(Last Updated On: 02/04/2022) Mục đích của nhà tư bản trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không những chỉ dừng lại ở mức có được giá trị thặng dư, mà quan trọng làm sao thu được nhiều giá trị thặng dư do đó cần thước đo để do lường giá trị thăng dư về lượng. Giá trị thặng dư do tư bản khả biến tạo ra do đó C.Mác sử dụng khái niệm tỷ suất giá trị thặng dư để
phản ánh mức độ tăng lên của tư bản khả biến, năng lực tạo giá trị của công nhân. Tỷ suất giá trị thặng dư (m’) là tỷ lệ phần trăm giữa số lượng giá trị thặng dư (m) với tư bản khả biến (v). Được tính bằng công thức: Công thức tính tỷ suất giá trị thặng dư còn có dạng: Trong đó: – t là thời gian lao động tất yếu – t’ là thời gian lao động thặng dư Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ khai thác, bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê. Khối lượng giá trị thặng dưGiữa tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư có mối liên hệ mật thiết. Khối lượng giá trị thặng dư được qui định bởi hai nhân tố đó là tỷ suất giá trị thặng dư và tổng lượng tư bản khả biến. Khối lượng giá trị thặng dư (M) là số lượng giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được trong một thời gian sản xuất nhất định và được tính bằng công thức: Trong đó: V là tổng tư bản khả biến được sử dụng trong thời gian trên. Khối lượng giá trị thặng dư tỷ lệ thuận với cả hai nhân tố m’ và V. Như vậy, nhà đầu tư có thể tăng M bằng hai cách: Một là, tăng khối lượng tư bản khả biến, sử dụng nhiều lao động hơn; Hai là, nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư. Khối lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô giá trị thặng dư mà chủ sở hữu tư liệu sản xuất thu được; hay nó còn phản ảnh quy mô của sự bóc lột của tư bản đối với lao động làm thuê. Sau khi vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, C.Mác nghiên cứu trình độ và quy mô của sự bóc lột, tức là nghiên cứu tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư.Sau khi vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, C.Mác nghiên cứu trình độ và quy mô của sự bóc lột, tức là nghiên cứu tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. a) Tỷ suất giá trị thặng dư Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến tương ứng để sản xuất ra giá trị thặng dư đó. Nếu ký hiệu m' là tỷ suất giá trị thặng dư, thì m’ được xác định bằng công thức: Tỷ suất giá trị thặng dư chỉ rõ trong tổng số giá trị mới do sức lao động tạo ra, thì công nhân được hưởng bao nhiêu, nhà tư bản chiếm đoạt bao nhiêu. Tỷ suất giá trị thặng dư còn chỉ rõ trong một ngày lao động, phần thời gian lao động thặng dư mà người công nhân làm cho nhà tư bản chiếm bao nhiêu phần trăm so với thời gian lao động tất yếu làm cho mình. Do đó, có thể biểu thị tỷ suất giá trị thặng dư theo một công thức khác: Tỷ suất giá trị thặng dư nói lên trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê, nó chưa nói rõ quy mô bóc lột. Để phản ánh quy mô bóc lột, C.Mác sử dụng phạm trù khối lượng giá trị thặng dư. b) Khối lượng giá trị thặng dư Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến đã được sử dụng. Nếu ký hiệu M là khối lượng giá trị thặng dư thì M được xác định bằng công thức: Trong đó: v: tư bản khả biến đại biểu cho giá trị 1 sức lao động V: Tổng tư bản khả biến đại biểu cho giá trị của tổng số sức lao động Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì khối lượng giá trị thặng dư càng tăng, vì trình độ bóc lột sức lao động càng tăng. Loigiaihay.com
>> Xem thêm Báo lỗi - Góp ý |