Quốc hiệu nghĩa là gì

Đối với mỗi công dân, quốc hiệu luôn là lòng tự hào dân tộc. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, ở mỗi giai đoạn, nước ta từng có những quốc hiệu khác nhau, như: Văn lang, Âu Lạc, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt,… Vậy quốc hiệu là gì? Quốc hiệu hiện nay của Việt Nam là gì? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu cụ thể hơn trong bài viết sau đây.

Quốc hiệu nghĩa là gì
Quốc hiệu là gì

Quốc hiệu là tên chính thức của một quốc gia, không chỉ có ý nghĩa biểu thị chủ quyền lãnh thổ mà còn là danh xưng chính thức được dùng trong ngoại giao; biểu thị thể chế và mục tiêu chính trị của một nước.

Từ đầu thời đại đồng thau, các bộ lạc người Việt đã định cư chắc chắn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Lúc bấy giờ có khoảng 15 bộ lạc người Việt sinh sống chủ yếu ở miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ, hàng chục bộ lạc Âu Việt sống chủ yếu ở miền Việt Bắc. Do xuất phát từ nhiều nhu cầu cần thiết ngày càng tăng (như nhu cầu trị thủy, nhu cầu chống ngoại xâm và do việc trao đổi kinh tế, văn hóa) các bộ lạc sinh sống gần gũi nhau có xu hướng tập hợp và thống nhất lại. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, bộ lạc Văn Lang hùng mạnh hơn cả. Thủ lĩnh bộ lạc này là người đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt, dựng nên nước Văn Lang, tự xưng vua, mà sử cũ gọi là Hùng Vương, con cháu ông nhiều đời về sau vẫn nối truyền danh hiệu đó.

Trải qua lịch sử lâu đời, quốc hiệu cũng được thay đổi nhiều lần theo thời gian. Vậy quốc hiệu Việt Nam xuất hiện từ khi nào?

Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, mở đầu thời Nguyễn và cho đổi tên nước là Việt Nam. Quốc hiệu Việt Nam được công nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao để trở thành chính thức vào năm 1804. Về ý nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ “Việt Nam” kiến tạo bởi hai yếu tố: chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam). Tuy nhiên trên thực tế, hai tiếng “Việt Nam” lại thấy xuất hiện từ khá sớm trong lịch sử nước ta. Có thể kể đến như:

  • Ngay từ cuối thế kỷ 14 đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí (ghi chép về các đời ở Việt Nam) do Trạng nguyên Hồ Tông Thốc biên soạn;
  • Cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi (đầu thế kỷ 15) nhiều lần nhắc đến hai chữ “Việt Nam”;
  • Những tác phẩm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585), chẳng hạn ngay trong mở đầu tập Trình tiên sinh quốc ngữ văn đã có câu: “Việt Nam khởi tổ xây nền”;
  • Người ta cũng tìm thấy hai chữ “Việt Nam” trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16 – 17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Phòng, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh… Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: “Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan” (đây là cửa ngõ yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc).

Ngày 30/4/1975, miền Nam được giải phóng, non sông quy về một mối. Ngày 02/7/1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, toàn thể Quốc hội đã nhất trí lấy tên nước là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định quốc hiệu đó, đưa quốc hiệu Việt Nam trở thành chính thức cả về pháp lý lẫn trên thực tế.

Trình bày Quốc hiệu trong văn bản của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước được quy định tại Điều 30 Nghị quyết 351/2017/UBTVQH14 quy định thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước như sau:

“Quốc hiệu được trình bày bằng chữ in hoa, cỡ chữ 12, kiểu chữ đứng, đậm, đặt cân đối ở phía trên cùng, bên phải trang đầu tiên của văn bản”.

Trên đây là một số thông tin liên quan để tìm hiểu quốc hiệu là gì. Hy vọng đây là những thông tin bổ ích đối với bạn. Nếu bạn còn thắc mắc gì về quốc hiệu là gì hay cần hỗ trợ tư vấn pháp lý, hãy nhanh chóng liên hệ với Công ty Luật ACC. Chúng tôi cam kết sẽ giúp bạn có trải nghiệm tốt nhất về các dịch vụ mà mình cung cấp đến khách hàng. ACC luôn đồng hành pháp lý cùng bạn.

