Chóng váng nhưng không buồn nôn là bệnh gì năm 2024

Chóng váng nhưng không buồn nôn là bệnh gì năm 2024

TTO - Đây là một bệnh ít gặp, tần suất của bệnh khoảng một phần nghìn, bệnh thường xảy ra ở nữ gấp hai hoặc ba lần ở nam ở độ tuổi sau 50 tuổi, dù có thể gặp ở mọi lứa tuổi.

Chóng váng nhưng không buồn nôn là bệnh gì năm 2024
Tên khoa học của bệnh là: chóng mặt kịch phát tư thế lành tính

Bệnh nhân nữ, 55 tuổi, đến phòng khám mặt vẫn còn bơ phờ, hốt hoảng vì sáng nay khi ngủ dậy, vừa xoay người ngồi dậy bỗng nhiên cảm thấy mọi vật trong phòng bỗng nhiên quay cuồng, trong người bệnh nhân có cảm giác cực kỳ khó chịu, buồn nôn và nôn.

Cơn chóng mặt diễn ra rất nhanh và hết ngay sau đó, tuy nhiên bệnh nhân vẫn còn cảm giác lâng lâng, và dường như cơn chóng mặt muốn trở lại khi bệnh nhân thay đổi tư thế. Bệnh nhân cực kỳ lo lắng, hoảng hốt vì từ trước đến giờ mình chưa bị lần nào.

Đây là bệnh gì ?

Đây là một bệnh ít gặp, tần suất bệnh khoảng một phần nghìn, thường xảy ra ở nữ gấp hai hoặc ba lần ở nam sau 50 tuổi, dù có thể gặp ở mọi lứa tuổi. Vì triệu chứng chính của bệnh là chóng mặt dữ dội, xảy ra một cách đột ngột, thường kéo dài dưới một phút khi có sự thay đổi tư thế, đặc biệt là sự chuyển động đột ngột của đầu, nhưng sau đó hết không để lại biến chứng hay hậu quả nghiêm trọng nên tên khoa học của bệnh là: chóng mặt kịch phát tư thế lành tính.

Bệnh do nguyên nhân gì ?

Các yếu tố thường gặp làm cho một người dễ mắc bệnh này hơn người khác hay còn gọi là yếu tố nguy cơ là: chấn thương đầu, có phẫu thuật tai trước đó, nhiễm siêu vi hoặc đau nửa đầu.

Tai của chúng ta có ba phần: tai ngoài để hứng âm thanh bao gồm vành tai và ống tai; tai giữa gồm màng nhĩ, khoang tai giữa và chuỗi xương còn có chức năng dẫn truyền âm thanh; tai trong gồm hai bộ phận là ốc tai dẫn truyền âm thanh lên não và tiền đình gồm có ba ống bán khuyên nằm theo ba chiều trong không gian để giữ thăng bằng cho cơ thể.

Nguyên nhân của bệnh là do các tinh thể canxi, hay còn được gọi là sỏi trong các ống bán khuyên chuyển động hoặc nằm sai vị trí, làm các tín hiệu dẫn truyền lên não báo cơ thể đang ở một tư thế khác với tư thế hiện tại nên cảm giác chóng mặt xảy ra.

Bệnh xảy ra khi nào và có nguy hiểm không ?

Bệnh hoàn toàn không nguy hiểm. Bệnh chỉ xảy ra khi có sự thay đổi tư thế của đầu và tình huống thường gặp là đang nằm trên giường ở một tư thế khá lâu, sau đó xoay trở qua lại hoặc ngồi dậy, đứng dậy đột ngột hay cúi đầu ra trước đột ngột.

Bệnh không xảy ra khi lái xe hoặc các tư thế không có sự di chuyển đột ngột của đầu. Bệnh xảy ra rất đột ngột và dữ dội nhưng sau cơn bệnh không để lại hậu quả gì, không ảnh hưởng đến thính giác hoặc thị giác khi cơn chóng mặt chấm dứt. Tuy nhiên một số ít trường hợp, bệnh có thể tái phát vào vài ngày, vài tháng hoặc vài năm sau đó.

Bệnh được điều trị như thế nào ?

Nếu không điều trị, bệnh tự khỏi sau 2-4 tuần. Tuy nhiên trong đợt cấp của bệnh, các triệu chứng nôn và buồn nôn cần được điều trị bằng thuốc và bệnh nhân cần hỗ trợ một số thuốc tăng tuần hoàn não và giảm chóng mặt.

Trong trường hợp cơn chóng mặt có chiều hướng trở lại, bác sĩ sẽ thực hiện nghiệm pháp xoay đầu để lắc các tinh thể canxi trong các ống bán khuyên về vị trí cũ. Bệnh nhân cần nằm tư thế đầu cao, thân người và chân làm thành góc 45 độ trong 2-3 ngày sau cơn chóng mặt hoặc sau khi bác sĩ chuyên khoa thực hiện nghiệm pháp quay đầu để các tinh thể canxi trong ống bán khuyên được cố định ổn định không còn chuyển dịch nữa.

