loại quả thật thì giáo viên yêu cầu học sinh sử dụng các giác quan khác nhau để quan sát màu sắc, hình dạng, kích thước, mùi vị, dùng tay (hoặc dao) bổ đôi quả để quan sát thịt và hạt của các loại quả, so sánh chúng với nhau. Trong trường hợp chỉ có tranh vẽ các loại quả thì giáo viên có thể yêu cầu học sinh nhận xét về màu sắc, hình dạng, kích thước, dựa vào kinh nghiệm của mình để nhận xét mùi vị của quả. *Tổ chức và hướng dẫn quan sát: - Có thể tổ chức cho học sinh quan sát cá nhân, theo nhóm hoặc toàn lớp là tuỳ thuộc vào số đồ dùng dạy học có được. Các nhóm có thể cùng quan sát một đối tượng để giải quyết chung một nhiệm vụ học tập hoặc mỗi nhóm có thể có một đối tượng quan sát riêng, giải quyết nhiệm vụ riêng. Nếu đối tượng quan sát là vật thật (động, thực vật tươi sống, các dạng vật liệu thường dùng ), GV cần khuyến khích học sinh sử dụng các giác quan khác nhau vào quá trình quan sát nhằm thu được biểu tượng đầy đủ, chính xác, sinh động về đối tượng. Trong trường hợp đối tượng quan sát là tranh ảnh, sơ đồ, bản đồ, mô hình, các diễn biến thí nghiệm GV hướng dẫn HS sử dụng thị giác để quan sát các đối tượng một cách có mục đích, có kế hoạch. - Cần hướng dẫn HS quan sát đối tượng theo một trình tự nhất định: từ tổng thể đến các chi tiết, bộ phận, từ bên ngoài vào bên trong. - Cần hướng dẫn HS so sánh, liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác đã biết để tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa chúng. *Tổ chức cho HS báo cáo kết quả quan sát: Kết thúc quan sát từng cá nhân hoặc đại diện các nhóm báo cáo kết quả quan sát, cả lớp lắng nghe, bổ sung ý kiến. * Hoàn thiện kết quả quan sát, rút ra kết luận chung. 2.4. Một số điểm lưu ý khi sử dụng PP quan sát Để sử dụng phương pháp quan sát có hiệu quả, cần lưu ý một số điểm sau: - GV cần chuẩn bị chu đáo kế hoạch dạy học, xác định rõ thời điểm tổ chức cho HS quan sát. - Cần chuẩn bị đầy đủ các đối tượng quan sát phù hợp với mục tiêu, nội dung bài học: tranh ảnh, mẫu vật, sơ đồ, bản đồ - GV cần chuẩn bị được hệ thống câu hỏi, bài tập chính để hướng dẫn học sinh quan sát các sự vật, hiện tượng có mục đích, có trọng tâm. Những câu hỏi đó cần bắt đầu bằng những từ chỉ hành động mà muốn trả lời được học sinh phải sử dụng các giác 10 quan của mình để phán đoán, cảm nhận sự vật và hiện tượng (hãy nhìn, hãy nghe, hãy sờ, hãy ngửi, nếm). Hệ thống câu hỏi này cũng cần được sắp xếp từ những câu hỏi khái quát (nhằm hướng dẫn các em quan sát tổng thể trước) đến những câu hỏi chi tiết, cụ thể (nhằm hướng dẫn các em quan sát các bộ phận); những câu hỏi hướng dẫn học sinh quan sát từ bên ngoài rồi mới đi vào bên trong. Tiếp theo là những câu hỏi yêu cầu học sinh phải so sánh liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác đã biết để tìm ra những đặc điểm giống nhau hoặc khác nhau. Cuối cùng là những câu hỏi yêu cầu học sinh dẫn đến nhận xét hay kết luận chung về sự vật, hiện tượng được quan sát. - Việc tổ chức, hướng dẫn quan sát cần phải phức tạp dần phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh ở các lứa tuổi khác nhau. Ví dụ, ở các lớp 1,2,3 chủ yếu cho HS quan sát các sự vật hiện tượng dưới sự hướng dẫn trực tiếp của GV, chỉ yêu cầu các em phát biểu kết quả quan sát bằng lời, chưa yêu cầu ghi chép. ở các lớp 4,5 nhiệm vụ quan sát cần được nâng cao hơn. Có thể hướng dẫn HS độc lập quan sát có hệ thống không chỉ trên lớp, mà còn quan sát các sự vật, hiện tượng diễn ra trong một thời gian dài nhất định, có yêu cầu ghi chép kết qủa, rút ra nhận xét, viết tường trình. 2.5 Ví dụ về sử dụng PP quan sát Theo tinh thần đổi mới PPDH ở tiểu học, có thể tổ chức cho học sinh quan sát kết hợp thảo luận nhóm để các em có thể rút ra kiến thức của bài học. Lá cây (TN-XH 3). + Lựa chọn đối tượng quan sát: Mục tiêu chủ yếu của bài này là giúp học sinh nhận biết được các loại lá cây có hình dạng, kích thước khác nhau, đa số lá cây có màu xanh, một số lá có màu đỏ hoặc màu vàng. Lá cây có các phần: Cuống lá, phiến lá, trên phiến lá có gân lá. Ở bài này đối tượng quan sát tốt nhất là các loại lá cây thật. Giáo viên và học sinh chuẩn bị một số lá cây có hình dạng, kích thước khác nhau như: Lá trầu không, lá tía tô, lá lúa, lá phượng, lá rau ngót. +Tổ chức cho học sinh quan sát kết hợp thảo luận nhóm: Giáo viên chia học sinh thành từng nhóm, phát phiếu giao việc và các loại lá cây cho các nhóm. Trong phiếu giao việc giáo viên xác định rõ mục đích quan sát , hướng dẫn học sinh quan sát một cách tổng thể về lá cây, thảo luận về đặc điểm của các loại lá cây, điền kết quả vào phiếu giao việc. Phiếu giao việc : Câu1. Em hãy quan sát các loại lá cây và điền vào bảng sau: TT Tên lá Màu sắc Hình dạng Kích thước 11 Câu 2. Hãy chỉ trên từng lá đâu là cuống lá, phiến lá, gân lá. Câu3. Các loại lá cây có những đặc điểm gì giống và khác nhau? Các nhóm trên cơ sở phiếu giao việc và hướng dẫn của giáo viên tiến hành quan sát, thảo luận về màu sắc, hình dạng, kích thước của các loại lá, chỉ ra được lá cây thường có màu xanh lục , cũng có lá có màu đỏ hoặc màu vàng, các lá khác nhau có hình dạng, kích thước khác nhau. Kết thúc thảo luận nhóm, đại diện các nhóm lên trình bày kết quả quan sát của mình, cả lớp lắng nghe, bổ sung ý kiến, giáo viên nhận xét, ghi những kết luận lên bảng. Để giúp học sinh nắm được cấu tạo của lá, các nhóm tiếp tục quan sát, thảo luận và ghi kết quả quan sát vào câu 2 của phiếu. Các nhóm quan sát thảo luận và đưa ra được kết luận : lá có các phần: Cuống lá, phiến lá, trên phiến lá có gân lá. *Phần tổng kết : Giáo viên gọi học sinh nêu đặc điểm các loại lá cây và các phần của chúng. Giáo viên cũng dành ít phút để biểu dương các nhóm đã tích cực quan sát, có kết quả quan sát tốt. 3. Phương pháp hỏi đáp. 3.1. Khái niệm: Phương pháp hỏi đáp là cách thức đối thoại giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau dựa trên hệ thống câu hỏi nhằm dẫn dắt học sinh đi đến những kết luận khoa học, hoặc vận dụng vốn hiểu biết của mình để tìm hiểu những vấn đề học tập, vấn đề của cuộc sống, trong tự nhiên và xã hội. 3.2. Tác dụng của phương pháp hỏi đáp - Thông qua việc hỏi đáp giáo viên tạo ra trong học sinh nhu cầu nhận thức và các em được tham gia giải quyết những vấn đề do bài học đặt ra. - Thông qua việc hỏi đáp giáo viên có thể dễ dàng nắm được năng lực học tập, trình độ nhận thức của học sinh, từ đó điều chỉnh hoạt động dạy của mình để nâng cao hiệu quả dạy học. - Khi sử dụng phương pháp hỏi đáp, không khí lớp học sôi động hơn, học sinh tích cực, hứng thú học tập hơn, do đó phát triển được tư duy độc lập, tính tích cực nhận thức và năng lực diễn đạt bằng lời của học sinh. 3.3. Cách thức sử dụng: Tuỳ theo yêu cầu sư phạm, giáo viên có thể sử dụng 3 dạng hỏi đáp : + Hỏi đáp tái hiện: Loại hỏi đáp thường được sử dụng để kiểm tra bài cũ, ôn tập, hoặc để khai thác vốn sống, vốn hiểu biết của học sinh làm điểm tựa cho việc lĩnh hội tri thức mới của bài học. Ví dụ: Kể tên một vài bệnh về tim mạch mà bạn biết. (bài 9: Phòng bệnh tim mạch, TN-XH 3) 12 -Kể tên một số thức ăn chứa nhiều chất đạm mà bạn biết.(bài 5. Vai trò của chất đạm và chất béo. Khoa học 4) + Hỏi đáp thông báo: Trên cơ sở những kiến thức tối thiểu làm điểm tựa, giáo viên đặt câu hỏi cho HS nhằm dẫn dắt các em lĩnh hội tri thức mới. Ví dụ: Thú con mới sinh ra đã có hình dạng giống thú mẹ chưa? Thú con mới ra đời được thú mẹ nuôi bằng gì? (Bài 59. Sự sinh sản của thú. Khoa học 5) + Hỏi đáp có tính chất tìm tòi khám phá: Dạng hỏi đáp này có tác dụng kích thích sự suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo của học sinh. Đó là những câu hỏi yêu cầu học sinh dựa vào kiến thức đã học để suy luận, giải thích được nguyên nhân, bản chất, mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Ví dụ: -Hãy giải thích tại sao ban ngày gió từ biển thổi vào đất liền và ban đêm gió từ đát liền thổi ra biển? (Bài 37: Tại sao có gió? Khoa học 4) - Tại sao châu Phi có khí hậu khô nóng bậc nhất thế giới? (Bài 23. Châu Phi, Lịch sử và Địa lý 5). Trong quá trình dạy học giáo viên cần sử dụng linh hoạt các dạng hỏi đáp trên, cần chú trọng tới dạng hỏi đáp tìm tòi khám phá vì nó phát huy được tính tích cực, độc lập, tư duy sáng tạo của học sinh. 3.4. Một số điểm lưu ý khi sử dụng phương pháp hỏi đáp. Nghệ thuật đặt câu hỏi là yếu tố quyết định thành công của phương pháp hỏi đáp. Vì vậy, khi đặt câu hỏi giáo viên cần lưu ý một số điểm sau: - Phải rõ ràng, chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu - Phải lôgic, phù hợp với nội dung bài dạy - Phải phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh - Phải kích thích được sự suy nghĩ, tìm tòi của học sinh. - Tránh đặt những câu hỏi chung chung, quá dễ hoặc quá khó, tránh đặt những câu hỏi trong đó đã có sẵn câu trả lời, học sinh có thể đoán ra mà không cần động não gì cả. Tránh đặt những câu hỏi yêu cầu học sinh đoán