Lí luận văn học về cái tôi cá nhân

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC VINHNGUYỄN THỊ HUỆCÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONGTHƠ Ý NHILUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂNNGHỆ AN – 20121BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC VINHNGUYỄN THỊ HUỆCÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONGTHƠ Ý NHICHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAMMÃ SỐ: 60.22.34LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂNNgười hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN VĂN HẠNHNGHỆ AN - 20122MỤC LỤC TrangMỞ ĐẦU 11. Lý do chọn đề tài 12. Lịch sử vấn đề 23. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 104. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 105. Phương pháp nghiên cứu 116. Cấu trúc của luận văn 11Chương 1. CƠ SỞ CHO SỰ HÌNH THÀNH CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ Ý NHI121.1. Giới thuyết khái niệm cái tôi trữ tình 121.2. Cơ sở cho sự hình thành cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi 141.2.1. Hoàn cảnh xã hội 14 1.2.1.1. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 15 1.2.1.2. Những năm tháng đổi mới sau chiến tranh 181.2.2. Cuộc sống và phẩm chất cá nhân 221.2.2.1. Đời sống cá nhân 221.2.2.2. Phẩm chất cá nhân 241.3. Quan điểm thơ 26Chương 2. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ Ý NHI332.1. Cái tôi trữ tình công dân 342.1.1. Những trăn trở suy tư gắn với vận mệnh nhân dân, đất nước 342.1.2. Hạnh phúc, hân hoan trước những niềm vui của đất nước 382.1.3. Tình cảm da diết với những miền đất đã đi qua 402.1.4. Tiếng nói đấu tranh vì công bằng, lẽ phải 422.2. Cái tôi trữ tình đời tư thế sự, đời tư 462.2.1. Cái tôi cô đơn 472.2.2. Cái tôi chiêm nghiệm, suy tư về cuộc sống 562.2.3. Những chiêm nghiệm vế tình yêu, hạnh phúc 67Chương 3. PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ Ý NHI753.1. Thể thơ 753.1.1. Thơ tự do 763.1.2. Thơ năm chữ 803.2. Giọng điệu thơ 853.2.1. Giọng trăn trở, suy tư trầm lắng 853.2.2. Giọng điệu trữ tình triết lí 893.3. Nghệ thuật tổ chức lời thơ 923.3.1. Sử dụng ngôn ngữ gần gũi với đời sống 933.3.2. Linh hoạt, biến hóa trong kiến trúc câu thơ 9733.3.3. Một số biện pháp tu từ nổi bật 101 3.3.3.1. So sánh 101 3.3.3.2. Ẩn dụ 1033.3.3.3. Tương phản, đối lập 106KẾT LUẬN 109TÀI LIỆU THAM KHẢO 111MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tài 1.1. Thơ trữ tình là sự biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của nhà thơ. Những cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩ của nhà thơ trong thế giới nghệ thuật chính là những biểu hiện của cái tôi và các nguyên tắc thể hiện của nó. Cái tôi trữ tình là hình tượng trung tâm trong thơ trữ tình. Nhìn từ góc độ phản ánh luận thì cái tôi lại chính là đối tượng phản ánh của nhà thơ, là kết quả của sự miêu tả, tự đánh giá, tự ý thức của chính nhà thơ. Đi vào nghệ thuật, cái tôi trữ tình 4cũng đóng vai trò sáng tạo, tổ chức các phương tiện nghệ thuật và là tiền đề tạo ra sự độc đáo, riêng biệt cho thơ mỗi nhà thơ nói riêng cũng như thơ trữ tình nói chung. Vì vậy việc tìm hiểu cái tôi trữ tình trong thơ là một cách đánh giá sáng tạo thơ ca từ góc độ thi pháp. 1.2. Ý Nhi là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Bà viết từ khá sớm, viết nhiều. Bên cạnh những nhà thơ cùng thời như Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn,… Ý Nhi được xem là gương mặt tiêu biểu với một giọng điệu mới lạ. Ngay từ những sáng tác đầu tiên, Ý Nhi đã cho thấy một bản lĩnh thơ luôn hướng tới những chân trời mới của thi ca đương đại. Ý Nhi từng được nhận Giải khuyến khích cuộc thi thơ của tuần báo Văn nghệ 1969. Đặc biệt với sự xuất hiện của tập thơ Người đàn bà ngồi đan (năm 1985), Ý Nhi được trao Giải thưởng loại A của Hội Nhà văn Việt Nam. Tập thơ ghi nhận những cố gắng đổi mới thơ Việt Nam hiện đại của Ý Nhi. Một số nhà thơ, nhà phê bình coi sự xuất hiện của tập thơ như là một nét chấm phá của thơ hiện đại. Bởi lần đầu tiên trong hợp xướng ngợi ca của thơ có “một giọng nói trầm lặng và hướng đến một đối tượng trữ tình không phải là đối tượng của dàn hợp xướng ấy” (Hoàng Đạt). Sau đó hàng loạt các tác phẩm mới ra đời Ngày thường (1987), Mưa tuyết (1991), Gương mặt (1991), Vườn (1998), Thơ tuyển (2000), Những gương mặt – Những câu thơ (2008),… đã tạo được sự thu hút rất nhiều từ các học giả đến các nhà lí luận, phê bình, nhà văn, nhà thơ trong đời sống nghệ thuật đương đại. Và đặc biệt với sự xuất hiện của tập thơ mới nhất gần đây Ý Nhi tuyển tập (2010), Ý Nhi đã ghi lại những nỗ lực cách tân trên các phương diện sác tác của mình hết sức mạnh mẽ. Vì thế, một lần nữa Ý Nhi đã khẳng định được vị trí của mình trên thi đàn thơ ca đương đại. 1.3. Trải qua nhiều chặng đường sáng tác, cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi biểu hiện hết sức phong phú, đa dạng. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu cái tôi trữ tình Ý Nhi.5Từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi với hy vọng góp phần nhận diện thơ Ý Nhi một cách hệ thống, sâu sắc và bao quát hơn.2. Lịch sử vấn đề Ý Nhi là một trong những nhà thơ nữ có vị trí đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ngay từ khi mới xuất hiện, thơ Ý Nhi đã thu hút sự chú ý, quan tâm của giới nghiên cứu phê bình và đông đảo những người yêu thơ. Nhiều công trình, bài viết dưới dạng này đã đề cập đến nhiều vấn đề trong thơ Ý Nhi. Trong công trình nghiên cứu Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại, khi nói về thơ ca chống Mỹ, Hà Minh Đức, đã đánh giá cao tài năng, cá tính sáng tạo của đội ngũ những nhà thơ trẻ, trong đó có Ý Nhi. Ông viết, “Rồi đây khi cuộc chiến tranh kết thúc họ sẽ là lực lượng chủ đạo trên thi đàn trong những thập kỷ cuối của thế kỷ 20. Những nhà thơ chiến sĩ như Nguyễn Duy, Thu Bồn, Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật… những tác giả nữ như Ý Nhi, Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ cũng đã có những đóng góp quan trong trong thơ thời kỳ đổi mới” [15, 119]. Dù không viện dẫn, lí giải dài dòng nhưng những gì Hà Minh Đức đánh giá đã phần nào cho người đọc thấy được vị trí, vai trò của Ý Nhi trong hành trình thơ ca Việt Nam hiện đại. Năm 1969, Ý Nhi được giải thưởng khuyến khích cuộc thi thơ của tuần báo Văn Nghệ, đánh dấu con đường thơ của chị. Mười lăm năm sau, năm 1985, tập thơ Người đàn bà ngồi đan của Ý Nhi ra đời, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong đời thơ của chị. Tập thơ được trao Giải thưởng loại A của Hội Nhà văn Việt Nam, ghi nhận những cố gắng đổi mới thơ Việt của chị. Bởi từ đây, trong thơ ca lần đầu tiên “xuất hiện một giọng nói hết sức trầm tĩnh”, một phong cách mới lạ và đầy sáng tạo trong thơ ca. Nhiều các công trình, bài viết nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học chuyên và không chuyên về thơ Ý Nhi đã lần lượt xuất hiện. Trong đó, tiêu biểu là Chu Văn Sơn, Nguyễn Thị Minh Thái, Thúy Nga, Nguyễn Nhã Tiên, Lưu Khánh Thơ, Hà Ánh Minh, Nguyễn Hoàng Sơn, Anh Ngọc… Phần lớn qua các bài viết đều đánh giá cao thơ Ý 6Nhi đồng thời qua đó cũng khẳng định được sự đóng góp của Ý Nhi với sự phát triển của nền thơ ca Việt Nam. Chu Văn Sơn trong bài viết Thơ của tâm hồn xao xác giữa ngày yên, đăng trên báo Văn nghệ số 36 ngày 5 tháng 9 năm 1987, đã cho rằng, “Xét về toàn vẹn của việc khắc họa hình tượng nhân vật, thỉ phải nói là các nhân vật của Ý Nhi chưa thật sự nổi lắm. Nhưng họ đều hiện lên như một chân dung đa diện, đa lẳng lặng sống, lẳng lặng làm việc với một nỗi lòng phức hợp” [61]. Ông đã chỉ ra cái tôi trong thơ Ý Nhi hết sức thầm lặng và đa diện phức hợp và gọi tên tâm trạng đặc thù của cái tôi Ý Nhi là “nỗi niềm không xác thực, một phức hợp những sắc thái đối cực của một trạng thái nội tâm” [61]. Theo Chu Văn Sơn, “cái phức hợp ta bắt gặp ở cái tôi Ý Nhi không phải là một cái gì ngẫu nhiên, tự phát mà nó là kết tinh của quá trình nhận thức về cuộc sống lẫn quan niệm nghệ thuật về con người” [61]. Từ đó, ông chỉ ra một trong những thao tác nghệ thuật thành công trong thơ Ý Nhi là “phân tích nội tâm với mọi đối cực” [61] nghịch lý trong cuộc sống thể hiện trong thơ. Chính vì lẽ đó “đọc thơ Ý Nhi, càng trở lại đây người đọc càng mừng vì thấy chị càng tự tin hơn trên con đường riêng của mình. Bằng một nội tâm mạnh mẽ, chị đã đồng hóa được thế giới bên ngoài để làm thành một cái tôi dồi dào phong phú, một cái tôi lúc nào cũng xáo động như “cây trước thềm xao xác giữa ngày yên” để làm một trữ lượng thi liệu sáng tác lâu dài của chị” [61]. Trong bài viết của mình, Chu Văn Sơn còn chỉ ra một trong những yếu tố dẫn đến sự thành công trong thơ Ý Nhi đó là “tăng cường chất nghĩ” [60] cho thơ. Đặc biệt “những tư tưởng, ngẫm nghĩ, suy tư đã được tâm trạng hóa… để trở thành cái tôi, sống trong cái tôi. Chất nghĩ trong thơ sống nhờ vào chất hữu cơ của tâm trạng” [61]. Mặt khác, để thể hiện cái tôi hơn nữa, cảnh vật thường được “biểu tượng hóa để trở thành một biểu tượng nào đó của cảnh quan nội tâm nhà thơ” [61] Năm 1992, trong bài Sự giải tỏa bằng thơ, Chu Văn Sơn đã cho rằng, tập thơ Ngày thường của Ý Nhi thêm một lần làm sáng danh cho định nghĩa “Thơ trước hết đó là sự giải tỏa tâm trạng” [63] và “chất thơ của tâm trạng các cá nhân có lẻ là đối tượng chị đang hướng tới” hay nói theo Ý Nhi “chị đang gắng hình dung ra 7khuôn mặt tinh thần” của các cá nhân trong cộng đồng chúng ta. Và những chân dung trong tác phẩm mà nhà thơ hình dung ra đó tất cả đều là bức “tự họa” của cái tôi tác giả vẽ ra. Nhà phê bình còn chỉ thao tác chủ công của Ngày thường là “phân tích nội tâm với mọi đối cực, đối lập quyết liệt của nó rồi trình bày chúng như những nghịch lý bằng những câu, chữ, ý, hình đã được tôi kỹ trong suy tư, đến nỗi chúng ta đanh chắc, rắn sắc như văn xuôi, như chính luận” [63] với “giọng triết luận tâm tình khá riết róng” [63]. Nếu ở tập trước, Ý Nhi đã phổ tâm trạng của mình vào cảnh vật thì ở giờ đây với tập Ngày thường, tác giả đã chọn một lối thơ khác là “phổ cái tôi của mình vào nhân vật, ngay cả những nhân vật vốn có, những số phận xác định” [63]. Và “tạo hình không còn là nhiệm vụ của toàn bài. Nhiệm vụ đó “khoán” cho ít câu, ít đoạn với kỹ thuật ký họa nhanh, gắng chớp lấy những khoảnh khắc xuất thần trong hình thể nhân vật” [63]. Ý Nhi từng phổ tâm trạng của mình vào cảnh vật thì ở giờ đây với tập Ngày thường, tác giả đã chọn một lối thơ khác là “phổ cái tôi của mình vào nhân vật, ngay cả những nhân vật vốn có, những số phận xác định. Tiếp đó, trong bài Đến với từng bông tuyết được đăng trên tạp chí Tác phẩm mới, Chu Văn Sơn nhận định trong các tập thơ Mưa tuyết và Gương mặt, thơ Ý Nhi là hành trình đang tìm đến với “những bông tuyết nhẹ nhàng, tinh trong, buốt giá” và đến với “sự trầm tĩnh, chất thơ của sự trầm tĩnh” và thấy “thoang thoáng một khí vị thiền" [62]. Trong bài viết Thơ Ý Nhi - lời nguyện cho nỗi yên hàn (năm 2005) Chu Văn Sơn đã thể hiện những cảm nhận hết sức tinh tế và sâu sắc về thơ Ý Nhi cả về phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Theo ông, sự dày vò đeo đẳng Ý Nhi suốt mấy chục năm qua trên mọi chặng đường thơ là một “nỗi khát yên bình”. Từ đó, ông cho rằng, “Cái Tôi Ý Nhi có một diện mạo riêng là kẻ khát Yên bình. Sống, đối với cái tôi ấy là lên đường tìm kiếm sự yên bình” [64]. Và “Hành trình của Cái Tôi là gắng bỏ miền khắc nghiệt để đến với chốn yên bình” [64]. Vì vậy, nhà thơ luôn “yêu những phút giây yên ắng, trong lành dị ứng với những ồn ào, giả trá. Gắng chịu đựng và vượt qua những nắng nôi, bỏng sôi, giông gió để đến với những cảnh giới u tĩnh, thanh nhàn” [64]. Theo 8hướng cảm nhận đó, tác giả đã phát hiện thế giới trong thơ Ý Nhi phân ra thành hai cực rõ rệt “miền yên bình” và “miền khắc nghiệt”. Nghiên cứu về hình thức nghệ thuật thơ Ý Nhi, Chu Văn Sơn thường chú ý đến giọng thơ, lời thơ và hình tượng thơ. Thơ Ý Nhi “Từ bỏ sự giãi bày nặng chất duy cảm buổi đầu, chị