Tất cả thư viện Thư viện ĐH Dược Hà Nội Thư viện ĐH Y Hà Nội Trung tâm Tích hợp dữ liệu 118 Tạp chí Y học dự phòng, Tập 31, số 6 - 2021 Bảng 3 cho thấy rằng chương trình học, tình trạng đảm bảo nguồn tài chính cho việc học, lo lắng về tương lai, bệnh mãn tính, phàn nàn về sức khỏe hiện tại, tầm quan trọng của tìm kiếm thông tin trên Internet, sự hài lòng về chất lượng thông tin là các yếu tố liên quan đến sức khỏe tâm thần của sinh viên có ý nghĩa thống kê trong mô hình hồi quy đa biến logistic (p < 0,05). Trong đó, sinh viên lo lắng về tương lai thì tăng nguy cơ có dấu hiệu trầm cảm 1,36 lần so với sinh viên khác (AOR: 1,36, 95% KTC: 1,14 - 1,62). Nhóm không hài lòng và cho rằng chất lượng thông tin là bình thường thì nguy cơ có dấu hiệu trầm cảm cao hơn so với nhóm hài lòng lần lượt là 3,54 lần (AOR: 3,54, 95% KTC: 1,48 – 8,46) và 1,97 lần (AOR: 1,97, 95% KTC: 1,19 – 3,24). IV. BÀN LUẬN Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sinh viên và học viên có dấu hiệu trầm cảm trong giai đoạn COVID-19 là 12,7%. Hầu hết sinh viên thuộc khối ngành khoa học sức khoẻ trên toàn quốc phải nghỉ học tập trung tại giảng đường hoặc các cơ sở thực hành trong khoảng thời gian dài, thay đổi hình thức học tập từ trực tiếp sang online trong giai đoạn lây lan nhanh của vi rút Sars-Cov-2. Chính điều này có thể đã ảnh hưởng trực tiếp lên sức khỏe tâm thần của sinh viên. Họ lo lắng tương lai chưa được đến trường để tiếp tục học tập khi tình hình dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp hoặc những lo lắng phơi nhiễm với môi trường nguy cơ ở các cơ sở lâm sàng khi tình hình học tập trở lại bình thường. Trong bối cảnh đặc biệt đó, nghiên cứu tại Trung Quốc trên 3881 sinh viên, tỉnh Guangdong, cho thấy tỷ lệ sinh viên có dấu hiệu trầm cảm [7] là 21,16%, cao hơn so với kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Có thể lý giải khi tình hình lây lan nhanh và ảnh hưởng của COVID-19 lên các mặt đời sống ở Trung Quốc nặng nề hơn nhiều so với Việt Nam tại thời điểm giữa năm 2020. Sức khỏe tâm thần bị tác động bởi nhiều yếu tố tác động như xã hội, kinh tế, môi trường bên ngoài ở những giai đoạn khác nhau trong cuộc sống của mỗi người [5, 8]. Đặc biệt, khối các trường đại học khoa học sức khỏe với môi trường học tập đặc thù có thể ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của sinh viên. Học viên theo học chương trình thạc sĩ có nguy cơ mắc trầm cảm cao hơn so với nhóm sinh viên đại học, có thể do áp lực về chương trình học tập, thời gian học tập ngắn và nhận thức trách nhiệm nghề nghiệp nhiều hơn. Nghiên cứu cũng cho thấy nhóm đối tượng có nguồn tài chính hỗ trợ việc học không đầy đủ và ít đầy đủ có tỷ lệ trầm cảm theo WHO - 5 cao hơn so với nhóm sinh viên được hỗ trợ đầy đủ, điều này là khá tương đồng so với nghiên cứu trước [5, 9]. Việt Nam không có nhiều sự hỗ trợ tài chính cũng như chương trình học bổng từ Chính phủ cho chi phí học phí và sinh sống [9], nên lúc đại dịch COVID-19 lan nhanh ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế càng làm gánh nặng về tài chính để đảm bảo việc học tăng lên. Lo lắng về tương lai là một yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê trong nghiên cứu. Lo lắng về một tình trạng không chắc chắn hay sợ hãi về một vấn đề nào đó có thể sẽ bị thay đổi trong tương lai, ví dụ tình trạng dịch bệnh COVID-19, có thể dẫn đến việc tránh né thực hiện tình huống khó khăn trong tương lai, dẫn đến cảm giác không an toàn và có cả dấu hiệu trầm cảm [10, 11]. Kết quả trong mô hình hồi quy logistic đa biến