mò hoặc chỉ trả lời có hoặc không. -Cần lưu ý rèn luyện cho học sinh biết cách trả lời thành câu tương đối hoàn chỉnh với vốn từ ngữ của các em. Mặt khác phải dạy cho các em biết cách tự đặt ra những câu hỏi trong quá trình học tập. 3.5. Ví dụ minh hoạ Bài 60. Nhu cầu không khí của thực vật (Khoa học 5) Để giúp học sinh tìm hiểu về sự trao đổi khí của thực vật trong quá trình quang hợp và hô hấp, trước hết GV có thể đặt câu hỏi yêu cầu HS ôn lại các kiến thức cũ: - Không khí gồm những thành phần nào? 13 - Không khí có vai trò như thế nào đối với con người, động, thực vật? Tiếp đến, GV yêu cầu HS quan sát hình vẽ trang 120, 121 SGK, và dựa vào kiến thức lớp dưới để trả lời các câu hỏi (có thể cho HS làm việc theo cặp, tự đặt câu hỏi cho nhau và trả lời): - Trong quá trình quang hợp thực vật hấp thụ khí gì và thải ra khí gì? - Trong quá trình hô hấp thực vật hấp thụ khí gì và thải ra khí gì? - Quá trình quang hợp xảy ra khi nào? - Quá trình hô hấp xảy ra khi nào? - Điều gì xảy ra với thực vật nếu một trong hai quá trình trên bị ngừng? Trên cơ sở câu trả lời của HS, GV kết luận: Thực vật cần không khí để quang hợp và hô hấp. Nếu thiếu không khí thì cây sẽ bị chết, dù được cung cấp đầy đủ nước, chất khoáng và ánh sáng. 4. Phương pháp thí nghiệm. Thí nghiệm là phương pháp được sử dụng phổ biến trong dạy học môn Khoa học vì đây là môn học tích hợp kiến thức của nhiều ngành khoa học thực nghiệm (Vật lý, Hoá học, Sinh học). 4.1. Tác dụng của phương pháp thí nghiệm Đối với học sinh tiểu học, tư duy trực quan cụ thể còn chiếm ưu thế, thí nghiệm tuy không nhiều trong chương trình nhưng lại có ý nghĩa lớn lao trong việc tạo ra niềm tin có cơ sở khoa học vào kiến thức mới. Học sinh dễ hiểu các hiện tượng phức tạp, do đó kích thích được sự say mê khoa học và hứng thú học tập. - Trong quá trình tiến hành thí nghiệm, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh quan sát, phán đoán, phân tích, so sánh, tổng hợp để rút ra những kết luận khoa học, các thao tác tư duy được phát triển: - Việc làm thí nghiệm góp phần hình thành cho học sinh kỹ năng kỹ xảo thực hành và vận dụng tri thức vào thực tiễn. 4.2. Đặc điểm thí nghiệm ở tiểu học: - Khác với các lớp trên, ở tiểu học thí nghiệm chỉ tìm hiểu những hiện tượng về định tính mà chưa đi sâu vào định lượng. - Các thí nghiệm trong chương trình Khoa học lớp 4,5 có thể phân thành các loại sau: + Loại nghiên cứu mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết qủa. + Loại nghiên cứu điều kiện (cái này là điều kiện của cái kia). + Loại nghiên cứu tính chất của vật. 4.3. Cách thức sử dụng: Thí nghiệm có thể tiến hành theo trình tự sau: Bước 1: Xác định mục đích thí nghiệm 14 Việc xác định đúng mục đích thí nghiệm là rất quan trọng, giúp cho việc biểu diễn thí nghiệm đúng mục tiêu đề ra, thí nghiệm đạt được hiệu quả cao. Bước 2: Vạch kế hoạch thí nghiệm: Giáo viên cần liệt kê những dụng cụ thí nghiệm cần có và những điều kiện để tiến hành thí nghiệm. Đồng thời phải vạch được kế hoạch cụ thể: làm gì trước? làm gì sau? thực hiện thao tác gì trên vật nào? quan sát dấu hiệu gì? ở đâu? bằng giác quan nào hoặc bằng phương tiện gì? Mặt khác, việc vạch kế hoạch thí nghiệm một cách đúng đắn có thể khắc phục được một số khó khăn khi gặp những bài học có nhiều thí nghiệm chứng minh mà thời gian ở lớp có hạn. Bước 3: Tiến hành thí nghiệm: - Giáo viên giới thiệu dụng cụ thí nghiệm, cách bố trí, lắp rắp thí nghiệm, đề ra những mâu thuận nhận thức để gây hứng thú, trí tò mò của học sinh đối với thí nghiệm. Có thể tổ chức cho HS tiến hành thí nghiệm theo từng cá nhân, theo nhóm hoặc cả lớp tùy theo mục tiêu, đặc điểm của từng thí nghiệm . - Giáo viên cần sử dụng hệ thống câu hỏi dẫn dắt phù hợp với tiến trình thí nghiệm (câu hỏi trước khi, trong khi và sau khi làm thí nghiệm). Bước 4: Tổng kết thí nghiệm và liên hệ thực tế: ở bước này giáo viên hoặc hoc sinh nêu lại diễn biến thí nghiệm, rút ra những kết luận khoa học. Giáo viên nêu một số ứng dụng trong cuộc sống có liên quan đến thí nghiệm hoặc giải thích một số hiện tượng xẩy ra trong tự nhiên. 4.3. Một số yêu cầu khi sử dụng phương pháp thí nghiệm *Đối với thí nghiệm: -Thí nghiệm phải bảo đảm tính vừa sức, rõ ràng, hiệu quả và an toàn. -Các thiết bị cần đảm bảo tính khoa học và tính trực quan. *Đối với giáo viên: + Khi biểu diễn thí nghiệm phải làm sao cho tất cả học sinh đều nhìn rõ các bộ phận và các chi tiết chính của dụng cụ thí nghiệm, nếu cần đưa đến từng bàn cho học sinh quan sát. + Thí nghiệm phải đảm bảo thành công: Muốn vậy giáo viên phải chuẩn bị chu đáo và thử đi thử lại nhiều lần. +Phải chuẩn bị chu đáo hệ thống câu hỏi dẫn dắt theo tiến trình của thí nghiệm. +Trong tiến trình thí nghiệm cần phối hợp một cách hợp lý các PPDH khác. 4.4. Ví dụ minh họa Bài 30 " Làm thế nào để biết có không khí?" (Khoa học 4) I. Mục tiêu: Sau bài học HS biết: - Không khí tồn tại khắp nơi trên trái đất 15 - Làm thí nghiệm để chứng minh không khí có ở quanh mọi vật và các chỗ rỗng trong các vật. - Hiểu khái niệm khí quyển II. Đồ dùng dạy học: - Chuẩn bị các đồ dùng DH theo nhóm: các túi ni lông, dây chun, đinh (hoặc tăm nhọn), chậu, chai không, miếng bọt biển hoặc một mẩu đất khô. III. Hoạt động dạy học Hoạt động 1: TN chứng minh không khí có ở quanh mọi vật Mục tiêu: Phát hiện sự tồn tại của không khí và không khí có ở quanh mọi vật. Cách thức tiến hành: -GV chia HS thành các nhóm, yêu cầu các nhóm chuẩn bị các dụng cụ TN: túi ni lông nhỏ, dây chun. GV hướng dẫn các nhóm làm cho không khí vào đầy túi ni lông rồi lấy dây chun buộc lại. - Các nhóm trả lời câu hỏi: -Cái gì đã làm cho túi ni lông căng phồng? -Điều đó chứng tỏ xung quanh ta có gì? GV hướng dẫn HS lấy đinh (hoặc tăm nhọn) đâm thủng túi ni lông đang căng phồng Hiện tượng gì đã xảy ra? để tay lên chỗ thủng ta có cảm giác gì? Qua TN trên chúng ta có thể rút ra kết luận gì? Hoạt động 2: Thí nghiệm chứng minh không khí có trong những chỗ rỗng của mọi vật. Mục tiêu: HS biết được không khí có ở khắp nơi, kể cả trong những chỗ rỗng của vật. Cách tiến hành: GV yêu cầu các nhóm chuẩn bị các dụng cụ TN lên bàn: chậu thuỷ tinh, chai rỗng, miếng bọt biển (hoặc mẩu đất khô) Câu hỏi trước khi làm TN: Điều gì sẽ xảy ra khi ta nhúng chìm chai rỗng và miếng bọt biển vào chậu nước? -Các nhóm tiến hành TN, quan sát và mô tả hiện tượng khi nhúng chìm chai và miếng bọt biển vào chậu nước. -Các nhóm báo cáo kết quả và giải thích tại sao có nhiều bong bóng khí thoát ra từ miệng chai và tại sao có nhiều bọt nước nhỏ li ti thoát ra từ miếng bọt biển qua 2 thí nghiệm. Qua các thí nghiệm trên chúng ta có thể rút ra kết luận gì về sự tồn tại của không khí? 16 Kết luận: Không khí có ở khắp nơi: ở xung quanh mọi vật và mọi chỗ rỗng bên trong của vật. Hoạt động 3: Tìm hiểu khái niệm khí quyển - GV cho HS tìm hiểu khái niệm khí quyển và tìm một số ví dụ chứng tỏ không khí có ở khắp nơi. 5. Phương pháp thực hành Phương pháp thực hành được sử dụng phổ biến trong dạy học các môn về TN-XH, nhất là các bài có nội dung về giáo dục sức khoẻ. * Tác dụng của phương pháp thực hành -Củng cố những kiến thức mà học sinh đã lĩnh hội -Hình thành, củng cố kỹ năng cho học sinh -Hình thành một số thói quen tốt cho học sinh -Làm cho giờ học sinh động, học sinh học tập hứng thú, tích cực * Cách thức sử dụng -Thực hành có thể thực hiện trong tiết học: thực hành rửa mặt, thực hành đánh răng, thực hành quét dọn lớp học. -Thực hành có thể tiến hành ngoài lớp học như: thực hành vệ sinh trường học, vệ sinh nhà ở, vệ sinh môi trường ở địa phương. -Có thể tổ chức cho học sinh thực hành theo cá nhân, theo nhóm, cả lớp - Thực hành có thể tổ chức dưới dạng trò chơi học tập. Ví dụ trò chơi "Dự báo thời tiết" *Ví dụ về sử dụng phương pháp thực hành Bài 7. Thực hành: Đánh răng và rửa mặt (TN-XH 1) I. Mục tiêu - Giúp học sinh biết đánh răng và rửa mặt đúng cách - Biết áp dụng chúng vào việc làm vệ sinh cá nhân hàng ngày. II. Đồ dùng dạy học -GV: chuẩn bị mô hình hàm răng, bàn chải, kem đánh răng, chậu rửa mặt, xà phòng thơm, các xô chậu đựng nước sạch. HS: Mỗi học sinh chuẩn bị 1 bàn chải, cốc, khăn mặt III. Hoạt động dạy học Hoạt động 1: Thực hành đánh răng Mục tiêu: giúp học sinh biết đánh răng đúng cách Cách tiến hành: Bước 1: Làm việc cả lớp GV cho học sinh quan sát mô hình hàm răng và đặt câu hỏi: 17 - Đâu là mặt trong của răng? - Đâu là mặt ngoài của răng? -Đâu là mặt nhai của răng? Một số học sinh chỉ vào mô hình hàm răng và trả lời Hàng ngày các em chải răng như thế nào? (gọi một số HS trả lời và lên làm thử các động tác chải răng bằng bàn chải GV mang đến lớp, trên mô hình hàm răng. Một số học sinh nhận xét bạn nào làm đúng, bạn nào làm sai. GV hỏi cả lớp : Cách chải răng như thế nào là đúng? GV làm mẫu lại động tác đánh răng với mô hình hàm răng, đồng thời giải thích cách làm: + Chuẩn bị cốc và nước sạch + Lấy kem đánh răng vào bàn chải + Chải răng theo hướngđưa bàn chải từ trên xuống, từ dưới lên + Lần lượt chải mặt ngoài, mặt trong và mặt nhai của răng. + Súc miệng kỹ + Rửa sạch và cất bàn chải vào đúng nơi qui định sau khi đánh răng. Bước 2: Làm việc cá nhân Lần lượt từng cá nhân thực hành đánh răng theo chỉ dẫn trên của GV. GV theo dõi, hướng dẫn, giúp học sinh đánh răng đúng cách. Hoạt động 2: Thực hành rửa mặt Mục tiêu: giúp HS biết rửa mặt đúng cách Cách tiến hành: Bước 1: Giáo viên hướng dẫn chung cho cả lớp GV nêu câu hỏi: Ai có thể cho cả lớp biết: rửa mặt như thế nào là đúng cách và hợp vệ sinh nhất? Vì sao? Một số học sinh trả lời câu hỏi và thực hiện động tác rửa mặt, cả lớp nhận xét đúng, sai. GV giải thích và hướng dẫn cách rửa mặt hợp vệ sinh: + Chuẩn bị khăn sạch, nước sạch. + Rửa tay sạch bằng xà phòng + Dùng hai bàn tay đã sạch hứng nước sạch để rửa mặt, xoa kỹ xung quanh mắt, trán, hai má, miệng và cằm + Dùng khăn sạch lau khô vùng mắt trước rồi mới lau các nơi khác. + Vò sạch khăn và vắt khô, dùng khăn lau vành tai và cổ. + Cuối cùng giặt khăn mặt bằng xã phòng và phơi ra nắng hoặc chỗ khô ráo, thoáng. 