Phòng ngừa bệnh như thế nào ?

Đối với những người từng bị bệnh hoặc những người tuổi trên 50, đặc biệt là nữ giới, cần hạn chế các động tác xoay chuyển đầu mạnh và đột ngột trong hoạt động sinh hoạt hằng ngày, đặc biệt là khi tập thể dục. Đã có không ít bệnh nhân bị bệnh này khi tập yoga với các tư thế không phù hợp.

Buồn nôn, cảm giác khó chịu cần phải nôn, biểu hiện nhận thức về kích thích hướng tâm (bao gồm tăng trương lực phó giao cảm) vào trung tâm nôn ở hành tủy. Nôn là quá trình tống mạnh các thành phần có trong dạ dày do co thắt không tự chủ của cơ thành bụng khi cơ thắt tâm vị và cơ thắt thực quản dưới giãn ra.

Nếu một bệnh nhân bất tỉnh hoặc chỉ có ý thức một phần, chất nôn có thể bị hít vào (bị hít phải). Axit trong chất nôn có thể gây kích ứng nặng ở phổi, gây viêm phổi do hít phải.

Nôn mạn tính có thể dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng, sụt cân và các bất thường về chuyển hóa.

Buồn nôn và nôn xảy ra khi đáp ứng với các điều kiện ảnh hưởng đến trung tâm nôn. Nguyên nhân có thể xuất phát từ đường tiêu hoá (GI) hoặc hệ thần kinh trung ương (CNS) hoặc có thể là kết quả của một số tình trạng toàn thân ( xem Bảng: ).

Các nguyên nhân phổ biến nhất gây buồn nôn và nôn là các nguyên nhân sau:

  • Thuốc
  • Chất độc

Hội chứng nôn có chu kỳ (CVS) là tình trạng bất thường không phổ biến, đặc trưng bởi các cơn nôn dữ dội, riêng rẽ, hoặc đôi khi chỉ có buồn nôn xảy ra ở các khoảng thời gian khác nhau; với tình trạng sức khoẻ bình thường giữa các giai đoạn đó và không có các bất thường về cấu trúc. Hội chứng này phổ biến nhất ở trẻ em (tuổi trung bình khi khởi phát là 5 tuổi) và thường có xu hướng giảm ở tuổi trưởng thành. Nôn theo chu kỳ ở người lớn có thể xảy ra khi sử dụng cần sa lâu dài (cần sa) (hội chứng nôn nhiều kéo dài do cần sa); nôn có thể thuyên giảm bằng cách tắm nước nóng và hết sau khi ngừng sử dụng cần sa.

Chóng váng nhưng không buồn nôn là bệnh gì năm 2024

Tiền sử của bệnh hiện tại cần phải đưa ra tần suất và thời gian nôn; mối quan hệ của nó với các chất gây khởi phát có khả năng xảy ra như là nuốt phải thuốc hoặc chất độc, chấn thương đầu và sự di chuyển (ví dụ: xe hơi, máy bay, thuyền, các phương tiện giải trí); và chất nôn có chứa mật không (đắng, vàng xanh) hoặc chứa máu không (chất màu đỏ hoặc màu "cà phê"). Các triệu chứng quan trọng kèm theo bao gồm có đau bụng và tiêu chảy; lần cuối cùng đại tiện và đánh hơi và có đau đầu, chóng mặt, hoặc cả hai.

Xem xét các hệ thống tìm kiếm các tình trạng rối loạn có triệu chứng như là vô kinh và căng vú (mang thai), tiểu nhiều và khát nhiều (đái tháo đường) và đái máu và đau mạn sườn (sỏi thận).

Bệnh sử trong quá khứ cần phải xác định các nguyên nhân đã biết như là có thai, đái tháo đường, đau nửa đầu, bệnh gan hoặc bệnh thận, ung thư (bao gồm cả thời gian của bất cứ lần hóa trị hoặc xạ trị nào) và phẫu thuật ổ bụng trước đây (có thể gây tắc ruột do dính). Tất cả các loại thuốc và các chất đã dùng gần đây cần phải được xác định chắc chắn; một số chất nhất định có thể không biểu hiện độc tính cho đến vài ngày sau khi dùng (ví dụ: acetaminophen, một số loại nấm).

Tiền sử gia đình bị nôn tái phát cần phải được ghi nhận.

Các dấu hiệu sinh tồn cần đặc biệt lưu ý là có sốt và các dấu hiệu giảm thể tích máu (ví dụ: nhịp tim nhanh, hạ huyết áp, hoặc cả hai).

Khám toàn thân cần phải tìm xem có vàng da và ban không.