bước nhanh tới những lời thơ tiết chế nặng chất suy tư. Thế là, chất nhạc tràn ra khiến cho thơ muốn cất thành lời hát giờ đã dần dần chìm vào để biến thành lời nguyện” [64]. Chẳng hạn, trong tập thơ Nỗi nhớ con đường và Đến với dòng sông tác giả cho rằng “dòng tâm tình nghiêng về cảm xúc trực quan, giàu tính mô tả vốn là chủ lưu… cứ chuyển dần thành dòng tâm tư, mà trong đó lời phân tích của một lý tính sắc sảo cứ chiếm dần ưu thế” [64] và đặc biệt, trong tập thơ Người đàn bà ngồi đan tác giả còn cho rằng “nét trực quan cảm tính và lời phân tích lý tính đã đạt tới sự hài hòa” [64]. Chính vì thế, cả lời thơ, thế giới hình tượng trong tập thơ hòa điệu trong một “chất giọng đặc thù của Ý Nhi: điềm tĩnh mà chua xót… Nhẹ nhàng, tinh trong mà buốt giá…” [64]. Ngoài ra, Chu Văn Sơn còn chỉ ra thao tác nghệ thuật chi phối thơ Ý Nhi đó là “tượng trưng hóa” để trở thành biểu tượng trong thơ Ý Nhi và chính “khuynh hướng tượng trưng đã khiến thơ chị có độ nén hơn, nhiều dư vang hơn” [64]. Khi thơ đào sâu đến tận cùng diện mạo của cái tôi, của cái riêng, cái cá nhân, bao giờ người ta cũng bắt gặp chủ đề tình yêu. Tình yêu cũng là một chủ đề quan trọng trong thơ Ý Nhi. Nguyễn Thị Minh Thái trong bài Thơ tình Thành phố Hồ Chí Minh, đã nhận định “Ý Nhi có một lối thơ tình kín đáo, dịu dàng và đắm đuối như hoa quỳnh hiếm hoi, nở muộn, chỉ nở một lần, thơm một lần vào thời khắc ngắn ngủi vào giữa đêm” [71]. Và khi nhận xét về nghệ thuật thơ Ý Nhi, tác giả nhận xét, “Nếu có một thi pháp trong thơ Ý Nhi thì có thể gọi là gián cách” [71]. Nhà thơ Hoàng Hưng trong bài viết Thơ Ý Nhi cũng đồng quan điểm trên khi bàn về thi pháp thơ Ý Nhi. Ông viết, “thơ Ý Nhi là một trữ tình gián cách, những ký ức đã tinh lọc, không ít bài thơ của chị vững trãi trên một cấu tứ khúc chiết, để bật ra bất ngờ ở cuối kết một chiêm nghiệm” [24]. Trong bài viết Thơ tình của một đời người (năm 1999), 9Thúy Nga đã phát hiện tình yêu và nỗi buồn trong tập thơ Vườn mang một tình yêu của buổi xế chiều nhưng “tình yêu đó lại đậm đặc, đậm đặc hơn tình yêu của những ngày trẻ” [38] và “một nỗi buồn không gào thét, không đau đớn vật vả, không gọi tên được, cứ âm ỉ ở trong lòng, cứ trong ngần những giọt nước mắt lặng lẽ” và ngay khi nói về niềm vui, Ý Nhi cũng nói bằng những “lời buồn”. Đối với chị, dường như không có niềm vui nào trọn vẹn, không có nỗi buồn nào trọn vẹn. Niềm vui đến thì nỗi buồn đang chờ đợi. Tập thơ Vườn là một trong những tập thơ của Ý Nhi được các nhà nghiên cứu quan tâm, bên cạnh bài viết của Thúy Nga còn có những bài viết của các tác giả khác như Lưu Khánh Thơ, Việt Hà, N.T.K.C,… tất cả đều đánh giá cao tập thơ này. Lưu Khánh Thơ trong bài viết Nỗi khắc khoải từ miền ký ức, đăng trên báo văn nghệ ngày 19/8/2000, tác giả cho rằng, “Vườn” bộc lộ nhiều khoảnh khắc của tâm trạng – tâm trạng được dồn nén bởi suy tư và cảm xúc” [74]. Và theo chị, thành công của thơ Ý Nhi là “gia tăng chất nghĩ cho thơ”, nhịp thơ chính là “nhịp điệu của tâm trạng” được biểu hiện qua thứ ngôn ngữ “chắt lọc, giàu suy tưởng và hết sức kiệm lời” [74]. Trong bài viết Vườn của Ý Nhi – xúc cảm về cuộc sống và tình yêu”, Việt Hà cảm nhận biểu hiện về tình yêu Vườn là sự “dịu dàng, đằm thắm và đầy nữ tính” [74]. Đó không phải là một thứ tình cảm “ngòn ngọt” hay nồng nàn của cảm xúc, mà là một tình yêu đằm thắm mang vẻ đẹp trí tuệ, cảm xúc vọng tới từ sâu thẳm của nội tâm. Hà Ánh Minh trong bài viết Mạch đập thơ Ý Nhi dòng ưu tư chảy xiết (năm 2001) được đăng trên tạp chí Nha Trang (số 72 tháng 9), đã cho rằng, “Thơ Ý Nhi có dung lượng lớn, là những nỗi niềm tâm sự, là tấm phiên bản trung thành của nhà thơ” và nó như “một dòng chảy nham thạch cuộc tròn đỏ dưới ánh nắng chiều. Ý Nhi không những viết bằng ngôn ngữ của cảm xúc mà chủ yếu bắng ngôn ngữ của trí tuệ” sức bút có được là nhờ vào “sự suy cảm nội tâm mạnh mẽ” [36]. Năm 2002, trong bài viết Mạch thơ Ý Nhi: Lửa từ trái tim trần run rẩy…, đăng trên báo Văn hóa (số 126/21 – 10), Hà Ánh Minh lý giải sự thành công của thơ Ý Nhi là ở “lối tư duy khúc chiết, mạch lạc, biết mình nói gì và biết cách làm cho sự việc từ chỗ mơ hồ, rối rắm trên 10nên giản dị, dễ hiểu” [37]. Cũng trong năm 2002, Ngô Thị Kim Cúc với bài viết Nhà thơ Ý Nhi: Sự run rẩy của số phận, đăng trên báo Thanh Niên (23/2) đã nhận xét, “Thơ chị rất ít chữ, càng ít những từ bóng bẩy, nhưng câu thơ như được nén lại” [6] và trong thơ chị “vừa nữ tính đồng thời lại có chất trí tuệ” [6]. Nguyễn Hoàng Sơn trong bài viết Ý Nhi qua tuyển tập (năm 2002), đăng trên báo Tiền phong (28/7), đã nhận định, “Thơ chị rất ngắn gọn, không vần, lập tứ rất vững” [59]. Năm 2008, Vũ Nho trong bài viết Một nhà thơ cá tính và bản lĩnh, đăng trên Tạp chí Tác phẩm mới, đã cho rằng, trong thơ Ý Nhi các sắc thái tình cảm bao giờ cũng trong trạng thái mâu thuẩn và nó cùng “đồng hiện trong khoảnh khắc tạo sự nhòe mờ của một nỗi lòng không xác thực” [53]. Mâu thuẩn trong thơ cũng chính là những mâu thuẩn trong tâm trạng Ý Nhi. Ông còn khẳng định, “Thơ tình của Ý Nhi đằm thắm một vẻ đẹp trí tuệ … Thơ Ý Nhi có xu hướng nghiêng về triết luận” [53]. Cùng có cùng cách nhìn ấy, Lê Hồ Quang trong bài viết Thơ Ý Nhi – Hành trình trong lặng lẽ, đăng trên Tạp chí Thơ, Hội Nhà văn Việt Nam (số 3 năm 2010), cũng đã cho rằng, thơ Ý Nhi “như một hành trình truy vấn tinh thần mà trong đó, cái tôi nhà thơ, lặng lẽ nhưng quyết liệt và bền bỉ, không ngừng tự ý thức nhằm tìm kiếm cái “bản lai diện mục” của tâm hồn” [57]. Và với ý thức cá nhân tỉnh táo của một tâm hồn phụ nữ nhạy cảm và giàu lòng trắc ẩn Ý Nhi “đã tạo nên chất “duy lí” độc đáo của thơ Ý Nhi giữa một nền thơ Việt hiện đại vốn nặng chất “duy tình”, “duy cảm” [57]. Chất triết lí ấy cũng đã tạo nên nét riêng cho thơ Ý Nhi “không lạm dụng các mĩ từ kêu vang, nó toát ra từ một cái nhìn nội tâm trầm tĩnh, sâu sắc nhưng đầy khắc khoải của một con người đang trên hành trình tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời” [57]. Khi