18 Bước 2: Từng học sinh thực hành rửa mặt theo hướng dẫn của GV (nếu đủ điều kiện về vệ sinh) Dặn dò: GV nhắc nhở học sinh đánh răng vào buổi sáng sau khi thức dậy và buổi tối sau khi ăn, thường xuyên rửa mặt sạch sẽ bằng nước sạch, khăn sạch. 6. Phương pháp thảo luận. Thảo luận là sự bàn bạc, trao đổi ý kiến giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau về một vấn đề học tập hoặc một vấn đề về cuộc sống. Trong dạy học các môn về TN-XH, thảo luận được sử dụng rộng rãi: Thảo luận có thể là một phần của bài học để tìm tòi, xác định vấn đề hoặc để nhận định, đánh gía một vấn đề. Về hình thức, thảo luận có thể được tiến hành theo nhóm nhỏ hoặc cả lớp. * Thảo luận cả lớp: Khác với phương pháp hỏi đáp, khi tổ chức cho học sinh thảo luận cả lớp học sinh giữ vai trò chính trong việc nêu câu hỏi và trả lời. Nếu một vấn đề đưa ra được phân tích ở nhiều khía cạnh và có những ý kiến trái ngược nhau xuất hiện phải tranh luận sôi nổi mới tìm ra kết luận, đó là những dấu hiệu chứng tỏ giáo viên sử dụng phương pháp thảo luận thành công. Muốn thảo luận thành công giáo viên cần phải đặt kế hoạch một cách cẩn thận, trước hết ở khâu lựa chọn chủ đề thảo luận. Chủ đề thảo luận được lựa chọn có thể là chủ đề mở, có thể xem xét chúng ở nhiều mặt, nhiều khía cạnh theo những quan điểm khác nhau. Ví dụ: Chúng ta nên ăn uống như thế nào để cơ thể khoẻ mạnh?( TN-XH 2) Bạn đã làm gì để môi trường xung quanh nhà bạn sạch sẽ?( TN-XH 2) - Khi ở trường, bạn nên chơi và không nên chơi những trò chơi gì? Tại sao? (TN-XH 3).v.v Sau khi nêu chủ đề cần thảo luận cho cả lớp, giáo viên có thể lấy tinh thần xung phong hoặc cử một học sinh nói đầu tiên. Giáo viên theo dõi tiến triển của cuộc thảo luận, hướng ý kiến của học sinh theo đúng kế hoạch dự kiến. *Thảo luận nhóm: Thảo luận nhóm tạo điều kiện để học sinh trình bày ý kiến, quan điểm của mình về một vấn đề học tập trong một khoảng thời gian nhất định. Từng thành viên trong nhóm có thể bày tỏ ý kiến của mình, cùng lắng nghe ý kiến của các bạn khác để hoàn thành nhiệm vụ chung của cả nhóm. * Cách thức tiến hành: Thảo luận nhóm có thể tiến hành theo các bước sau: - Chia nhóm : tuỳ theo số lượng học sinh trong lớp mà GV có thể chia nhóm cho phù hợp, có thể chia theo vị trí bàn học 2 hoặc 4, hoặc 6 học sinh. 19 - Tổ chức cho HS thảo luận nhóm: Ổn định tổ chức, giao nhiệm vụ thảo luận cho các nhóm thông qua phiếu học tập hoặc lời chỉ dẫn trực tiếp của GV. Các nhóm tiến hành bàn bạc thảo luận để hoàn thành nhiệm vụ được giao, GV theo dõi hoạt động của các nhóm, kịp thời giúp đỡ những nhóm gặp khó khăn. - Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả thảo luận nhóm: Kết thúc thời gian thảo luận nhóm đại diện các nhóm lên trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình. Cả lớp lắng nghe, bổ sung ý kiến. Trên cơ sở ý kiến của học sinh, GV nhận xét, đưa ra kết luận chung. Để thảo luận nhóm có kết quả, giáo viên cần tập cho học sinh cách làm việc trong nhóm, từ việc chia nhóm, cử nhóm trưởng, thay mặt nhóm để trình bày kết quả làm việc trước lớp. Ví dụ: Bài 32 "Làng quê và đô thị" (TN-XH3) Khi dạy bài này giáo viên có thể tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm như sau: + Giáo viên chia học sinh thành từng nhóm (mỗi nhóm từ 4-6 em), phát phiếu giao việc cho từng nhóm( phiếu giao việc của các nhóm như nhau). Nội dung phiếu giao việc như sau: Em hãy quan sát các hình 1,2,3 trang 62 SGK để tìm ra sự khác biệt giữa làng quê và đô thị rồi ghi vào bảng sau: Đặc điểm Làng quê Đô thị - Phong cảnh, nhà cửa, - Hoạt động sống chủ yếu của nhân dân. - Đường sá, hoạt động giao thông. + Các nhóm ổn định tổ chức, tiến hành thảo luận để tìm ra những đặc trưng của làng quê và đô thị về phong cảnh, lao động sống của con ngưòi, hoạt động giao thông . Giáo viên theo dõi hoạt động của các nhóm, giúp đỡ những nhóm gặp khó khăn, hướng việc thảo luận của các em vào những vấn đề trọng tâm, cơ bản. + Đại diện các nhóm báo cáo kết quả làm việc của nhóm mình, các nhóm khác bổ sung ý kiến. + Giáo viên kết luận về đặc điểm của làng quê và đô thị: ở làng quê, người dân thường sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi, chài lưới và các nghề thủ công, ; xung quanh nhà thường có vườn cây, chuồng trại, ; đường làng nhỏ, ít người và xe cộ qua lại. ở đô thị, người dân thường đi làm trong các công sở, cửa hàng, nhà máy , nhà ở tập trung san sát; đường phố có nhiều người và xe cộ đi lại. Tiếp đó, giáo viên cho học sinh liên hệ mình sống ở làng quê hay đô thị. Để củng cố bài học giáo viên có thể tổ chức trò chơi" Ai nhanh hơn?" GV hoặc HS sưu tầm tranh ảnh về làng quê và đô thị. GV chia lớp thành 2 đội, phát tranh ảnh về làng quê và đô thị cho 2 đội. 20 Cách chơi như sau: Khi GV hô "bắt đầu!" 2 đội phải nhanh chóng chọn và dán ảnh về làng quê hay đô thị vào vị trí thích hợp. Đội nào dán được nhiều tranh về làng quê và đô thị hơn thì đội đó thắng cuộc. 7. Phương pháp điều tra. Điều tra là tìm tòi, khám phá về một vấn đề và để tìm ra câu trả lời cho một vấn đề buộc học sinh phải tiến hành một hoạt động: sưu tầm thông tin, sắp xếp những thông tin đó, rút ra kết luận. Cũng có thể nói điều tra tức là tìm câu trả lời nhờ sưu tầm và phân tích các thông tin, các số liệu. Để hướng dẫn học sinh học tập theo phương pháp điều tra, giáo viên cần lựa chọn các vấn đề phù hợp với trình độ học sinh, cần dự kiến trước và lên kế hoạch hướng dẫn học sinh: + Thu thập thông tin ở đâu ? Như thế nào ? Cách ghi chép ra sao ? Cách phân tích, xử lí thông tin, rút ra kết luận như thế nào ? + Về tổ chức, giáo viên có thể giao nhiệm vụ cụ thể cho từng học sinh hoặc từng nhóm học sinh. Điều tra là một cách học tích cực, trong đó coi trọng việc tổ chức hoạt động độc lập cho học sinh, các em được tích cực tham gia vào toàn bộ quá trình học tập từ việc xác định vấn đề đến việc rút ra kết luận. Trong qúa trình đó các em còn được rèn luyện cách suy nghĩ có phê phán. Một số bài học có thể sử dụng phương pháp điều tra như: -Tỉnh (Thành phố) nơi bạn đang sống (TN-XH 3). -Hoạt động nông nghiệp (TN-XH 3). -Hoạt động công nghiệp, thương mại (TN-XH 3) -Vệ sinh môi trường (TN-XH 3) -Ôn tập: Xã hội (TN-XH 3) -Tìm hiểu lịch sử, địa lý địa phương - Tìm hiểu con người và môi trường III. VẤN ĐỀ LỰACHỌN, VẬN DỤNG PPDH CÁC MÔN VỀ TN-XH. Do nội dung các môn về TN-XH rất phong phú và đa dạng nên các phương pháp dạy học các môn học này cũng rất đa dạng. Bản thân mỗi phương pháp dạy học trên đây dều có những ưu và nhược điểm nhất định, không có phương pháp nào được coi là vạn năng. Do đó, trong quá trình dạy học người giáo viên cần vận dụng chúng hết sức linh hoạt, đảm bảo cho học sinh học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, hứng thú. Khi lựa chọn phương pháp cho một bài dạy cụ thể, cần phải chú ý một số vấn đề sau: + Các phương pháp sẽ dùng có phù hợp với mục tiêu bài dạy không ? 21 + Nội dung bài học này nên sử dụng những phương pháp dạy học nào? Phương pháp nào là chủ đạo, phương pháp nào là hỗ trợ? + Để sử dụng phương pháp này giáo viên và học sinh cần phải chuẩn bị những đồ dùng dạy học gì ? + Trình độ học sinh trong lớp có phù hợp với phương pháp mà giáo viên sẽ sử dụng không ? + Mỗi giáo viên lên lớp có quyền quyết định lựa chọn các phương pháp thích hợp. Vấn đề cơ bản là cần biết lựa chọn những phương pháp dạy học nào tạo điều kiện để học sinh được tham gia vào hoạt động chiếm lĩnh kiến thức một cách tối đa phù hợp với trình độ nhận thức của các em. IV. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC CÁC MÔN VỀ TN-XH 1. Ý nghĩa của phương tiện dạy học các môn về TN-XH. Học sinh tiểu học đang ở lứa tuổi nhận thức cảm tính còn chiếm ưu thế, do đó phương tiện dạy học có vai trò rất lớn. Các môn về TN-XH có nhiều phương tiện dạy học nhất so với các môn học khác ở trường tiểu học cả về số lượng và chủng loại. Có tới 90% số tiết cần sử dụng đồ dùng dạy học ở các mức độ khác nhau. Các phương tiện dạy học có tác dụng: -Giúp cho học sinh thu nhận thông tin về các sự vật, hiện tượng một cách sinh động, đầy đủ, chính xác, qua đó các em đễ hiểu, dễ nhớ kiến thức mới. -Kiểm tra mở rộng, đào sâu những tri thức đã lĩnh hội được. Phát triển hứng thú nhận thức, năng lực quan sát, năng lực phân tích, tổng hợp các hiện tượng. -Giúp cho giáo viên có điều kiện thuận lợi để trình bày bài giảng một cách sinh động, đầy đủ, sâu sắc. Như vậy, các phương tiện dạy học nếu được sử dụng đúng đắn sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu suất lao động của giáo viên và học sinh . 2. Phân loại phương tiện dạy học các môn về TN-XH. Phương tiện dạy học các môn về TN-XH rất phong phú và đa dạng, mỗi loại có những tác dụng, ưu điểm khác nhau. 2.1. Bản đồ, quả địa cầu, sơ đồ, lược đồ: Đây là những phương tiện dạy học không thể thiếu được để giảng dạy các kiến thức về địa lý, lịch sử. Học sinh tiểu học cần phải hiểu được rằng Trái đất được biểu hiện trên bản đồ và quả địa cầu. Một trong những kỹ năng địa lý quan trọng mà giáo viên tiểu học cần hình thành cho học sinh là kỹ năng sử dụng bản đồ , quả địa cầu, sơ đồ, lược đồ , biểu bảng. 2.2. Vật thật: Các vật thật được sử dụng rộng rãi trong các môn TN-XH như các loại động, thực vật tươi sống, các mẫu vật khoáng sản Trong các đồ dùng trực quan thì các vật thật thường có nhều ưu điểm hơn cả vì nó giúp cho việc hình thành biểu tượng sinh động nhất về các sự vật hiện tượng. Đặc biệt với các vật tươi sống còn cho phép hình thành ở học sinh biểu tượng đầy đủ nhất vì 22 với chúng giáo viên có thể lôi cuốn tối đa các giác quan của học sinh vào quá trình quan sát. 2.3. Tranh ảnh: Trong những trường hợp học sinh không thể quan sát trực tiếp các sự vật hiện tượng thì ta thường dùng tranh ảnh để thay thế. Tranh ảnh nhiều khi có tác dung làm đơn giản hoá các sự vật, hiện tượng, làm cho chúng rõ ràng, dễ hiểu, dễ quan sát đối với học sinh. 2.4. Mô hình: Mô hình tạo ra những hình ảnh cụ thể của các sự vật hoặc hiện tượng, thể hiện được vị trí trong không gian của chúng. Mô hình thường được đắp nổi như hình ảnh của các vật thật nhưng có kích thước nhỏ hoặc to hơn. Ngoài các mô hình tĩnh, người ta còn sử dụng các mô hình động để diễn tả một quá trình của một hiện tượng nào đó: Mô hình biểu thị sự tiêu hoá thức ăn, mô hình biểu thị sự vận động của trái đất quanh trục của nó và quanh mặt trời. 2.5. Dụng cụ thí nghiệm: Đây là những phương tiện không thể thiếu được trong dạy học môn Khoa học. Những dụng cụ thí nghiệm thường dùng trong môn Khoa học như: Đèn cồn, các loại cốc, chai, lọ, chậu thuỷ tinh trong suốt, các ống nghiệm có hình dạng, kích thước khác nhau 2.6. Các phương tiện nghe- nhìn: Phim đèn chiếu, phim video, máy tính Các phương tiện nghe nhìn có ưu điểm là trong một khoảng thời gian ngắn có thể cung cấp cho học sinh một lượng thông tin lớn một cách rất sinh động. 3. Tự làm đồ dùng dạy học. Trong bất kỳ điều kiện kinh tế nào thì việc tự làm các đồ dùng dạy học luôn đóng một vai trò quan trọng, ngay cả ở các nước phát triển người ta vẫn khuyến khích giáo viên và học sinh làm đồ dùng học tập. Đồ dùng dạy học tự làm không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn có ý nghĩa về giáo dục. * Các hướng tự làm đồ dùng dạy học: - Tự sưu tầm tranh ảnh, tư liệu phục vụ cho môn học các bức tranh, ảnh màu, bưu thiếp về thiên nhiên, về các danh lam thắng cảnh, các danh nhân, các anh hùng dân tộc. -Chương trình môn TN-XH ở các lớp 1,2,3 bao hàm những nội dung học tập và tìm hiểu về địa phương, ngoài những đồ dùng dạy học do cơ quan chức năng đã sản xuất, ban giám hiệu nhà trường và tập thể giáo viên học sinh cần tích cực tham gia thu thập đóng góp tư liệu phục vụ cho môn học. Ví dụ: Sơ đồ nhà trường, sơ đồ bộ máy tổ chức nhà trường, tư liệu về truyền thống nhà trường. Sơ đồ, lược đồ, làng, xã, quận (huyện), tỉnh( thành phố). Các hình ảnh tư liệu về động thực vật đặc trưng, các danh lam thắng cảnh, các hoạt động kinh tế, phương tiện giao thông, di tích lịch sử văn hoá địa phương. * Tự vẽ tranh. 4. Yêu cầu đối với phương tiện dạy học các môn TN-XH. 23 Dù loại hình nào, nguồn cung cấp nào, các phương tiện dạy học các môn TN-XH cũng phải đảm bảo được tính khoa học và tính sư phạm. Thể hiện: - Phải chứa đựng những thông tin cần học, những thông tin đảm bảo chính xác, phù hợp với trình độ học tập của học sinh. -Phải là công cụ để giáo viên tổ chức, chỉ đạo các hoạt động học tập cho học sinh. - Phải kích thích hứng thú học tập, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. - Đồ dùng dạy học phải sử dụng đúng lúc, đúng chỗ. - Bất kỳ đồ dùng dạy học nào phải khai thác tối đa hiêụ quả sử dụng của nó. -Đảm bảo tính thẩm mỹ, tính trực quan CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG II 1. Phân tích định hướng đổi mới phương pháp dạy học các môn vềTN-XH. 2. Cho ví dụ về tổ chức cho học sinh quan sát trong dạy học các môn vềTN-XH. 3.Cho ví dụ về tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm trong dạy học các môn về TN- XH. 4. Cho ví dụ về phương pháp thí nghiệm trong dạy học các môn về TN-XH. 5. Tại sao trong quá trình dạy học các môn TN-XH, giáo viên cần vận dụng phối hợp các phương pháp dạy học khác nhau. Cho ví dụ minh hoạ. 6. Trình bày ý nghĩa, cách thức sử dụng phương tiện dạy học các môn TN-XH. Chương III HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC CÁC MÔN VỀ TN-XH I. SỬ DỤNG CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC CÁC MÔN VỀ TN-XH Các môn về TN-XH cũng giống như các môn học khác ở trong trường tiểu học nước ta, được tiến hành theo hình thức lớp - bài. Đây là hình thức dạy học cơ bản nhất vì các kiến thức được truyền thụ một cách có hệ thống. Chỉ có thông qua giờ lên lớp các nguyên tắc, phương pháp dạy học và giáo dục mới được thực hiện một cách chặt chẽ, đảm bảo sự phát triển cá nhân thông qua tập thể lớp. Do đó phần lớn thời gian của chương trình các môn về TN-XH dành cho việc lên lớp. Tuy nhiên ngoài hình thức lên lớp còn có các hình thức tổ chức dạy học khác như bài giảng ngoài thiên nhiên, tham quan. Dưới đây là những hình thức tổ chức dạy học cơ bản được sử dụng trong dạy học các môn về TN-XH theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học. 1. Dạy học trên lớp Trong dạy học các môn TN-XH có thể vận dụng ba hình thức tổ chức dạy học trên lớp: dạy học cá nhân, dạy học theo nhóm, dạy học đồng loạt cả lớp. 1.1. Dạy học theo nhóm 24 a. Ưu điểm: - Là hình thức tổ chức dạy học rất sinh động. Cụ thể : + Khi làm việc theo nhóm học sinh có thể học hỏi lẫn nhau. Từng em trong nhóm có thể bộc lộ ý kiến của mình và lắng nghe ý kiến của các bạn để cùng hoàn thành nhiệm vụ chung của cả nhóm. Qua đó, rèn cho HS kỹ năng giao tiếp, sự hợp tác, tương trợ lẫn nhau trong học tập. + Giáo viên và học sinh đều phải thay đổi cách dạy và cách học theo hướng tích cực. + Học sinh học tập tích cực, độc lập, không còn là những người tiếp thu kiến thức một cách thụ động, biết tìm tòi phát hiện tri thức của bài học bằng chính hoạt động của mình. + Giáo viên có điều kiện quan sát theo dõi và giúp đỡ các hoạt động của học sinh, nhất là những học sinh, những nhóm gặp khó khăn trong khi thực hiện công việc được giao. b. Chia nhóm và tổ chức hoạt động nhóm: * Chia nhóm: Có thể tiến hành chia nhóm theo các cách như sau : + Gọi số : + Chia từng cặp một + Dùng biểu tượng hoặc màu sắc * Tổ chức hoạt động nhóm : Trong nhóm thường có các thành phần : - Người điều khiển, người ghi chép, người báo cáo, các thành viên khác. Các học sinh trong nhóm lần lượt thay nhau đóng vai trò các thành viên trên. * Yêu cầu khi hoạt động nhóm: Các thành viên phải tuân thủ sự điều khiển của trưởng nhóm, mọi người ngồi hướng vào nhau, chăm chú lắng nghe ý kiến của người khác. Lần lượt từng thành viên đưa ra ý kiến của mình, cả nhóm trao đổi đưa ra ý kiến thống nhất. * Nhiệm vụ của giáo viên trong quá trình dạy học theo nhóm. - Hướng dẫn, điều khiển các hoạt động học tập của học sinh trong từng nhóm. -Theo dõi diễn biến công việc của các nhóm, kịp thời giúp đỡ những nhóm gặp khó khăn. c. Một số điều kiện để dạy học theo nhóm có hiệu quả. - Về phía giáo viên : + Cần chuẩn bị kỹ kế hoạch dạy học, dự kiến trước các tình huống có thể xảy ra trong khi học sinh học tập theo nhóm. Trước hết giáo viên cần phải đặt kế hoạch để làm việc với từng nhóm, dự kiến làm việc với nhóm nào trước, nhóm nào sau, giải thích rõ ràng công việc của các nhóm. 25 Câu hỏiVậy tại sao khi dạy học các môn về tự nhiên và xã hội, giáo viên thường và cần sử dụng phối hợp nhiều phương pháp dạy học khác nhau? Mục tiêu của việc sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học là gì? Việc sử dụng một phương pháp dạy học