  • Email:
  • Hotline: 1900 3330
  • Zalo: 084 696 7979

Quốc hiệu là tên gọi chính thức của một quốc gia, nó có ý nghĩa biểu thị chủ quyền lãnh thổ, bên cạnh đó danh xưng chính thức được dùng trong ngoại giao, thể chế và mục tiêu chính trị của một nước. Dù thể hiện dưới dạng tiếng nói hay chữ viết, đối với mỗi công dân, quốc hiệu luôn là lòng tự hào dân tộc.

Quốc hiệu của quốc gia Việt Nam là “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM” được quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị quyết 351/2017/UBTVQH14.

Quốc hiệu nghĩa là gì

Quốc hiệu của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

2. Quốc kỳ

Quốc kỳ có nghĩa là lá cờ của quốc gia, là loại cờ được dùng làm biểu trưng cho một quốc gia.

Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh. (Được quy định khoản 1 Điều 13 Hiến pháp 2013).

Quốc hiệu nghĩa là gì

Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

3. Quốc huy

Quốc huy là huy hiệu tượng trưng cho quốc gia, Quốc huy của mỗi quốc gia thường được quy định trong Hiến pháp.

Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (Được quy định tại khoản 2 Điều 13 Hiến pháp 2013).

Quốc hiệu nghĩa là gì

Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

4. Quốc ca

Quốc ca là bài hát chính thức của một quốc gia được dùng trong các nghi lễ trọng thể. Quốc ca của mỗi quốc gia thường được quy định trong hiến pháp của quốc gia đó.

Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhạc và lời của bài Tiến quân ca. (Được quy định tại khoản 3 Điều 13 Hiến pháp 2013)

Quốc hiệu nghĩa là gì

Quốc ca nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

5. Quốc khánh

Quốc khánh là ngày khai sinh ra một nước, một dân tộc, có thể xem đây là ngày lễ lớn nhất của một quốc gia và là sự kiện trọng đại nhất của đất nước đó.

Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là ngày Tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 năm 1945. (Được quy định tại khoản 4 Điều 13 Hiến pháp 2013).

Quốc hiệu nghĩa là gì

Ngày 02 tháng 9 Quốc khánh của Việt Nam

>>> Xem thêm: Ngày lễ 1/5 có bắt buộc treo quốc kỳ trước cửa nhà không? Nếu không treo quốc kỳ có bị xử phạt không?

Được bắn pháo hoa vào lúc 0h ngày Quốc khánh ở nước ta hay không? Thời lượng bắn pháo hoa cụ thể vào ngày này là bao lâu?

Chí Nhân

HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN

Đối với mỗi quốc gia, Quốc hiệu là tên gọi đại diện cho quốc gia trên trường quốc tế. Trong khi đó Tiêu ngữ thể hiện mục tiêu mà quốc gia đó hướng tới trên con đường xây dựng và phát triển đất nước. Bài viết này sẽ tìm hiểu về những quy định của pháp luật Việt Nam về việc sử dụng Quốc hiệu và Tiêu ngữ.

Căn cứ pháp lý

– Nghị quyết 351/2017/UBTVQH14.

1. Quốc hiệu là gì?

Quốc hiệu là Tên gọi chính thức của một nước, một quốc gia.

Quốc hiệu tiếng Anh là: “National name”.

2. Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử:

Văn Lang: Tồn tại 2671 năm (2876 trước CN – 258 trước CN. Được coi là quốc hiệu đầu tiên cho Việt Nam.

Âu Lạc: Năm 257 trước công nguyên, nước Âu Lạc được dựng lên, từ liên kết các bộ lạc Lạc Việt (Văn Lang) và Âu Việt.

Vạn Xuân: Là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi dưới sự lãnh đạo của Lý Nam Đế. Quốc hiệu này tồn tại từ năm 544 đến năm 602.