nói về tình yêu trong thơ Ý Nhi, tác giả nhận xét, “Tình yêu trong thơ Ý Nhi đầy những phức hợp cảm giác, vừa ngóng trong vừa khắc khoải, vừa lo âu vừa hân hoan, vừa sướng vui vừa ngậm ngùi, vừa hạnh phúc vừa buồn khổ… Ngay cả khi viết về sự hòa hợp và gặp gỡ trong tình yêu, những cảm giác đầy mâu thuẩn ấy vẫn không rời bỏ chị” [57]. Lý giải điều này, theo Lê Hồ Quang, “Với Ý Nhi, những cảm xúc nồng nhiệt dường như luôn đi cùng với ý thức tiết chế, ngọn 11lửa đam mê luôn song hành cùng niềm kiêu hãnh, sự truy vấn tỉnh táo, rạch ròi được nhìn nhận trong sự thấu đáo và cận nhân tình” [57]. Vì thế cho nên “Hình tượng “cái tôi” trong thơ Ý Nhi vừa là phương tiện đồng thời cũng chính là nội dung giao tiếp với cuộc đời của nhà thơ, nó trở thành điểm nhấn hết sức nổi bật trong diện mạo nghệ thuật của tác giả” [57]. Ngoài những bài viết trên đây, trên các báo, tạp chí còn có nhiều bài viết về thơ Ý Nhi của các tác giả như Mã Giang Lân, Huỳnh Như Phương, Khánh Phương, Nguyễn Bảo Chân, Nhật Chung,Thanh Thảo…Trong những năm gần đây ở các trường Đại học thơ Ý Nhi đã được nhiều sinh viên chọn làm luận văn Thạc sĩ. Năm 2008, Đỗ Thị Hoa trong luận văn tốt nghiệp với đề tài Thế giới nghệ thuật thơ Ý Nhi (Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội) đã có một cái nhìn bao quát về thơ Ý Nhi, “Thế giới hình tượng trong thơ chị đặc sắc và đa dạng. Một trong những hình tượng nổi bật trong thơ Ý Nhi là hình tượng cái tôi. Qua hình tượng này người đọc thấy nhà thơ luôn có những băn khoăn về những vấn đề đạo đức trong đời sống xã hội. Đó những trăn trở về chính mình, về nhân cách của người nghệ sĩ, về cầu thủ bóng đá… Chuẩn mực đạo đức trong thơ Ý Nhi là sự chân thực, trong sáng… Đấy chính là những khát vọng nhân văn rất đẹp trong thơ Ý Nhi” [21]. Trong luận văn Đặc sắc nghệ thuật thơ Ý Nhi Nguyễn Thị Ánh Tuyết (Khoa Ngữ văn, ĐH Vinh, 2008). Trong kết luận của mình, tác giả nhận xét, “Cảm hứng chủ đạo trong thơ Ý Nhi là cảm hứng phân tích – triết lí – chiêm nghiệm. Bằng trái tim nhân hậu nồng ấm, luôn khao khát thấu hiểu, Ý Nhi luôn cố gắng nhìn nhận và lí giải cuộc sống trong chiều sâu bản chất của nó. Cảm hứng sáng tạo có tính phổ quát này chi phối trên nhiều phương diện nghệ thuật thơ Ý Nhi, tạo nên nét độc đáo không thể trộn lẫn trong thơ chị… Với một lối tư duy hiện đại, mới mẻ, từ quan niệm thẩm mĩ đến thực tế sáng tác, Ý Nhi đã góp phần làm phong phú thêm nên thơ ca Việt Nam hôm nay” [75].Điểm lại lịch sử nghiên cứu thơ Ý Nhi nói chung, cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi nói riêng có thể thấy, nhìn chung các ý kiến đều khẳng định vị trí, 12vai trò và những đóng góp lớn lao của thơ Ý Nhi trong thơ ca chống Mỹ nói riêng và thơ ca hiện đại Việt Nam nói chung. Trong đó, nhiều ý kiến đã trực tiếp, hoặc gián tiếp bàn về cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi. Tuy nhiên, qua các bài nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng hầu như các nhà phê bình chỉ mới đánh giá, nghiên cứu về thơ Ý Nhi ở một số phương diện nhất định nào đó chứ chưa có cái nhìn tổng quát, toàn diện, hệ thống về thơ Ý Nhi, đặc biệt là cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi. Kế thừa những ý kiến mang tính gợi mở của những người đi trước, chúng tôi đi vào nghiên cứu một cách sâu, rộng và bao quát hơn về Cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi. Từ đó, chỉ ra được những nét riêng, độc đáo của Ý Nhi trong thơ Việt Nam hiện đại.3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu3.1. Mục đích nghiên cứuNhư tên đề tài đã xác định, mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứuVới mục đích đã xác định trên, luận văn có nhiệm vụ: Thứ nhất, chỉ ra cơ sở hình thành cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi. Thứ hai, chỉ ra được những nội dung biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi.Thứ ba, chỉ ra được nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi4.2. Về phạm vi khảo sát, chung tôi tập trung khảo sát các tập thơ sau đây:- Nỗi nhớ con đường (1974)- Đến với dòng sông (1978)- Cây trong phố - chờ trăng (1981)- Người đàn bà ngồi đan (1985)- Ngày thường (1987)- Mưa tuyết (1991)13- Gương mặt (1991)- Vườn (1998)- Thơ Ý Nhi (2000)- Ý Nhi tuyển tập(2010)5. Phương pháp nghiên cứuĐể giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, chúng tôi lựa chọn một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu, như: khảo sát, thống kê, phân loại; phân tích, tổng hợp; so sánh, đối chiếu.6. Cấu trúc của luận vănNgoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được triển khai trong ba chương:Chương 1: Cơ sở hình thành cái tôi trữ tình trong thơ Ý NhiChương 2: Những biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ Ý NhiChương 3: Nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ Ý NhiChương 1CƠ SỞ CHO SỰ HÌNH THÀNH CÁI TÔI TRỮ TÌNHTRONG THƠ Ý NHI1.1. Giới thuyết khái niệm cái tôi trữ tìnhThơ trữ tình là sự bộc lộ trự tiếp thế giới chủ quan của con người, cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩ trước một hiện tượng đời sống. Vì vậy, nó luôn mang lại quan niệm về một cá nhân con người cụ thể, sống động, một cái “tôi” có nỗi niềm riêng. Nhà thơ thổi hồn cho những câu thơ qua “cái tôi”, tâm trạng của chủ thể bộc lộ trong hoàn cảnh cụ thể nào đó, toát lên nhân cách của chủ thể trữ tình, tạo ấn tượng sâu đậm. 14Cái tôi là đơn vị tồn tại của chủ quan, là hình thức tự ý thức chủ quan của con người. Khi đi vào nghệ thuật, cái tôi được nâng cao hơn, được trình bày với những màu sắc phong phú hơn và nó mang tính đặc thù của thể loại trữ tình. Chính vì vậy, cái tôi ngày càng được chú ý trong nhiểu lĩnh vực khoa học triết học, tâm lí học…, đặc biệt trong lĩnh vực văn học, cái tôi được coi là “nguồn gốc của mọi hoạt động thơ ca, như lõi cốt của loại thể trữ tình”. Cái tôi thể hiện cá tính, cá biệt làm nên nét độc đáo riêng biệt của các tác giả trữ tình. Theo cách nói của Hêghen, thơ ca bắt đầu từ cái ngày