đơn điệu dễ gây cho học sinh nhàm chán vì vậy sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học khác nhau sẽ gây hứng thú học tập cho học sinh. Để thực hiện mỗi một nhiệm vụ dạy học thường có những phương pháp dạy học đặc trưng, chẳng hạn khi hình thành kiến thức mới thường phải sử dụng các phương pháp như quan sát, hỏi đáp, truyền đạt... đối với việc củng cố kiến thức thì các phương pháp như thực hành, đóng vai... lại mang lại hiệu quả, khi hình thành kĩ năng cho học sinh thì các phương pháp dạy học hiệu quả hơn cả lại là dạy học giải quyết vấn đề, điều tra, thảo luận ... Vì vậy để thực hiện tốt các nhiệm vụ, mục tiêu dạy học khác nhau ta cần phải sử dụng phối hợp nhiều phương pháp dạy học. Từng nội dung dạy học khác nhau cũng có những phương pháp dạy học đặc trưng, ví dụ khi ta cung cấp cho học sinh các kiến thức của môn khoa học ta thường tiến hành thí nghiệm, khi học những nội dung về địa phương thì phương pháp điều tra lại có hiệu quả hơn cả... Cho nên để dạy tốt một môn học được tích hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực khoa học thì lại càng cần phải sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học. Việc sử dung phối hợp nhiều phương pháp dạy học khác nhau còn dễ đảm bảo thực hiện đúng thời lượng theo chương trình quy định. Nhìn chung dù là phương pháp dạy học truyền thống hay phương pháp dạy học hiện đại dù là phương pháp dạy học thụ động hay các phương pháp dạy học tích cực thì phương pháp dạy học nào cũng có những mặt mạnh và mặt yếu riêng. Việc sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học khác nhau là để phát huy ưu điểm và khắc phục nhược điểm của từng phương pháp dạy học riêng lẻ. PHẦN MỞ ĐẦUI) Lý do chọn đề tài: Nội dung giáo dục ở bậc tiểu học là một nội dung giáo dục toàn diện, ở bậc học này trẻ được học các môn như tiếng Việt, Toán, một số môn học khác và một bộ phận thuộc nội dung giáo dục có tính thời đại. Điều 24, Luật giáo dục ghi rõ : “Giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người…”Chính vì vậy mà tất cả các môn học trong chương trình tiểu học đều mang đến cho học sinh những kiến thức cơ bản trong cuộc sống. Chẳng hạn Tiếng việt mang đến cho các em những kiến thức về ngôn ngữ trong giao tiếp cũng như trong trình bày văn bản. Môn Toán thì giúp cho học sinh có những kiến thức cơ bản ban đầu về số học, các số tự nhiên, phân số, số thập phân, các đại lượng thông dụng một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản. Hình thành các kỹ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán có những ứng dụng thiết thực trong đời sống.v.v… Môn Tự nhiên và Xã hội có một vai trò hết sức quan trọng trong chương trình giáo dục ở tiểu học. Mục tiêu của môn Tự nhiên và Xã hội ở tiểu học nhằm giúp học sinh có một số kiến thức cơ bản, ban đầu về thực tế: Con người và sức khoẻ; Một số sự vật hiện tượng đơn giản trong tự nhiên, xã hội. Bước đầu hình thành và phát triển những kỹ năng: Tự chăm sóc sức khoẻ cho bản thân, ứng xử hợp lý trong đời sống để phòng tránh một số bệnh tật và tai nạn. Quan sát, nhận xét và nêu thắc mắc, đặt câu hỏi, biết cách diễn đạt những hiểu biết của mình về các sự vật hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và xã hội. Hình thành và phát triển những thái độ và hành vi: Có ý thức thực hiện các quy tắc giữ vệ sinh an toàn cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Yêu thiên nhiên, gia đình, trường học, quê hương. Đối với lớp 3 chương trình của môn Tự nhiên và Xã hội cũng có những mục tiêu như trên và được phân bổ với 3 chủ đề chính :Con người và sức khoẻ; Xã hội; Tự nhiên. Mỗi chủ đề là một lĩnh vực riêng biệt cung cấp những kiến thức cơ bản cho học sinh. Về con người và sức khoẻ thì cung cấp cho học sinh những kiến thức về con người, các cơ quan trong cơ thể con người và một số bệnh cần đề phòng, chữa trị. Về xã hội thì cung cấp cho học sinh những kiến thức về xã hội, một số nét cơ bản trong xã hội như hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, v.v…Về tự nhiên thì cung cấp cho học sinh những kiến thức về thực vật, động vật và sự vật, hiện tượng từ thiên nhiên có ảnh hưởng đến đời sống con người. Ở chủ đề tự nhiên, ngoài việc cung cấp những kiến thức về thực vật hay các hiện tượng tự nhiên về mặt trời, trái đất,… thì nội dung về động vật cũng là một nội dung hết sức quan trọng trong việc giúp học sinh tìm hiểu sâu hơn về các lớp động vật trong giới tự nhiên. Vậy những động vật đó được đưa vào chương trình dạy học như thế nào? Có mấy lớp động vật được giảng dạy trong chương trình của môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3? Đó chính là lý do chính đã khiến tôi chọn nội dung “Các phương pháp giảng dạy trong môn Tự nhiên và Xã hội ở lớp 3”. Để làm sáng kiến kinh nghiệm
1) Mục đích nghiên cứu : Trong môn Tự nhiên và Xã hội ở lớp 3, có 3 chuyên đề chính đó là : Con người và sức khoẻ, Xã hội, Tự nhiên. – Chuyên đề về con người và sức khoẻ cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về cơ quan hô hấp, cơ quan tuần hoàn, cơ quan thần kinh, nhận biết trên sơ đồ và biết cách vệ sinh, bảo vệ sức khoẻ. – Chuyên đề về xã hội giúp học sinh biết được về gia đình, mối quan hệ họ hàng nội ngoại. Quan hệ giữa sự tăng số người trong gia đình và số người trong cộng đồng, an toàn khi ở nhà. Biết về nhà trường tiểu học, vai trò của giáo viên và học sinh trong các hoạt động đó. An toàn khi ở trường. Biết về tỉnh, thành phố nơi đang sống, một số cơ sở hành chính, giáo dục, y tế,… giữ vệ sinh nơi công cộng, an toàn giao thông. – Chuyên đề về tự nhiên giúp học sinh có hiểu biết về đặc điểm bên ngoài của cây xanh và một số con vật. Nhận biết về mặt trời, trái đất. Chính vì vậy với thời gian nghiên cứu hạn chế nên mục đích của đề tài là tìm hiểu các lớp động vật được giảng dạy trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3 2) Nhiệm vụ nghiên cứu : Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài tập trung vào một số nhiệm vụ sau : – Tìm hiểu lý thuyết về nội dung chương trình mơn Tự nhiên và Xã hội lớp 3. – Tìm hiểu các lớp động vật được giảng dạy trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3. III) PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Chúng tôi tiến hành điều tra nội dung chương trình giảng dạy môn Tự nhiên và Xã hội ở lớp 3. Tìm hiểu các lớp động vật được giảng dạy trong môn Tự nhiên và Xã hội ở lớp 3.
Nghiên cứu lý luận từ sách và tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu nội dung của đề tài.
Tiến hành tổng kết nội dung nghiên cứu của đề tài. Từ đó có cơ sở thống kê các lớp động vật được giảng dạy trong môn Tự nhiên và Xã Hội ở lớp 3. Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng thêm một số phương pháp nghiên cứu khác để bổ trợ cho quá trình nghiên cứu của đề tài.
1) Tầm quan trọng của môn tự nhiên và xã hội lớp 3: – Môn Tự nhiên và Xã hội là 1 môn học thể hiện sự tích hợp của hai môn tự nhiên xã hội và sức khoẻ. – Nội dung của môn học này phát triển đồng tâm và mở rộng dần theo nguyên tắc từ gần đến xa, từ đơn giản đến phức tạp, nội dung kiến thức được nâng dần lên theo mỗi lớp học. – Môn Tự nhiên và Xã hội gần gũi với cuộc sống xung quanh các em, giúp các em nắm được những kiến thức sơ giản về con người, về mối quan hệ xã hội về tự nhiên như cây cối, động vật cũng như các hiện tượng tự nhiên được thể hiện rõ qua từng bài học. – Môn TNXH không chỉ đơn thuần cung cấp cho HS một khối lượng tri thức cần thiết, mà còn tập cho học sinh làm quen với cách tư duy khoa học rèn luyện kỹ năng liên hệ kiến thức với thực tế. – Với những ý nghĩa trên, cùng với thời lượng ở tiểu học, môn Tự nhiên và Xã hội là một trong ba môn quan trọng trong chương trình tiểu học cùng với môn Tiếng Việt và môn Toán. 2) Vị trí môn Tự nhiên và Xã hội ở lớp 3 : – Điều 24, Luật giáo dục ghi rõ : “Giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người…”. Tự nhiên, xã hội, con người là đối tượng nhiên cứu của các ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh ở lứa tuổi 6 – 11 tuổi của bậc tiểu học. Các nội dung tự nhiên và xã hội được trình bày một cách đơn giản trong môn Tự nhiên và Xã hội. Học sinh sẽ có những hiểu biết cơ bản, ban đầu về các sự vật, hiện tượng, mối quan hệ giữa chúng trong tự nhiên, xã hội và con người. Chúng sẽ được củng cố và phát triển bảo đảm cho học sinh có những hiểu biết phổ thông cơ bản về khoa học xã hội, khoa học tự nhiên ở bậc trung học sơ sở trong các môn học độc lập như Sinh học, Vật lý,… – Do đặc điểm nội dung của mình, môn Tự nhiên và Xã hội ở tiểu học không chỉ đơn thuần cung cấp cho học sinh một khối lượng tri thức cần thiết mà còn tập cho học sinh làm quen với cách tư duy khoa học, rèn luyện kỹ năng liên hệ kiến thức với thực tế và ngược lại, giúp cho các em có được những phẩm chất và năng lực cần thiết thích ứng với cuộc sống, hình thành ở các em thái độ, khám phá, tìm tòi thực tế.