Đại Cồ Việt: Là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Đinh đến đầu thời nhà Lý, do Đinh Tiên Hoàng đặt năm 968. Quốc hiệu này tồn tại 86 năm đến năm 1054, đời vua Lý Thánh Tông đổi sang quốc hiệu khác.

Đại Việt: Là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Lý, bắt đầu từ năm 1054, khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi. Quốc hiệu này tồn tại không liên tục (gián đoạn 7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh), đến năm 1804, trải qua các vương triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn, khoảng 743 năm.

Đại Ngu: Là quốc hiệu của Việt Nam thời nhà Hồ, từ năm 1400. Chữ Ngu ở đây có nghĩa là “sự yên vui, hòa bình”.

Việt Nam: Quốc hiệu Việt Nam chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia Long đã đề nghị nhà Thanh công nhận quốc hiệu Nam Việt. Tuy nhiên tên Nam Việt trùng với quốc hiệu của quốc gia cổ Nam Việt thời nhà Triệu. Nhà Thanh yêu cầu nhà Nguyễn đổi ngược lại thành Việt Nam để tránh nhầm lẫn. Quốc hiệu này được tuyên phong vào năm 1804.

Tuy nhiên trên thực tế thời kỳ đó, tên gọi Việt Nam có thể đã xuất hiện sớm hơn. Từ cuối thế kỷ 14, đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí và đầu thế kỷ 15 trong cuốn “Dư địa chí” đã thấy nhiều lần nhắc đến hai chữ “Việt Nam”. Điều này còn được đề cập rõ ràng trong những tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Người ta cũng tìm thấy hai chữ “Việt Nam” trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh… Đặc biệt, bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: “Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan”.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là tên gọi của cả nước Việt Nam từ 1945 đến 1954. Tên Quốc gia Việt Nam do cựu Hoàng đế Bảo Đại ký với Pháp ngày 8/3/1949. Năm 1955, Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại và thành lập nên cái gọi là chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Ngày 30/4/1975, miền Nam được giải phóng. Ngày 2/7/1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, toàn thể Quốc hội đã nhất trí lấy tên nước là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định quốc hiệu đó, đưa nó trở thành chính thức cả về pháp lý lẫn trên thực tế và vẫn được sử dụng cho đến nay.

3. Tiêu ngữ là gì?

Tiêu ngữ là một cụm từ tóm tắt mục tiêu, động lực hoặc ý định chung của một nhóm xã hội hoặc tổ chức.

Tiêu ngữ tiếng Anh là :“Crest”

4. Ý nghĩa của tiêu ngữ Việt Nam:

Tiêu ngữ “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” ghi dưới Quốc hiệu Việt Nam từ 1945 đến nay (từ Việt Nam dân chủ cộng hòa sang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) vẫn không thay đổi nội dung và hình thức trình bày; chỉ càng ngày càng được nhận thức đầy đủ bản chất và ý nghĩa lịch sử thiêng liêng, trọng đại.

Hồ Chủ tịch gọi đó là “ba chính sách”. Người phát biểu: “Chính phủ cố gắng làm theo đúng ba chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc. Chúng ta không mong gì hơn nhưng chúng ta không chịu gì kém”. Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa Lenin, tìm thấy con đường cách mạng vô sản cũng từ khát khao “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.

“Độc lập” là giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, tức là phải “tỉnh ngộ lên, đoàn kết lại, biết rằng thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi tụi áp bức mình đi”. “Độc lập” theo con đường cách mạng triệt để là “làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người”, “nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do, bình đẳng giả dối”. Độc lập” ở Việt Nam trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 “đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân… xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng dân chủ cộng hòa và thống nhất độc lập”. “Độc lập” ấy của toàn dân tộc sau khi giành được đã nêu cao ý chí quyết tâm “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”

Nhưng “Độc lập” không tách biệt với “Tự do”, “Hạnh phúc” mà phải gắn liền một cách hữu cơ và biện chứng với nhau như những điều kiện và mục tiêu tối thượng.