con người cảm thấy cần sự bộc lộ mình. Điều này cho thấy một nhu cầu tự thể hiện mình của tác giả trong sáng tác thơ ca. Đó là nhu cầu thể hiện cái tôi. Viên Mai trong Tùy viên thi thoại đã đề cao vai trò của cái tôi trong thơ, coi sự thể hiện của cá nhân là gốc của thơ trữ tình: “Gốc của thơ là chỗ miêu tả cảnh ngộ của tính tình và linh cảm cá nhân”. Bởi thế, làm thơ không thể không có cái tôi (Tác thi bất khả dĩ vô ngã). Thơ trữ tình là thể loại mang tính chủ quan nhất trong các thể loại văn học, mà trong đó cái tôi trữ tình bao giờ cũng là yếu tố trung tâm, bởi nó như một nhân tố khởi sự và hoàn tất của sáng tạo trữ tình. Cái tôi trữ tình là “yếu tố thứ nhất”, cấp cho thơ trữ tình một sự thống nhất về nội dung và nghệ thuật. Vậy cái tôi trữ tình là gì?Từ đầu những năm 30 của thế kỉ XX, cái tôi đã được Hoài Thanh trực diện đề cập đến trong bài Một thời đại trong thi ca (Thi nhân Việt Nam) có ý nghĩa tổng kết phong trào Thơ mới. Theo Hoài Thanh, chữ “tôi” xuất hiện trên thi đàn Việt Nam đã đem lại một quan niệm hoàn toàn mới về con người cá nhân, “Ngày thứ nhất ai biết đích xác ngày nào – chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ. Nó như lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân” [73, 54]. Và theo ông, cái tôi là linh hồn của Thơ Mới, “Thời đại Thơ mới là thời đại của chữ tôi” [73]. Khái niệm cái tôi cũng được Hoài Thanh vận dụng uyển chuyển để nhận dạng phong cách, hồn thơ của mỗi nhà thơ. Cho đến những năm 70 của thế kỷ XX, vấn đề về cái tôi thật sự được đặt ra như một đối tượng nghiên cứu ở một số chuyên khảo về thơ. Trong công trình Thơ và mấy 15vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Hà Minh Đức kế thừa tư tưởng của Hêghen, Belinski, Tsecnưsepski, đã bàn sâu về cái tôi trữ tình. Theo ông, trong thơ, vấn đề chủ thể, cái tôi trữ tình trong thơ có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ông quan niệm cái tôi trữ tình như là nội dung, đối tượng chính của thơ ca, là khái niệm mang tính bản chất của trữ tình với các biểu hiện qua các nhận vật trữ tình cụ thể. Đồng thời trong công trình nghiên cứu này, tác giả còn chỉ ra mối quan hệ giữa cái tôi trữ tình và bản thân nhà thơ là thống nhất nhưng không đồng nhất “cái tôi trữ tình chính là cái tôi tác giả được nghệ thuật hóa, lí tưởng hóa, điển hình hóa”. Trần Đình Sử trong công trình Thi pháp thơ Tố Hữu, đã tiếp cận cái tôi trữ tình như một hình tượng nghệ thuật. Đó cũng là một hình thức trực diện bàn về cái tôi trữ tình trong thơ. Theo Trần Nho Thìn, “cái tôi” là hình tượng tác giả trong tác phẩm, là sự giãi bày thế giới tư tưởng, tình cảm riêng tư thầm kín của tác giả. Nhìn tư góc độ phản ánh luận, thì cái tôi là đối tượng phản ánh, suy ngẫm của bản thân nhà thơ, là kết quả của sự tự ý thức, tự đánh giá, tự miêu tả. Đi vào nghệ thuật, cái tôi được nâng cao hơn, được trình bày với những màu sắc phong phú. Trong bài viết Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945 – 1995 (nhìn từ phương diện sự vận động của cái tôi trữ tình), Vũ Tuấn Anh đưa ra quan niệm về cái tôi trữ tình “đó là sự thể hiện một cách nhận thức và cảm xúc đối với thế giới và con người thông qua lăng kính cá nhân của chủ thể và thông qua việc tổ chức các phương tiện của thơ trữ tình, tạo ra một thế giới tinh thần riêng biệt, độc đáo, mang tính thẩm mỹ, nhằm truyền đạt năng lượng tinh thần ấy đến người đọc” [2, 32]. Trong một cách nói ngắn gọn, khái quát, Lê Lưu Oanh trong bài viết Cái tôi trữ tình trong thơ (qua một số hiện tượng thơ trữ tình Việt Nam 1975 – 1990) đã cho rằng, theo nghĩa hẹp, cái tôi trữ tình là hình tượng cái tôi, cá nhân – cụ thể, cái tôi – tác giả – tiểu sử với những nét rất riêng tư; là loại nhân vật đặc biệt khi tác giả miêu tả, kể chuyện, biểu hiện về chính mình. Theo nghĩa rộng, cái tôi trữ tình là nội dung, đối tượng, phẩm chất của trữ tình.Từ các ý kiến trên đây về cái tôi trữ tình, có thể thấy, các ý gần như thống nhất với nhau về cách hiểu, coi cái tôi trữ tình bao giờ cũng là yếu tố 16trung tâm, cốt lõi của vận động thơ trữ tình, “đó chính là sự tự ý thức của cái tôi được biểu hiện trong nghệ thuật và bằng nghệ thuật, cái tôi của hành vi sáng tạo, là quan niệm về cái tôi được thể hiện thông qua phương tiện trữ tình”. Đó là “cái tôi nhà thơ được nghệ thuật hóa” (Hà Minh Đức). Vì vậy, trong thơ, cái tôi trữ tình là yếu tố trung tâm, một trong những điểm nhìn có ý nghĩa quan trong để khám phá thế giới trữ tình trong thơ. 1.2. Cơ sở cho sự hình thành cái tôi trữ tình trong thơ Ý Nhi1.2.1. Hoàn cảnh xã hộiTrong văn học, con người được nhận thức như là một chỉnh thể sinh động, toàn vẹn trong các quan hệ đời sống. Do đó con người trở thành trung tâm của các quan hệ hiện thực được phản ánh trong văn học, chịu sự chi phối của mạnh mẽ của đời sống hiện thực. Như Bác Hồ đã nói “thời đại nào văn nghệ ấy”. Thời đại góp phần hình thành quan điểm sáng tác cũng như hình thành cái tôi trữ tình của mỗi nhà văn trong văn học. Cái tôi trữ tình bao giờ cũng là sản phẩm của một thời đại. Với tư cách là một hiện tượng nghệ thuật, nó có sự hình thành, phát triển, kết thúc hoặc chuyển hóa sang một dạng khác,… đều phải chịu sự chi phối của một thời đại nhất định. 1.2.1.1. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nướcCuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là một trong những trang hào hùng nhất trong lịch sử giữ nước của dân tộc, tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần của xã hội, trong đó có văn học nghệ thuật. Không khí thời đại mang đến cho thơ một âm hưởng, diện mạo riêng. Thơ chống Mỹ là một chỉnh thể thống nhất của nền văn học chiến tranh cách mạng, một nền thơ tương ứng với cấu trúc tinh thần dân tộc ở một tọa độ xã hội – lịch sử đặc biệt, thời kỳ toàn dân vượt qua những gian khổ hy sinh khốc liệt nhất trong cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Thơ ca tập trung thể hiện cuộc ra quân vĩ đại của toàn dân tộc, khám phá sức mạnh của con người Việt Nam, nhận thức và đề cao sứ mệnh lịch sử, tầm vóc và ý nghĩa nhân loại của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đó là điểm xuất phát và ảnh hưởng to lớn đến đời thơ Ý Nhi. 17Ý Nhi thuộc thế hệ các nhà thơ sống và trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ. Cuộc đời của Ý Nhi đã từng trải nghiệm và cọ xát qua hai cuộc chiến tranh, nhưng tuổi trưởng thành và bắt đầu sự nghiệp sáng tác thơ của Ý Nhi gắn liền với thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Sự nghiệp sáng tác của chị trải dài qua hai giai đoạn trước và sau năm 1975. Đây là thời điểm xã hội có nhiều biến cố tác động rất lớn đối mọi mặt của đời sống xã hội nói chung, với cuộc đời, đời thơ Ý Nhi nói riêng. Mười năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ (1964 – 1975) là một quãng thời gian không dài trong cả thế kỉ XX đầy biến động của dân tộc cũng như tiến trong tiến trình thơ Việt Nam hiện đại nhưng có ý nghĩa đặc biệt. Cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến vô cùng khốc liệt. Với lòng yêu nước và truyền thống đấu tranh anh dũng, bất khuất, nhân dân ta đã đảm nhận một sứ mệnh lịch sử hết sức vẻ vang. Trong cuộc chiến đấu hào hùng để giành lại và bảo vệ chủ quyền, độc lập của dân tộc và tự do cho nhân dân, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc đã ngã xuống trên chiến trường và đã trở thành tấm gương tiêu biểu cho thế hệ con người Việt Nam mới, trung thành với lý tưởng và hiến dâng thân mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc vĩ đại. Tất cả đã thổi một luồng gió mới vào đời sống văn học nghệ thuật nước nhà. Nó chính là nhân tố khách quan tạo nên diện mạo mới với những đặc điểm và quy luật vận động riêng của một giai đoạn văn học, trong đó có thơ ca. Luôn đồng hành và gắn bó với vận mệnh của dân tộc, đi qua những bước thăng trầm của lịch sử và thời đại, văn học thực sự đã tạo ra được những biến đổi sâu sắc, toàn diện và đã tạo cho mình một diện mạo mới trong giai đoạn mới. Cũng như mọi lĩnh vực hoạt động văn hóa tinh thần khác, thơ kháng chiến chống Mỹ đã được huy động vào cuộc chiến đấu của dân tộc, trở thành vũ khí tinh thần có sức mạnh to lớn trong việc khơi dậy lòng yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí chiến đấu, niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của mỗi người cũng như toàn dân tộc Việt Nam. Thơ chặng đường này thể hiện rất rõ khuynh hướng mở rộng và đào sâu vào chất hiện thực, đồng thời tăng cường sức khái quát, chất suy tưởng, chính luận. Điều này được ghi nhận qua sự xuất hiện và những đóng góp của thế hệ các 18nhà thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước. Thơ của họ giàu những chi tiết chân thực của đời sống chiến trường, phản ánh được một phần cái ác liệt, những hi sinh, tổn thất trong chiến tranh, đặc biệt là dựng lên được bức chân dung tinh thần của cả thế hệ trẻ cầm súng. Họ đem đến cho nền thơ Việt Nam hiện đại một tiếng thơ mới mẻ, trẻ trung, sôi nổi thấm đượm chất suy tư, triết luận. Đó là Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Thanh Thảo, Phan Thị Thanh Nhàn, Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ,… Có thể nói, mặc dù phát triển trong hoàn cảnh đặc biệt hết sức khó khăn, nhưng chưa bao giờ thơ lại đạt được thành tựu rực rỡ như ở thời kỳ này. Nó không chỉ mang ý nghĩa lịch sử, ý nghĩa thời đại, mà còn là một hiện tượng nghệ thuật lớn, đặc sắc trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam. Hướng vào đời sống xã hội rộng lớn với nhiều biến cố, sự kiện trọng đại, thơ phản ánh được hiện thực của đất nước trong thời kì lịch sử đầy gian khổ, hi sinh nhưng cũng hết sức vẻ vang của dân tộc ta, thực sự là tấm gương phản chiếu những phương diện cơ bản nhất của tâm hồn dân tộc. Ý Nhi tốt nghiệp khoa ngữ văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1968. Thời ấy đang chiến tranh phá hoại ác liệt, đế quốc Mỹ leo thanh chiến tranh bằng không lực, ném bom ra miền Bắc. Ý Nhi theo trường sơ tán lên Đại Từ - Thái Nguyên, lúc đó chị chỉ mới học hết học kỳ I, năm thứ nhất trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Chính trong những thời khắc vô cùng gian khổ nhưng cũng vô cùng sôi nổi và đẹp đẽ ấy, Ý Nhi đã viết những bài thơ đầu tiên của tuổi trưởng thành, trong đó có nhiều trang viết giàu cảm xúc khi tái hiện lại không khí những ngày người và thơ xung trận. Những câu thơ làm sống dậy tình cảm mạnh mẽ của một thời. Chị thấu cảm, đau đớn trước những tang thương, mất mát hi sinh của đồng bào, đồng chí qua cuộc chiến tranh chống Mỹ, giải phóng và thống nhất đất nước. Năm 1974, Ý Nhi cho ra mắt tập thơ Trái tim và nỗi nhớ (in chung với Lâm Thị Mỹ Dạ). Đây là tập thơ được viết trong chiến tranh, vì thế có nhiều bài thơ viết về cuộc sống, con người trong chiến đấu. Có thể nói rằng, đây là tập thơ đã góp phần không nhỏ dựng lên gương mặt của một nhà thơ nữ trẻ trung trong giới văn nghệ sỹ thời chống Mỹ lúc bấy giờ. 19Mặc dù đến với thơ từ rất sớm và viết nhiều, nhưng đỉnh cao thơ Ý Nhi là vào những năm 80 của thế kỷ XX. Đây là thời điểm gắn liền với những bước ngoặt quan trọng của lịch sử nước nhà. Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã hoàn toàn kết thúc thắng lợi, đất nước bước vào thời kì Đổi mới, dưới sự tác động của những chính sách kinh tế – xã hội của Nhà nước, sự mở rộng các sinh hoạt dân chủ trong đời sống văn hóa tư tưởng cũng như sự chín muồi về tài năng và sự tự ý thức về phẩm chất một nhà thơ, thơ Ý Nhi đã có nhiều biến đổi mới về nội dung và phương thức biểu đạt gớp phần tạo nên diện mạo mới của nền văn học Việt Nam.1.2.1.2. Những năm tháng đổi mới sau chiến tranhCuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài 30 năm đã kết thúc toàn thắng, lịch sử dân tộc ta chuyển sang trang mới. Từ sau năm 1975, đất nước từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, cuộc sống dần dần trở lại với những quy luật bình thường. Đất nước đứng trước những vận hội mới, hứa hẹn một tương lai tươi sáng, nhưng cũng đứng trước khó khăn, thử thách cam go của thời kỳ hậu chiến.Tình hình đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của văn học, làm thay đổi quan niệm nghệ thuật của các nhà văn. Sáng tác của Ý Nhi giai đoạn này cũng không nằm ngoài qui luật chung đó. Trong khoảng mười năm đầu sau chiến tranh (1975 – 1986), đất nước gặp vô vàn thử thách, khó khăn, nhất là khó khăn về kinh tế, rơi vào khủng hoảng ngày càng trầm trọng. Niềm tin vào cuộc sống mới đã ít nhiều giảm thiểu trong đông đảo nhân dân, đặc biệt là những người trí thức, nghệ sĩ. Nền văn học cũng chững lại và không ít người viết lâm vào tình trạng bối rối, hoang mang, dao động, thậm chí mất niềm tin. Ý thức nghệ thuật của số đông người viết và công chúng chưa chuyển biến kịp thời với thực tiễn xã hội, những quan niệm và cách tiếp cận hiện thực vốn quen thuộc trong thời kì trước đã tỏ ra bất cập trước hiện thực mới và đòi hỏi của người đọc. Đây là khoảng thời gian mà nhà văn Nguyên Ngọc gọi là “khoảng chân không trong văn học”. Nhưng cũng chính trong những năm này đã diễn ra sự vận động ở chiều sâu của đời sống văn học, với những trăn trở vật vã, tìm tòi thầm lặng 20mà quyết liệt ở một số nhà văn mẫn cảm với đòi hỏi của cuộc sống, có tâm huyết và ý thức trách nhiệm cao về ngòi bút của mình. Họ luôn có ý thức tìm tòi, thể nghiệm, tự đổi mới tư duy nghệ thuật của mình. Những cây bút có những bứt phá, đổi mới trong thơ có thể kể tới: Ý Nhi, Thanh Thảo, Trần Mạnh Hảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy, Xuân Quỳnh, Nguyễn Trọng Tạo, Lâm Thị Mĩ Dạ,… Nếu văn học 1945 – 1975, ngòi bút của các nhà văn nghiêng về phản ánh những sự kiện lịch sử trọng đại có tính chất toàn dân thì văn học sau 1975 nghiêng về phản ánh những khía cạnh đời tư, đời thường, khía cạnh đời sống cá nhân phức tạp. Cái tôi trữ tình trong thơ đã có nhiều thay đổi. Trăn trở, suy tư, nghi ngờ và đời hơn. Thơ đã trở về với con người cá nhân, cô đơn. Trong bối cảnh đó, Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) đã chỉ rõ đổi mới là “nhu cầu bức thiết”, là “vấn đề có ý nghĩa sống còn” của toàn dân tộc. Từ năm 1986, công cuộc đổi mới do Đảng đề xướng và lãnh như một luồng gió mới mở ra một thời kì mới, phát triển cho đất nước. Đất nước từng bước thoát ra khỏi thời kì khủng hoảng bước vào vào đời sống mới, phát triển mạnh mẽ và ngày càng ổn định về mọi mặt. Kinh tế bao cấp được bãi bỏ từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa vận động theo hướng dân chủ hóa. Đất nước mở cửa, tiếp nhận giao lưu đa phương. Nền dân chủ được mở rộng, đặc biệt văn hóa nước nhà có điều kiện tiếp xúc rộng rãi với nhiều nước trên thế giới, nền văn học giai đoạn này cũng có sự đổi mới toàn diện. Phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đã tạo điều kiện cho sự chuyển hướng văn học. Công cuộc đổi mới do Đảng đề xuất trở thành “cú hích” kích thích hoạt động sáng tác. Với sự quan tâm, khuyến khích của Đảng, các văn nghệ sĩ đã vô cùng phấn khởi và tự tin hơn vào những điều mình đã suy nghĩ và mạnh dạn đổi mới tư duy về cách viết của mình. Đây có thể được xem là giai đoạn chuyển mình của văn học, như Phong Lê đã nhận xét, “Văn học có dấu hiệu chuyển lên một đường ray mới, có lúc ngập ngùng rụt rè, có lúc bạo dạn sấn sổ, dẫu thế nào mặc lòng nó không còn chấp nhận sự bình ổn, bình yên kiểu cũ”. Có thể nói, năm 1986 với sự nghiệp đổi mới 21diễn ra ở mọi cấp độ đã làm thay đổi diện mạo đất nước, ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm và tư duy sáng tạo nghệ thuật của các nhà thơ cũng như các nhà nghệ sĩ nói chung. “Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI – Đảng Cộng sản Việt Nam) là định hướng quan trọng cho mọi suy nghĩ và hành động. Mấy chục năm trước do hoàn chiến tranh, đất nước tạm thời bị chia cắt cùng với những nhận thức ấu trĩ, cực đoan một thời, con người cá nhân, giá trị cá nhân chưa được quan niệm đúng đắn. Giờ đây, đời sống văn học nghệ thuật có nhiều chuyển biến, cái tôi nhà thơ được khẳng định, cá tính sáng tạo được tôn trọng, con người cá nhân được đặt lên ở vị trí ưu tiên. Bên cạnh giọng điệu ngợi ca, thơ mở ra và chấp nhận nhiều giọng điệu, nhiều sắc thái tâm lý: nỗi buồn, cô đơn, tâm trạng xao xuyến không yên,… của thời mở cửa, kinh tế thị trường phát triển.Tiếp theo đó là Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị về văn học, nghệ thuật và văn hóa, “Văn học nghệ thuật là một bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng và nhân văn”, và với cuộc gặp gỡ của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ vào cuối năm 1987, tất cả những điều đó tác động trực tiếp vào đời sống văn học nghệ thuật nước nhà, mở ra một thời kì đổi mới của văn học Việt Nam trong tinh thần đổi mới tư duy, nhận thức lại hiện thực với cảm hứng phê phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản. Đó là những động lực tinh thần cho văn học của thời kì đổi mới phát triển mạnh mẽ, sôi nổi. Sự đổi mới ý thức nghệ thuật nằm ở chiều sâu của đời sống văn học, nó vừa là kết quả vừa là động lực cho những tìm tòi đổi mới trong sáng tác, nhưng đồng thời cũng chịu sự tác động mạnh của độc giả mang lại. Trong hoàn cảnh hòa bình, nhu cầu thẫm mĩ của người tiếp nhận văn học đã thay đổi, công chúng đòi hỏi mỗi nhà văn phải đáp ứng sự tìm hiểu hiện thực cuộc sống của đất nước một cách toàn diện chứ không phải một chiều, một mặt như văn học trước đây. Chính vì điều đó đã đòi hỏi nhà văn buộc phải thay đổi cách viết nếu như không muốn bị bạn đọc lãng quên.22Sau năm 1986, cuộc sống trở về với qui luật đời thường của nó, con người trở về với mọi mặt đời thường, phải đối mặt với bao nhiêu vấn đề trong một giai đoạn có nhiều biến động, đổi thay của xã hội. Chính bối cảnh ấy đã thúc đẩy sự thức tỉnh ý thức cá nhân, đòi hỏi sự quan tâm đến mỗi người và từng số phận. Cũng chính vì vậy, văn học trong giai đoạn này có sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ. Cuộc sống mới với cơn gió cơ chế thị trường đã thổi vào văn