Khi khám bụng, bác sĩ lâm sàng cần phải tìm dấu hiện căng giãn bụng, các vết sẹo mổ; nghe xem có âm thanh và chất lượng của nhu động ruột (ví dụ: bình thường, cao); gõ xem có bụng chướng không; và sờ để xác định chỗ nhạy cảm đau, các dấu hiệu phúc mạc (ví dụ: phản ứng thành bụng, co cứng thành bụng, phản ứng dội (cảm ứng phúc mạc) và bất kỳ khối nào, cơ quan tăng kích thước, hoặc thoát vị không. Khám trực tràng và khám tiểu khung (đối với phụ nữ) xác định vị trí đau khi sờ vào, các khối, và có máu hay không là rất cần thiết.

Khám thần kinh đặc biệt cần phải lưu ý trạng thái tâm thần, rung giật nhãn cầu, viêm màng não (ví dụ: gáy cứng, dấu hiệu Kernig hoặc dấu hiệu Brudzinski) và các dấu hiệu thị giác trong tăng áp lực nội sọ (ví dụ: phù gai thị, mất nhịp đập tĩnh mạch, liệt dây thần kinh sọ não số 3) hoặc xuất huyết dưới nhện (xuất huyết võng mạc).

Những phát hiện sau đây cần được quan tâm đặc biệt:

  • Dấu hiệu giảm thể tích máu
  • Đau đầu, gáy cứng, hoặc thay đổi trạng thái tâm thần
  • Dấu hiệu phúc mạc
  • Bụng trướng, gõ vang như trống

Nhiều dấu hiệu gợi ý về một nguyên nhân hoặc một nhóm nguyên nhân (xem bảng ).

Nôn xảy ra khi nghĩ đến thức ăn hoặc không liên quan đến ăn uống theo thời gian gợi ý nguyên nhân do tâm lý, cũng như tiền sử cá nhân hoặc gia đình bị buồn nôn và nôn cơ năng. Bệnh nhân cần phải được hỏi về mối liên quan giữa nôn và các biến cố căng thẳng vì họ có thể không nhận ra hoặc thậm chí chấp nhận cảm giác đau buồn vào những thời điểm đó.

Tất cả phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ nên làm xét nghiệm nước tiểu thử thai. Bệnh nhân bị nôn dữ dội, nôn kéo dài hơn 1 ngày, hoặc có dấu hiệu mất nước khi khám cần phải được làm các xét nghiệm khác (ví dụ: điện giải, urea nitrogen máu, creatinine, glucose, phân tích nước tiểu, đôi khi là các xét nghiệm về gan). Bệnh nhân có dấu hiệu báo động đỏ nên được xét nghiệm phù hợp với các triệu chứng (xem bảng ).

Đánh giá nôn mạn tính thường bao gồm các xét nghiệm được liệt kê ở trên cộng với nội soi đường tiêu hóa trên, X-quang ruột non và các kiểm tra để đánh giá quá trình làm trống dạ dày và nhu động của hang vị - tá tràng.

Điều trị tình trạng cụ thể, bao gồm bù nước. Ngay cả khi không bị mất nước đáng kể, điều trị bằng truyền dịch đường tĩnh mạch (1 L dung dịch muối sinh lý 0,9%, hoặc 20 mL/kg ở trẻ em) thường dẫn đến giảm các triệu chứng. Ở người lớn, nhiều thuốc chống nôn có hiệu quả ( xem Bảng: ). Lựa chọn thuốc thay đổi theo nguyên nhân và mức độ nặng của các triệu chứng. Thường là dùng theo các hướng dẫn sau:

  • Say tàu xe: Thuốc kháng histamine, miếng dán scopolamine hoặc cả hai
  • Các triệu chứng nhẹ đến trung bình: Prochlorperazine, promethazine hoặc metoclopramide
  • Nôn dữ dội hoặc khó chữa và nôn do hóa trị liệu: Thuốc đối kháng 5-HT3, thuốc đối kháng thụ thể neurokinin-1 (ví dụ: aprepitant)

Chỉ nên dùng các thuốc theo đường tĩnh mạch hoặc dưới lưới trên những bệnh nhân nôn liên tục.

Đối với nôn do tâm lý, trấn an cho thấy nhận thức về cảm giác khó chịu của bệnh nhân và mong muốn làm điều gì đó để làm giảm các triệu chứng, bất kể nguyên nhân nào. Cần phải tránh những bình luận như "không có vấn đề gì cả" hoặc "vấn đề chỉ là cảm xúc thôi". Có thể thử điều trị triệu chứng trong thời gian ngắn bằng thuốc chống nôn. Nếu xử trí trong thời gian dài là cần thiết, điều trị hỗ trợ, đi khám thường xuyên có thể giúp giải quyết vấn đề bên trong.

Chóng váng nhưng không buồn nôn là bệnh gì năm 2024

Nhiều đợt buồn nôn và nôn có nguyên nhân rõ ràng và khám không phát hiện bất thường và chỉ cần điều trị triệu chứng.