cho thấy nếu sinh viên cho rằng việc tìm kiếm thông tin về COVID-19 và sự hài lòng với chất lượng thông tin liên quan có ý nghĩa với trầm cảm của SV trong giai đoạn này khi đã hiệu chỉnh các yếu tố khác như tình hình sức khoẻ thể chất và tinh thần. Điều này là dễ hiểu vì khi càng tìm kiếm thông tin, đặc biệt là khi thông tin dịch bệnh có hướng tiêu cực không được kiểm chứng và chưa hài lòng về thông tin đó, người truy cập sẽ càng lo lắng về tình trạng dịch bệnh đang xảy ra. Một số hạn chế của nghiên cứu bao gồm: Đối tượng nghiên cứu không thể đại diện cho toàn bộ sinh viên khối trường khoa học sức khỏe tại Việt Nam. Nghiên cứu thu thập số liệu dựa trên nền tảng Internet nên những sinh viên 119Tạp chí Y học dự phòng, Tập 31, số 6 - 2021 ở những vùng khó khăn khó có thể tiếp cận được nghiên cứu này. V. KẾT LUẬN Nghiên cứu phát hiện tỷ lệ sinh viên liên quan đến ngành Y có dấu hiệu trầm cảm là 12,7% trong đại dịch COVID-19. Chương trình sau đại học, tình trạng đảm bảo nguồn tài chính ít/ không đầy đủ cho việc học, lo lắng về tương lai, bệnh mãn tính, phàn nàn về sức khỏe hiện tại, tầm quan trọng của tìm kiếm thông tin trên Internet và sự hài lòng về chất lượng thông tin liên quan có ý nghĩa đến sức khoẻ tâm thần của đối tượng nghiên cứu. Vì vậy, nhà trường cần quan tâm và đề xuất hỗ trợ về tâm lý kịp thời cho sinh viên để vượt qua giai đoạn đại dịch COVID-19 đầy khó khăn tiếp theo hay chuẩn bị cho những khó khăn khách quan khác trong tương lai. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nirmita PRK, Kendal O, Cynthia C, et al. The Implications of COVID-19 for Mental Health and Substance Use 2020. Received on 19 May 2020. https://www.healtheuropa.eu/mental-health -awareness-week-covid-19-mental-health- research/100050/. 2. Kaparounaki CK, Patsali ME, Mousa D-PV, Papadopoulou EVK, Papadopoulou KKK, Fountoulakis KN. University students’ mental health amidst the COVID-19 quarantine in Greece. Psychiatry Research. 2020; 290: 113111. 3. Dahlin M, Joneborg N, Runeson B. Stress and depression among medical students: a cross- sectional study. Medical education. 2005; 39(6): 594 - 604. 4. Aktekin M, Karaman T, Senol YY, et al. Anxiety, depression and stressful life events among medical students: a prospective study in Antalya, Turkey. Medical education. 2001; 35(1): 12 - 17. 5. Tran Q, Dunne M, Luu H. Vietnam journal of medicine & pharmacy well-being, depression and suicidal ideation among medical students throughout Vietnam. Vietnam Journal of Medicine and Pharmacy. 2014; 6: 23 - 30. 6. Topp CW, Ostergaard SD, Sondergaard S, Bech P. The WHO-5 Well-Being Index: A Systematic Review of the Literature. Psychotherapy and Psychosomatics. 2015; 84(3): 167 - 176. 7. Chang J, Yuan Y, Wang D. Mental health status and its inuencing factors among college students during the epidemic of COVID-19. Journal of Southern Medical University. 2020; 40(2): 171 - 176. 8. WHO. Mental health atlas : 2011. Geneva: World Health Organization. 2011. 9. Pham T, Bui L, Nguyen A, Nguyen B, Tran P, Vu P, et al. The prevalence of depression and associated risk factors among medical students: An untold story in Vietnam. Plos one. 2019; 14(8): e0221432. 10. Kaya S, & Avci R. Eects of cognitive-behavioral- theory-based skill-training on university students’ future anxiety and trait anxiety. Eurasian Journal of Educational Research. 2016; 66: 281 - 298. 11. Zaleski Z. Future Anxiety: concept, measurement, and preliminary research. Personality and Individual Dierences. 1996; 21(2): 165 - 174. |