Môn Tự nhiên và Xã hội ở các lớp 3 nhằm giúp học sinh: 3.1. Cung cấp cho HS một số kiến thức cơ bản ban đầu và thiết thực về: + Con người và sức khoẻ (cơ thể người, cách giữ vệ sinh cơ thể và phòng tránh bệnh tật, tai nạn). + Một số sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và xã hội xung quanh. 3.2. Bước đầu hình thành và phát triển ở HS những kỹ năng: – Tự chăm sóc sức khoẻ cho bản thân, ứng xử và đưa ra quyết định hợp lý trong đời sống để phòng tránh một số bệnh tật và tai nạn. – Quan sát, nhận xét, nêu thắc mắc, đặt câu hỏi, diễn đạt những hiểu biết của mình (bằng lời nói hoặc hình vẽ) về các sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và xã hội. 3.3. Hình thành và phát triển ở học sinh những thái độ và hành vi: – Có ý thức thực hiện các quy tắc giữ vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và cộng đồng. – Yêu thiên nhiên, gia đình, trường học, quê hương.
Ở lớp 3, nội dung chương trình của môn Tự nhiên và Xã hội được phân bổ 2 tiết/ tuần và có 35 tuần học. Với số lượng là 70 tiết. – Biết tên, chức năng và giữ vệ sinh các cơ quan hô hấp, tuần hoàn, bài tiết nước tiểu và thần kinh. – Biết tên và cách phòng tránh một số bệnh thường gặp ở cơ quan hô hấp, tuần hoàn, bài tiết nước tiểu, thần kinh. – Biết mối quan hệ họ hàng, Nội, Ngoại. – Biết phòng tránh cháy khi ở nhà. – Biết được những hoạt động chủ yếu của nhà trường và giữ an toàn khi ở trường. Biết tên một số cơ sở hành chính, văn hoá, giáo dục, y tế và một số hoạt động thông tin liên lạc, nông nghiệp, công nghiệp, thương mại ở tỉnh (thành phố) nơi học sinh ở. – Biết một số qui tắc đối với người đi xe đạp. – Biết về cuộc sống trước kia và hiện nay ở địa phương và giữ vệ sinh môi trường. – Biết được sự đa dạng và phong phú của thực vật và động vật; chứa chức năng của thân, rễ, lá, hoa, quả đối với đời sống của cây và ích lợi đối với con người; ích lợi hoặc tác hại của một số động vật đối với đời sống con người. – Biết vai trò của Mặt Trời đối với Trái Đất và đời sống con người; vị trí và sự chuyển động của Trái Đất trong hệ Mặt Trời; sự chuyển động của Mặt Trăng quanh Trái Đất; hình dạng, đặc điểm bề mặt Trái Đất. – Biết ngày, đêm, năm, tháng.
Ở môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3, ngoài những nội dung chính trong 3 chủ đề như: Con người và sức khoẻ (học sinh nhận biết cơ quan hô hấp, máu và cơ quan tuần hoàn, cơ quan tiêu hoá, cơ quan thần kinh. Biết cách giữ vệ sinh cho các cơ quan đó ). Chủ đề xã hội (biết về gia đình, các thế hệ trong gia đình (nội ngoại), một số lưu ý khi ở nhà), nhà trường, các hoạt động trong nhà trường, tỉnh, thành phố, vệ sinh môi trường, một số lưu ý khi ở trường) thi các lớp động vật cũng được được vào giảng dạy trong chủ đề tự nhiên. Đây cũng là một trong những nội dung có vai trò hết sức quan trong trong việc cung cấp kiến thức về tự nhiên cho học sinh. Yêu cầu kiến thức của chủ đề về các lớp động vật trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3 là học sinh quan sát và biết nhận dạng được các loài động có trong các bức hình. Phân biệt hình dáng màu sắc của chúng. Biết được những đặc biệt cơn bản về mỗi loài. Biết vẽ và tô màu những động vật yêu thích. Biết sưu tầm thêm một số loài động vật quen thuộc. Các lớp động vật được đưa vào trong chủ đề tự nhiên bao gồm các loài động vật quen thuộc mà học sinh thường thấy:
Học sinh quan sát, tìm hiểu hình dáng, đặc điểm và tập vẽ con vật mà mình yêu thích. – Các loài động vật sống trên cạn : bò, hổ, sóc, voi, ong, kiến. Hưu cao cổ – Các loài động vật trên không trung: chim. – Các loài động vật dưới nước : Ếch, cá heo.
– Ruồi, muỗi, gián, bướm, cào cào, ong, tằm.
– Tôm (Tôm nước ngọt, nước mặn); Cua (cua nước ngọt và cua nước mặn)
– Cá nước ngọt : cá vàng, cá chép, cá rô phi, cá quả – Cá nước mặn : Cá chim, Cá ngừ, Cá đuối, Cá mập
– Loài chim biết bay: Đại bàng, Hoạ mi, Vẹt, Công, chim hút mật – Loài chim viết bơi: Ngỗng, chim cánh cụt – Loài chim không biết bay : Chim cánh cụt, Đà điểu – Loài chim chạy nhanh nhất : Đà điểu
– Trâu, bò sữa, ngựa, Lợn, dê.
– Về số lượng: Hiện nay các nhà sinh học đã biết được hơn 1 triệu 200 nghìn loài động vật, trong số đó côn trùng đã chiếm hơn 1 triệu loài và các loài côn trùng đã chiếm hơn 1/2 tổng số các loài sinh vật cư trú trên hành tinh chúng ta. Tuy vậy các loài côn trùng mà chúng ta chưa biết cũng còn rất nhiều. – Về phân bố: Côn trùng phân bố rất rộng rãi… Trên trái đất từ xích đạo đến Nam cực, Bắc cực hay trên những hòn đảo xa xôi hẻo lánh đều thấy có côn trùng. Côn trùng phần lớn sống ở trên cạn song số loài sống ở dưới nước cũng không phải là ít. Trên đỉnh núi cao cách mặt đất 5.000, mét cũng thu thập được các loài bọ xít; máy bay bay cao 4.600 mét vẫn thấy có – nhiều loài côn trùng. Sâu non ve sầu có thể sống ở dưới đất sâu đến 2 mét, mối đào tổ sâu đến 36m. Trong mạch nước nóng 70 – 80 độ C vẫn thấy có côn trùng. Thậm chí trong chai nước mắm mặn như vậy vẫn có con Dòi là ấu trùng của một số loài Ruồi. – Về mật độ: Có tài liệu cho biết bình quân 250 triệu cá thể côn trùng cho một đầu người và 12 triệu cá thể cho một Km 2 đất. – Về kích thước: Kích thước côn trùng cũng biến đổi nhiều, Người ta đã tìm thấy một loài ong ký sinh thuộc họ Mymaridae thân dài 0,21mm, có thể coi là loài côn trùng nhỏ nhất. Trong khi đó người ta đã tìm thấy một loài bướm (Thysania agrippina) ở Nam Mỹ dài xấp xỉ 0,3 mét hay một loài chuồn chuồn thấy trong hoá thạch chiều dài sải cánh khoảng 0,5 – 0,7 mét. Nếu so sánh loài có kích thước lớn nhất với loài có kích thước nhỏ nhất nó gấp từ 1.500 – 2.500 lần; Trong khi đó ở lớp Thú – Mammalia loài Cá voi (Balaenoptera musculus) dài 30m có thể coi là loài lớn nhất và loài có vú nhỏ nhất tìm thấy ở Italia là loài chuột chỉ dài có 3,6cm, như vậy chỉ gấp 836 lần mà thôi. Về sinh sản: Côn trùng cũng là loài mắn đẻ nhất thế giới, Một con sâu xám đẻ từ 1.500 – 2.000 trứng; một con ong chúa đẻ tới 2.000 trứng một ngày; một đời con mối chúa có thể đẻ đến vài trăm triệu chứng. Côn trùng đẻ nhiều, thời gian sinh sống lại ngắn. Có loài chỉ sống vài ngày nên khi gặp điều kiện thuận lợi số lượng tăng lên kinh khủng. Ví dụ một cặp ruồi nhà (Musca domestica L.) trong mùa sinh sản từ tháng 2 đến tháng 7 có thể sinh ra 6 lứa. Mỗi ruồi cái trung bình đẻ 120 trứng và cho rằng tỷ lệ cái đực là 1: 1. Với điều kiện thuận lợi; không chết con nào thì trong mùa sinh sản chúng đã sinh ra tới 93 tỉ con và sau một năm mặt đất sẽ có một lớp ruồi dầy tới nửa mét. Tất nhiên thiên nhiên không bao giờ để côn trùng tuỳ ý sinh sản như vậy. Có hàng trăm nghìn yếu tố khác nhau tác động để hạn chế chúng. Côn trùng sở dĩ phong phú như vậy là do chúng có một số đặc điểm sau: – Côn trùng có một lớp da cứng chắc nhẹ nhàng, đàn hồi được để bảo vệ cơ thể, – Thân thể nhỏ bé, chỉ cần một lượng thức ăn rất nhỏ chúng cũng sống được nên dễ chiếm một vị trí thích hợp trong không gian. – Côn trùng là động vật không xương sống duy nhất có cánh nên phân bố rộng rãi. – Côn trùng có khả năng thích ứng với môi trường cao và sức sinh sản phi thường.
– Cấu tạo: đối với Tôm cơ thể có 2 phần: phần đầu và ngực gắn liền và phần bụng. Đối với cua phần bụng tiêu giảm, dẹp mỏng gập vào mặt bụng của mai. – Di chuyển : Tôm có thể bò, các chân ngực bò trên đáy bùn cát, các chân bơi hoạt động để giữ thăng bằng và bơi. Tôm có thể bơi giật lùi. Khi đó tôm xoè tấm lái, gập mạnh về phía bụng làm cho cơ thể bật về phía sau. Còn cua, chỉ bò ngang thích nghi lối sống ở hang hốc. – Tác dụng : Tôm cua là loại giáp xác, rất phong phú và sống ở môi trường nước, một số sống ở cạn. Chúng có tập tính phong phú và đều có lợi . chúng là nguồn thức ăn của cá và thực phẩm quan trọng của con người, là loại thuỷ sản xuất khẩu hàng đầu của nước ta hiện nay.
Cá là loài động vật sống ở nước, trên thế giới gồm có khoảng 25415 lời cá. Ơû Việt Nam đã phát hiện 2753 loài trong hai lớp chính : lớp cá sụn và lớp cá xương. Lớp cá sụn là lời sống ở nước mặn và nước lợ, có bộ xương bằng chất sụn, có khe mang trần, da nhám, miệng nằm ở mặt bụng. Còn lớp cá xương gồm đ số những loài cá hiện nay sống ở biển, nước lợ và nước ngọt. Chúng có bộ xương bằng chất xương và có những đặc điểm tương tự như cá chép. Vai trò : Cá là nguồn thực phẩm thiên nhiên giàu đạm, nhiều vi ta min, dễ tiêu hoá vì có hàm lượng mỡ thấp. Để bảo vệ và phát triển nguồn lợi cá cần tận dụng các vực nước tự nhiên để nuôi cá, cải tạo các vực nước. Ngăn cấm bắt cá còn nhỏ, nghiêm cấm đánh bắt cá bằng mìn hoặc chất độc.