“Tự do” và “Hạnh phúc” là kết quả của “Độc lập” nhưng phải là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bởi vì “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”. Nói “Tự do” và “Hạnh phúc” là nói đến người dân được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do Chính phủ chăm lo và bản thân mỗi con người biết mưu cầu chính đáng. “Tự do” và “Hạnh phúc” cơ bản nhất, tối thiểu nhất theo cách nói của Hồ Chí Minh là “đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”; người dân từ chỗ có ăn, có mặc, được học hành đến chỗ ăn ngon, mặc đẹp, đời sống sung túc và cống hiến… Điều đó trong chế độ dân chủ cộng hòa thì mỗi người dân được pháp luật đảm bảo điều kiện trong việc tự cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính độc lập cá nhân và phát triển toàn diện; việc mưu cầu hạnh phúc và đem lại phúc lợi xã hội cho con người trở thành quyền công dân, mỗi người dân và toàn xã hội đều có nghĩa vụ và trách nhiệm chung.

Như vậy để lý giải hiểu tại sao 6 chữ “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” cần có gạch nối 3 từ không thể tách biệt, như là điều kiện và mục đích của nhau vậy. Kể từ năm 1945, đó là nhiệm vụ và quyền lợi của “tất cả đồng bào Việt Nam, không phân biệt gái trai, già trẻ, giàu nghèo, tôn giáo, chủng tộc, cùng nhau đoàn kết để giữ vững nền độc lập và mưu cầu hạnh phúc tự do”.

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc chính những quyền làm người cao cả nhất theo Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước quốc tế về quyền con người, song những quyền đó chỉ được thực thi trong một quốc gia độc lập.

Độc lập, tự do, hạnh phúc là khát vọng cháy bỏng, đồng thời cũng là quyền của mỗi con người, của mỗi dân tộc. Xuyên suốt hàng ngàn năm dựng xây gắn liền với bảo vệ đất nước Việt Nam, Độc lập – Tự do – Hạnh phúc luôn là khát vọng, là nỗ lực phấn đấu, hy sinh của biết bao thế hệ. Với Việt Nam, sau 75 năm qua từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945 đến nay, Độc lập – Tự do – Hạnh phúc luôn xuất hiện cùng quốc hiệu Việt Nam, khẳng định giá trị lớn lao và ý nghĩa trường tồn của 6 chữ quý báu này; và Hạnh phúc hiện đang được coi là một điểm nhấn trong Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng.

5. Quy định về sử dụng Quốc hiệu và Tiêu ngữ:

Quy định về sử dụng Quốc hiệu

Quốc hiệu là: “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM”.

Quốc hiệu được trình bày bằng chữ in hoa, cỡ chữ từ 12 đến 13, kiểu chữ đứng, đậm và ở phía trên cùng, bên phải trang đầu tiên của văn bản.

Quy định về sử dụng Tiêu ngữ

Tiêu ngữ là: “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”.

Tiêu ngữ được trình bày bằng chữ in thường, cỡ chữ từ 13 đến 14, kiểu chữ đứng, đậm và ở liền phía dưới Quốc hiệu; chữ cái đầu của các cụm từ được viết hoa, giữa các cụm từ có gạch nối (-), có cách chữ; phía dưới có đường kẻ ngang, nét liền, có độ dài bằng độ dài của dòng chữ.

Mọi hợp đồng có cần quốc hiệu tiêu ngữ?

Căn cứ tại điều 117 Bộ luật dân sự về điều kiện để hợp đồng có hiệu lực cần :

– Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập.

– Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện.

– Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Như vậy, hình thức của hợp chỉ là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực. Hiện nay, tại các văn bản pháp luật khác không có quy định về việc hợp đồng phải bắt buộc có quốc hiệu, tiêu ngữ. Do đó, việc hợp đồng không có quốc hiệu, tiêu ngữ không phải điều kiện làm hợp đồng vô hiệu.