học. Nhiều tác phẩm bắt đầu hướng vào khai thác mảng đời thường “ngổn ngang bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ với màu đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ…” (Nguyễn Khải). Văn học khơi sâu vào cuộc sống đa chiều, về những cái nhỏ nhặt đời thường, những chuyện về đời tư, chuyện tình yêu, tình dục, tâm tư, nguyện vọng của từng số phận con người,… các nhà văn đã mở rộng tối đa khả năng tiếp xúc của văn học đối với đời sống. Đặc biệt, thơ trữ tình trong giai đoạn này là sự bừng tỉnh ý thức về cái tôi cá nhân, một cái tôi chiêm nghiệm luôn tự mình đối diện với chính mình. Điều này có thể tìm thấy trong thơ Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạ Hữu Yên, Đoàn Thị Lam Luyến, Đinh Thị Thu Vân,… một thế hệ nhà thơ sung sức, mạnh khỏe, khao khát sáng tạo. Các nhà thơ này nhìn cuộc sống một cách tỉnh táo hơn, duy lí hơn. Thơ trở thành một hình thức tự vấn, phản tỉnh, có tính chất tự bạch. Từ hướng ngoại thơ chuyển sang hướng nội, mỗi nhà thơ đều muốn vẽ, tạc chân dung đích thực của mình, nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết: “Vẽ tôi một nét môi cười/ Một dòng nước mắt, một đời phù du”. Có thể nói, sự khám phá và thể hiện con người cá nhân là một hướng đi tích cực cả về mặt xã hội, thẩm mĩ và nhân văn.Đến những năm 90 cũng trên tinh thần dân chủ, tự do sáng tạo, một diện mạo mới của thơ xuất hiện. Trong xu thế đi tới sự ổn định của xã hội, văn học giai đoạn này trở về với đời sống thường nhật và vĩnh hằng, đồng thời có ý thức và nhu cầu tự đổi mới hơn bao giờ hết về hình thức nghệ thuật, phương thức biểu hiện của nhà văn để phù hợp với nguyện vọng của người đọc cũng như quy luật phát triển khách quan của nền văn học. Tuy nhiên văn 23học về cơ bản cũng trở lại những quy luật mang tính bình thường, nhưng không xa rời định hướng đổi mới đã hình thành từ giữa những năm 80.Với cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại, văn học thể hiện được những hình tượng cao đẹp về đất nước, về nhân dân, về các tầng lớp, thế hệ con người Việt Nam vừa giàu phẩm chất truyền thống, vừa mang đậm những nét mới của thời đại. Đặc biệt từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986), văn học vận động theo hướng dân chủ hóa, đổi mới quan niệm về nhà văn, về văn học và quan niệm nghệ thuật về con người, phát huy cá tính sáng tạo và phong cách nghệ thuật của nhà văn với những tìm tòi, thể nghiệm mới tạo nên sự đa dạng về cá tính sáng tạo, sự đa giọng điệu, đa phong cách của văn học góp phần tạo nên diện mạo mới cho văn học Việt Nam sau năm 1975. 1.2.2. Cuộc sống và phẩm chất cá nhân 1.2.2.1. Đời sống cá nhânNhà thơ Ý Nhi tên thật là Hoàng Thị Ý Nhi, sinh năm 1944 tại Thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. Chị xuất thân trong một gia đình hoạt động văn hóa, cha là nhà nghiên cứu tuồng nổi tiếng Hoàng Châu Ký. Ông rất say mê hát bội và thích làm thơ, vì thế từ rất sớm ông đã có những vần thơ rất tinh tế. Ông là một người nhân hậu nhưng rất sâu sắc và nghiêm cẩn trong nghiên cứu khoa học. Ý Nhi thừa hưởng được ở người cha lối tư duy khúc chiết, mạch lạc, biết mình nói gì và biết cách làm cho sự việc từ chỗ mơ hồ, rối rắm trở nên giản dị, dễ hiểu. Mẹ Ý Nhi là một phụ nữ nội trợ nhưng cũng rất yêu thơ, bà thuộc nhiều thơ của Huy Cận, Xuân Diệu, Tế Hanh, Có thể nói gia đình đã là môi trường đầu tiên nuôi dưỡng và làm nảy nở hồn thơ ở Ý Nhi sau này.Tuổi thơ, Ý Nhi chịu nhiều vất vả, hằng ngày phải bưng rổ bánh đi bán rao để giúp mẹ. Ý Nhi thuộc lớp người được sinh ra từ sau Cách mạng, trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ngày từ những ngày còn thơ dại đã biết đến cảnh tản cư, tiêu thổ kháng chiến, đã sống trong thiếu thốn, đã nhìn thấy những cảnh khốc liệt do đế quốc Mỹ gây ra, tất cả gớp phần hình thành cảm hứng trong thơ chị sau này. Năm 1964, giặc Mỹ ném bom đánh phá ác liệt ở miền Bắc, lúc bấy giờ cô sinh viên Ý Nhi theo trường Đại học 24Tổng hợp dời lên Thái Nguyên sơ tán. Trong hoàn cảnh đó Ý Nhi cũng như các sinh viên khác phải tự lo xây nhà cửa, thư viện, lớp học (bằng tre , nứa) và vẫn phải bảo đảm chương trình học. Cho đến năm 1968, Ý Nhi tốt nghiệp Đại học, chị về làm việc tại Viện Văn học rồi Nhà xuất bản Văn nghệ Giải phóng. Trong thời gian chị làm việc tại Nhà xuất bản Văn nghệ Giải Phóng – Nhà xuất bản chuyên in tác phẩm của các nhà văn đang chiến đấu ở chiến trường như Nguyên Ngọc, Thu Bồn, Phan Tứ, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Chim Trắng Với tính chất của công việc và trách nhiệm của người làm biên tập viên, chị đã nhiều lần đặt chân trên vùng đất lửa Quảng Bình, Nghệ An Đặc biệt, chị đi vào công tác ở miền Nam rất sớm (trước tháng 4 năm 1975) để tìm hiểu thực tế ở chiến trường và chuẩn bị làm sách cho miền Nam. Mỗi lần đi thực tế ở chiến trường về thế nào chị cũng mang theo những bài thơ mới. Hàng loạt bài thơ của chị ra đời ghi dấu lại những địa danh mà chị từng đi qua ở Hải Phòng, Thái Nguyên, Hà Nội, Quảng Bình, Tuy Hòa, Phú Yên,… in rõ dấu ấn của tâm hồn chị trong những năm tháng gian khổ, hào hùng nhưng cũng hết sức lạc quan và hy vọng. Sau khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng 1975, chị làm cuộc thiên di theo cơ quan vào Sài Gòn. Trong thời gian này chị vẫn làm việc tại chi nhánh miền Nam của Nhà xuất bản, chị chủ trương in lại các tập thơ của phong trào Thơ mới (vốn đã vắng bóng từ lâu), hồi ký của Vũ Hoàng Chương, Mưa nguồn của Bùi Giáng,… Là người làm thơ nhưng đồng thời cũng có cái may mắn làm biên tập thơ rất nhiều năm,Ý Nhi có cơ may đọc được rất nhiều thơ của các nhà thơ Việt Nam đôi khi biên tập những tập thơ dịch ra từ các nhà thơ nước ngoài đã tạo điều kiện cho cho nhà thơ học hỏi và tự mình sáng tác. Đây chính là những tiền đề cho đời thơ Ý Nhi. Hiện nay Ý Nhi đã nghĩ hưu không còn công tác ở Hội nhà văn và đang cùng chồng là giáo sư Nguyễn Lộc sống ở Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. 1.2.2.2 .Phẩm chất cá nhân25