Lớp chim được chia ra các nhóm gồm : nhóm chim chạy, nhóm chim bơi và nhóm chim bay. Nhóm chim chạy là loài không biết bay, cánh ngắn, yếu. Chân cao to, khoẻ. Nhóm chim bơi là loại không biết bay, đi lại trên cạn vụng về song thích nghi cao với đời sống bơi lội trong biển. Cánh dài, khoẻ, có lông nhỏ, ngắn và dày, không thấm nước. Nhóm chim bay: gồm hầu hết những loài chim hiện nay. Chúng là những lời chim biết bay ở các mức độ khác nhau, chúng có thể thích nghi với một số môi trường khác như nước. Vai trò : Chim ăn các loài sâu bọ và gặm nhấm làm hại nhà nông, lâm nghiệp và gây bệnh dịch cho con người. Chim có vai trò trong tự nhiên. Tuy nhiên có một số loài chim gây hại cho con người như ăn quả chín, ăn hạt, ăn cá,…
Lớp thú rất đa dạng và phong phú. Loại ăn sâu bọ, loại gặm nhấm, loại ăn thịt. Bộ răng của thú ăn sâu bọ thể hiện sự thích nghi với chế độ ăn sâu bọ, gồm những răng sắc nhọn cắn nát vỏ của sâu bọ. Bổăng của thú gặm nhấm thích nghi với cách gặm nhấm thức ăn, còn thú ăn thịt có bộ răng thích nghi với chế độ ăn thịt. Từ thích nghi với cách ăn và chế độ ăn đã ảnh hưởng tới các đặc điểm cấu tạo và tập tính của các loài đó. Một số loài thú có ích cho con người nhưng cũng có một số loài thú gây hại đến đời sống con người. III. VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÙ HỢP TRONG GIẢNG DẠY VỀ ĐỘNG VẬT Ở MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 3: 1) Phương pháp quan sát : Là phương pháp đặc biệt quan trọng trong dạy học về động vật ơr lớp 3. Trong đó học sinh sử dụng thị giác phối hợp với các giác quan để xem xét và quan sát cấu tạo ngoài của một số loài động vật. Ví dụ : Khi dạy bài “Côn trùng”, học sinh quan sát một số côn trùng thật như ruồi, bướm, ong,… và nêu cấu tạo bên ngoài của chúng (chúng có 6 chân, là loài động vật không có xương sống, chân phân thành các đốt, chúng có ánh và biết bay). Hoặc khi dạy bài “Cá”, giáo viên cho học sinh quan sát cấu tạo bên ngoài của cá và nêu nhận xét : – Cá có đầu, thân, đuôi, có vây để bơi. – Các là động vật có xương sống, sống ở dưới nước, thở bằng mang. Cơ thể chúng thường có vảy, chúng được làm thức ăn cho con người. – Vẽ và tô màu hình dáng bên ngoài của cá. Hoặc khi dạy bài “Chim” giáo viên cho học sinh quan sát con chim thật và yêu cầu đưa ra nhận xét về cấu tạo bên ngoài của chim: – Chim có cấu tạo gồm đầu, thân, hai cánh, đuôi và chân. – Chim có lông dày, miệng có mỏ cứng (để một thức ăn), lông cánh của chim dài (dùng để bay)… 2) Phương pháp vấn đáp : Là phương pháp có vai trò quan trọng trong dạy về động vật ở lớp 3. sử dụng phương pháp này giáo viên có thể giúp học sinh tìm hiểu về cấu tạo, đặc điểm và những ích lợi của các loài động vật trong chương trình. Ví dụ: Khí dạy bài “Côn trùng” giáo viên dùng một số câu hỏi để dẫn dắt học sinh quan sát bộ phận bên ngoài và đặc điểm chính của côn trùng: – Cấu tạo bên ngoài của côn trùng (gồm có mây phần, hình dáng, màu sắc,…) – Đặc điểm : Cácđăcj điểm về côn trùng: có chân, cánh, màu sắc,… – Học sinh nêu một số ích lợi và tác hại của côn trùng, cách diệt trừ những loài côn trùng có hại. Hoặc khi dạy bài “Tôm, cua”, giáo viên sử dụng phương pháp vấn đáp để giúp học sinh tìm hiểu về cấu tạo của tôm, cua, những nét cơ bản của chúng (Tôm và cua sống ở đâu, chúng được sử dụng để làm gì,…) 3) Phương pháp thảo luận : Đây là một trong những phương pháp quan trọng nhất trong dạy học Tự nhiên và xã hội lớp 3 nói chung dạy về động vật nói riêng. Thông qua phương pháp này học sinh đề cao sự hợp tác tích cực, phát huy tính độc lập làm việc, tính tư duy sáng tạo và mạnh dạn trong học tập. Ví dụ khi dạy bài “Chim” giáo viên sử dụng phương pháp thảo luận để học sinh cùng nhau tìm hiểu và nêu một số đặc điểm giống nhau và khác nhau của những loài chim có trong hình sách giáo khoa. Như vậy qua thảo luận, nghiên cứu và hợp tác của một nhóm học sinh, các em sẽ xác định cụ thể những nét giống nhau và khác nhau của các loài chim được giới thiệu trong các hình ảnh của sách giáo khoa. 4) Phương pháp khảo sát điều tra: Là phương pháp rất quan trọng trong dạy về động vật ở lớp 3. thông qua phương pháp này giúp học sinh tìm thêm những tư liệu cần thiết để thu thập thêm thông tin về những loài động vật trong đời sống xung quanh các em. Ví dụ : khi dạy bài “Cá”, sau tiết học, giáo viên yêu cầu học sinh về nhà điều tra thêm một số tranh ảnh về loài cá và các hoạt động vật nuôi, đánh bắt và chế biến cá. Hoặc khi dạy bài “Tôm, cua” giáo viên cho học sinh về nhà sưu tầm thêm một số tranh ảnh về tôm, cua hoặc thông tin về hoạt động nuôi, đánh bắt và chế biến tôm, cua 5) Phương pháp truyền đạt: Là phương phương được sử dụng khá nhiều trong dạy học về chủ đề động vật. Thông qua phương pháp này, giáo viên giảng giải thêm một số thông tin cần thiết về nội dung bài dạy mà không có trong sách giáo khoa. Ví dụ : Khi dạy bài : “Côn trùng”, ngoài những loài côn trùng có lợi, có hại được nêu trong sách giáo khoa như ruồi, muỗi, cà cuống, gián, bướm, ong mật, châu chấu, tằm. Giáo viên có thể giải thích thêm một số loài côn trùng khác có trong đời sống xung quanh học sinh và nêu cách phòng diệt như sâu đục thân, sâu cuốn lá, là những loài côn trùng có hại đến cây cà phê, cây tiêu và một số cây ăn quả khác. Chúng thường xuất hiện làm chết cây hoặc ăn hết lá cây. Cần phòng ngừa chúng bằng nhiều cách như về thủ công, có thể ban đêm dùng đèn để tìm bắt và diệt sâu. Về phòng trị có thể dùng một số loại thuốc trừ sâu (có hướng dẫn của trạm thú y) để trị hoặc ngăn ngừa chúng. 6) Phương pháp dạy học nêu vấn đề: Đây là một phương pháp được sử dụng khá nhiều trong môn Tự nhiên và xã hội. Nhưng trong phần dạy học về chủ đề động vật thường ít được sử dụng. Tuy nhiên có một số trường hợp, giáo viên cũng phải dùng đến nhằm giải thích một cách ngắn gọn, súc tích giúp học sinh giải quyết được những mâu thuẫn khi các em không tìm được câu trả lời. Ví dụ : Khi dạy bài “Động vật”, nếu học sinh sưu tập được một số tranh ảnh về một loài động vật nào đó mà các em chưa biết rõ chúng có lợi hay có hại đến đời sống con người thì giáo viên có thể giúp cá em giải quyết những thắc mắc mà các em chưa hiểu. Hoặc khi dạy bài “Côn trùng” giáo viên có thể đặt ra một vấn đề ngoài sách giáo khoa như giới thiệu thêm về loài giun đất và cho học sinh quy nghĩ để giải thích con giun đất có xương không? Nó có hại hay có lợi cho đời sống con người. 7) Phương pháp trò chơi: Đây là một trong những phương pháp gây được sự hứng thú nhất trong dạy học Tự nhiên xã hội ở lớp 3, đặc biệt là phần dạy học về chủ đề động vật. Thông qua phương pháp này, học sinh được tham gia một số trò chơi nhỏ nhằm củng cố hay mở rộng kiến thức của bản thân khi tham gia chơi. Ví dụ : Khi dạy bài “Động vật”, giáo viên có thể dùng một số tranh ảnh về các loài thú ngoài sách giáo khoa và tổ chức cho học sinh tham gia trò chơi “Đố bạn con gì”. Thông qua trò chơi này, học sinh vừa được giải trí vui vẻ vừa có thêm kiến thức về một số động vật mà các em chưa biết. Hoặc khi dạy bài “Chim”. Sau tiết học, giáo viên tổ chức trò chơi “Bắt chước tiếng chim hót” bằng cách cho các em tham gia chơi bắt chước tiếng chim để hót. Thông qua trò chơi này, học sinh vừa được giải trí vui vẻ vừa biết thêm một số tiếng hót của chim hót. KẾT LUẬN:
Môn học Tự nhiên và xã hội ở lớp 3 có vai trò hết sức quan trọng với học sinh. Thông qua môn học này, các em có thêm những kiến thức về tự nhiên, xã hội như hiểu biết về con người, sức khoẻ. Hiểu biết về một số sự vật hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và xã hội. Đối với chủ đề về động vật, thông qua các bài học này, học sinh có thể hiểu thêm về rất nhiều các loài động vật xung quanh cuộc sống của mình và những động vật khác (các loài nước ngọt, nước mặn), tác hại và lợi ích của một số động vật có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hằng ngày của các em. Từ đó không những tạo cho các em những kiến thức quý giá từ động vật mà còn xây dựng trong tâm hồn trẻ thơ tình yêu thiên nhiên, yêu động vật biết chăm sóc những động vật quen thuộc, biết bảo vệ những loài gần gũi…. Về kỹ năng, thông qua môn học Tự nhiên và xã hội, các em biết tự chăm sóc sức khoẻ cho bản thân, ứng xử hợp lý trong đời sống để phòng chống một số bệnh tật và tai nạn. Biết quan sát, nhận xét, nêu thắc mắc, đặt câu hỏi, biết cách diễn đạt những hiểu biết của mình về các sự vật hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và xã hội. Đối với chủ đề về động vật, sau khi học xong các bài học về động vật, các em có kỹ năng quan sát và nêu nhận xét về động vật mà các em đã học. Biết nêu những hiểu biết của mình về những con vật mà các em quan sát được xung quanh đời sống của mình. Về thái độ, môn Tự nhiên và xã hội giúp cho các em có ý thức thực hiện các quy tắc giữ vệ sinh, an toàn cho bản thân gia đình và cộng đồng. Yêu thiên nhiên, gia đình, trường học và quê hương. Đặc biệt đối với chủ đề động vật sau khi học xong, các em biết được những loài động vật có ích và những loài động vật gây hại đến đời sống hằng ngày của mình, các em sẽ có ý thức bảo vệ chăm sóc những động vật nuôi trong nhà và biết cách phòng ngừa và trị những động vật gây hại đến bản thân, gia đình và xã hội. Đề tài Tìm hiểu các lớp động vật được giảng dạy trong môn Tự nhiên và Xã hội ở lớp 3” là một nội dung nghiên cứu về các lớp động vật được giảng dạy trong môn Tự nhiên và xã hội ở lớp 3, tìm hiểu một số phương pháp giảng dạy về chủ đề động vật. Thông qua nội dung nghiên cứu này bản thân tôi cũng rút ra cho mình rất nhiều bài học quý báu, hiểu thêm về một số động vật có lợi và có hại làm tư liệu cho bản thân giảng dạy sau này. Biết thêm một số tác dụng của các phương pháp được sử dụng khi dạy về chủ đề động vật trong môn Tự nhiên và xã hội ở lớp 3. Thông qua đề tài này giáo viên có thể vận dụng một cách linh hoạt các phương pháp dạy học trong môn Tự nhiên và xã hội, có thêm nhiều kinh nghiệm trong dạy học nói chung và môn tự nhiên và xã hội nói riêng. Tuy nhiên để vận dụng các hình thức tổ chức dạy học hay các phương pháp dạy học một cách trọn vẹn thì lại là việc không hề đơn giản mà đòi hỏi người giáo viên phải có một tâm huyết thật sự, có kỹ năng nghiệp vụ vững vàng, biết lựa chọn những phương pháp dạy học phù hợp, tổ chức các hình thức dạy học đúng yêu cầu và biết vận dụng một cách linh hoạt các phương pháp dạy học cũng như hình thức tổ chức thì kết quả mới đạt được mục tiêu. Không có người giáo viên nào là hoàn hảo, không có phương pháp nào là vạn năng. Khi đất nước đổi mới thì nhận thức con người cũng thay đổi hằng ngày. Chính vì thế người giáo viên phải biết tìm tòi học hỏi không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu giảng dạy đáp ứng được nhịp độ phát triển của thời đại. Công việc của tôi dừng lại ở đây, đối với bản thân chỉ nghiên cứu bước đầu về việc tìm hiểu các lớp động vật được giảng dạy trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3 ở một góc độ hạn hẹp. Đây là một nội dung hết sức khó khăn nhưng cũng không kém phần quan trọng, bởi việc dạy học không phải là một ngày, hai ngày mà tốt được. Môn Tự nhiên và xã hội là một môn quan trọng trong chương trình giáo dục tiểu học vì thế phải có thời gian rèn luyện và đầu tư cao thì hiệu của của bài học mới thật sự hiệu quả, giáo dục tiểu học mới xứng tầm với sự phát triển của đất nước.
* Đối với nhà trường : – Thường xuyên quan tâm đến chất lượng dạy học của giáo viên và học tập của học sinh để có những biện pháp chỉ đạo kịp thời nhằm từng bước tháo gỡ khó khăn trong quá trình dạy học, phát triển dần chất lượng khá giỏi của nhà trường. – Tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên tham gia các lớp học chuyên đề, bồi dưỡng. v.v… nhất là tập huấn về phương pháp dạy học theo hướng đổi mới để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên. – Trang bị đầy đủ các thiết bị và đồ dùng dạy học đặc biệt là một số tranh ảnh để giáo viên kịp thời tiếp cận và triển khai bài dạy đúng chương trình và phát huy tính sáng tạo trong dạy học nhất là các thiết bị có liên quan đến dạy giáo án điện tử. * Đối với giáo viên : – Tham gia tích cực tập huấn chuyên đề về phương pháp dạy học và biện pháp tổ chức dạy học đối với học sinh để củng cố trình độ nghiệp vụ của bản thân. – Thường xuyên học tập, không ngừng tìm hiểu tiếp cận với các phương tiện dạy học hiện đại để tạo cho mình một thương hiệu, vừa nâng cao chất lượng học tập của học sinh vừa chứng tỏ được trình độ sư phạm trước cha mẹ học sinh cũng như bạn bè đồng nghiệp. – Quan tâm nhiều hơn đến học sinh trong lớp mình trực tiếp giảng dạy, thường xuyên theo dõi chất lượng học tập của các em, nhằm tìm ra những sai sót để có biện pháp uốn nắn kịp thời giúp cho các em có kiến thức cũng như tinh thần để học tốt môn khác.– Phối hợp chặt chẽ với gia đình phụ huynh học sinh để tạo điều kiện thuận lợi cho các em tham gia học tập đầy đủ. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
BẤM VÀO ĐÂY ĐỂ TẢI FILEWWORD SỰ KẾT HỢP ĐA DẠNG CÁC PHƯƠNG PHÁP TRONG GIẢNG DẠY
bởi quản trị viên | Ngày đăng: 30-07-2018
SỰ KẾT HỢP ĐA DẠNG CÁC PHƯƠNG PHÁP TRONG GIẢNG DẠY
ThS Vũ Văn Nam
1. Thế nào là dạy học bằng sự đa dạng các phương pháp: Dạy bằng sự đa da dạng các phương pháp có nghĩa là sử dụng một cách hợp lý nhiều phương pháp, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học khác nhau trong một giờ học giờ dạy học, một buổi dạy học hay trong suất quá trình thực hiện môn học, để đạt được hiệu quả cao. Dạy học bằng sự đa dạng các phương pháp ta có thể khái quát chung được thông qua các vấn đề sau đây: Sử dụng đa dạng các phương pháp dạy học : Dẫn luận, diễn giải, thuyết trình, minh họa, quan sát, nghiên cứu & luyện tập. Sử dụng đa dạng các phương tiện dạy học: Kết hợp luân phiên các phương pháp hiện đại (giáo án điện tử), lời nói của giảng viên, mô hình thí nghiệm, hình ảnh, âm thanh trong việc trình bày nội dung của bài giảng. Một điều cần phải chú ý là sử dụng các phương tiện dạy học một cách tối ưu, đòi hỏi người giảng viên phải biết cách lựa chọn những phương tiện thích hợp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học. Đi đôi với việc sử dụng các phương tiện dạy ta cũng phải cân nhắc lựa chọn cẩn thận, không nên tập trung quá nhiều hay quá lạm dụng các phương tiện hiện đại vào bài giảng thì có khả năng dẫn đến tác hại làm cho giờ học kém hiệu quả. Bởi vì sinh viên, học viên chỉ chú trọng đến hình thức học quên đi nội dung của bài học. Sử dụng phối hợp nhiều hình thức tổ chức dạy học : Vừa học bài mới- ôn tập bài cũ, minh họa các ví dụ mang tính thực tiễn, chỉ cho sinh viên, học viên cách học từng môn học, thảo luận, đi thực tế tham quan, viết bài thu hoạch. Hiện nay đa số các trường Đại học đang thúc đẩy tính tự nghiên cứu của sinh viên, học viên (bằng cách gợi ý cho sinh viên, học viên về đọc sách trước rồi tóm tắt nội dung mà sinh viên đã thu thập được trong quá trình đọc, tiết sau giảng viên mới tiến hành mô phỏng lại nội dung bài mà sinh viên, học viên đã đọc, xem kết quả mà sinh viên, học viên thu thập được có giống với kết quả mà giảng viên mô phỏng hay không. Hình thức này tạo cho sinh viên, học viên có nhiều những vấn đề để thảo luận.Vấn đề này có hiệu quả cao khi các sinh viên, học viên thực hiện theo kiểu học nhóm) Sử dụng phương pháp dạy học thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể: Mỗi phương pháp dạy học chỉ phát huy được tác dụng cao nhất khi nó được sử dụng phù hợp với từng hoàn cảnh, đối tượng học cụ thể. Sau đây là một số mục tiêu để lựa chọn phương pháp dạy học: - Mục đích của môn học - Đặc trưng của môn học - Nội dung dạy học - Đặc điểm lứa tuổi và trình độ của người học - Điều kiện cơ sở vật chất (phòng học, trang thiết bị học và dạy học) - Thời gian cho phép và thời điểm dạy học - Trình độ và năng lực của giảng viên - Ưu điểm và hạn chế của mỗi phương pháp 2. Tác dụng của dạy học bằng sự đa dạng các phương pháp: Sử dụng phương pháp dạy học thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể phát huy được những mặt mạnh và mặt yếu của mỗi phương pháp: Mỗi chúng ta đều biết rằng mỗi một phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm khác nhau, không có phương pháp nào là tối ưu. Sinh viên, học viên sẽ có điều kiện tiếp thu bài một cách thuận lợi khi giảng viên lựa chọn đúng phương pháp dạy học thích hợp cho đúng đối tượng và phù hợp với tiến trình của bài giảng. Mỗi khi thay đổi phương pháp dạy học đã làm thay đổi cách thức hoạt động tư duy của sinh viên, học viên thay đổi sự tác động vào các giác quan, giúp cho sinh viên, hoc viên đỡ mệt mỏi và có thể tiếp thu bài tốt hơn Mỗi sinh viên, học viên thích ứng với những phương pháp dạy học khác nhau. Sử dụng đa dạng các phương pháp sẽ tạo điều kiện thích ứng cao nhất giữa các phương pháp dạy của giảng viên với phương pháp học của sinh viên và học viên, tạo sự tương tác tốt giữa thầy và trò. Mỗi lần thay đổi phương pháp dạy học là một lần giảng viên tạo ra cái mới, nhờ thế sẽ tránh được sự đơn điệu, nhàm chán của tiết học. Nhờ đó tiết học sẽ sinh động hơn, hấp dẫn, sinh viên và học viên hứng thú và có nhiều cơ hội tiếp thu bài học tốt hơn. 3. Kết luận : Để đề tài này thực sự có hiệu quả trên thực tế, một mặt giảng viên phải tự học hỏi trau dồi thêm những kiến thức chuyên môn, các phương pháp dạy mới, phương pháp dạy học theo phương châm lấy sinh viên làm trung tâm, mặt khác các trường cần đầu tư những trang thiết bị dạy học cho phù hợp (phòng học thiết kế kê bàn ghế dễ thay đổi được vị trí, máy vi tính, máy projector hoặc máy in, đèn overhead, phim trong, bút lông dầu, có đủ giáo trình, nên tăng số lượng đầu sách tham khảo ở thư viện để phục vụ cho mỗi môn học…), cần tạo qũy thời gian và kinh phí để bồi dưỡng giảng viên biên soạn giáo án điện tử, sử dụng thành thạo các thiết bị giảng dạy hiện có trong trường, trường có thể tạo điều dành riêng một phòng có trang bị các thiết bị cần thiết để giảng viên có phương tiện để nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy.
TÍCH HỢP GIÁO DỤC MÔI TRƯỜNG TRONG MÔN TỰ NHIÊN – XÃ HỘI LỚP 1, 2, 306/01/2015 2:47:40 CH - Lượt xem: 35622 |