Bình luận về hiện tượng chệch hướng thương mại trong các khu vực thương mại tự do và các biện pháp hạn chế hiện tượng này, đồng thời liên hệ với ASEANBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.84 KB, 3 trang ) Show
Bài làm Như vậy có thể thấy chệch hướng thương mại là một hiện tượng ảnh hưởng tiêu cực tới sự hợp tác và phát triển giữa các quốc gia. Nó là hiện tượng mà các quốc gia đều không mong muốn. Để điều chỉnh vấn đề này, các nước thành viên phải có khả năng phân biệt có hiệu quả giữa hàng hóa có nguồn gốc từ khu vực mậu dịch tự do và từ nước khác (thông qua việc kiểm tra chi tiết chứng từ chứng minh xuất xứ của hàng hóa nước nhập khẩu). Nhưng các nhà sản xuất từ ngoài khu vực vẫn có thể né tránh thuế quan cao bằng cách xây dựng nhà máy thực hiện công đoạn cuối cùng của quy trình sản xuất ở nước thành viên có thuế quan thấp, sau đó xuất khẩu sang các nước thành viên khác có thuế quan cao hơn. Vấn đề này cũng xảy ra đối với PTC (Câu lạc bộ thương mại ưu đãi) khi các nước thành viên không có chung đối với thuế quan với bên ngoài. Nhưng do mậu dịch giữa các nước thành viên không hoàn toàn tự do, vì thuế quan chỉ được cắt giảm một phần – nên động lực kích thích né tránh hệ thống này không biểu hiện rõ như ở khu vực mậu dịch tự do. Do vậy khi tiến hành liên kết khu vực ở hai hình thức này, các quốc gia thành viên sẽ phải tìm những giải pháp hữu ích cho việc kiểm soát hàng hóa từ bên ngoài khu vực liên kết như cần có các quy định về xuất xứ hàng hóa. Quy tắc xuất xứ được hiểu là tập hợp những quy định của pháp luật và quyết định hành chính để xác định quốc gia được coi là đã sản xuất ra hàng hóa. Để giải quyết triệt để hiện tượng chệch hướng thương mại cần nâng cấp Khu vực thương mại tự do lên hình thức liên kết kinh tế Liên minh thuế quan (CU). Hai hay nhiều nước thành lập liên minh thuế quan khi các nước này bãi bỏ toàn bộ thuế nhập khẩu đối với tất cả các hàng hóa mua bán với nhau và thêm vào đó, thống nhất quy tắc đánh thuế nhập khẩu chung đối với hàng hóa bên ngoài. Do có sự thống nhất về thuế quan đối với bên ngoài nên sẽ không nảy sinh hiện tượng mậu dịch chệch hướng như trong khu vực mậu dịch tự do. Một khu vực thương mại tự do được thiết lập đồng nghĩa với việc không chỉ hàng hóa mà các yếu tố sản xuất (vốn, lao động…) cũng được di chuyển một cách linh hoạt giữa các quốc gia trong khu vực. Về mặt lý thuyết, điều này góp phần tăng sự chuyên môn hóa trong khu vực, mỗi quốc gia sẽ tập trung sản xuất những hàng hóa mà mình có lợi thế so sánh với chi phí thấp nhất. Trao đổi thương mại nội khối được đẩy mạnh và phúc lợi của các quốc gia trong khu vực tăng lên. Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) là một hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương giữa các nước trong khối ASEAN. Theo đó, sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan xuống 0-5%, loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài hòa hóa thủ tục hải quan giữa các nước. Đối với AFTA, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng có quá ít tác động tích cực lên nền kinh tế, hơn nữa tham gia vào AFTA lại làm chệch hướng thương mại, nghĩa là thay những nhà xuất khẩu hiệu quả bằng những nhà xuất khẩu kém hiệu quả hơn trong khu vực hiệp định thương mại tự do. Do đó, trong quá trình đàm phán để ký kết các FTA, các nước trong khu vực cần có những nghiên cứu thận trọng đặc điểm của các nước tham gia ký kết và nội hàm của các FTA để làm cho quá trình tạo ra thương mại nhiều hơn là chệch hướng thương mại. Tính trung bình một nước trong ASEAN tham gia 4-5 hiệp định thương mại tự do (đa phương và song phương), nó có thể đem lại lợi ích kinh tế cho các quốc gia này nhưng đồng thời cũng tăng nguy cơ rạn nứt kết cấu của khối, tăng sự phụ thuộc của khối vào bên ngoài. Nói cách khác nó làm xuất hiện hiện tượng ly tâm trong ASEAN. Để xác định hàng hóa được hưởng ưu đãi thương mại trong AFTA đồng thời nhằm tránh hiện tượng chệch hướng thương mại quy tắc xuất xứ hàng hóa được xây dựng thành một trong các chế định pháp lí chính của AFTA. Khoản 1 Điều 22 ATIGA quy định: “Các sản phẩm mà thuế quan của quốc gia thành viên xuất khẩu đã đạt hoặc ở mức 20% hoặc thấp hơn, và đáp ứng được các quy định về quy tắc xuất xứ như được quy định tại Chương 3 (về quy tắc xuất xứ), sẽ tự động được hưởng cam kết thuế quan của quốc gia thành viên nhập khẩu”. Hiện nay, do nhiều sản phẩm hàng hóa được sản xuất theo các công đoạn khác nhau, mỗi công đoạn được thực hiện ở các quốc gia khác nhau nhờ tận dụng các lợi thế liên quan của quốc gia đó (như nhân công, nguyên vật liệu, công nghệ…) nên trong nhiều trường hợp, các quốc gia và các khu vực nhập khẩu cần xác định được xuất xứ chính thức của loại hàng hóa này. Cũng có thể hạn chế hiện tượng chệch hướng thương mại bằng việc các nước tham gia FTA giảm thuế quan đối với các nước ngoài khu vực vì mặc dù thuế nhập khẩu được coi là công cụ bảo hộ hữu hiệu, nhưng trong nền kinh tế phát triển đa dạng như hiện nay thì việc bảo hộ chỉ mang tính chất trực tiếp đối với các ngành sản xuất các mặt hàng đó nhưng lại là gánh nặng (làm tăng chi phí) đối với các ngành sử dụng các mặt hàng này để làm nguyên liệu đầu vào cho khâu sản xuất kinh doanh. Và nếu như mặt hàng đó được nhiều ngành trong nền kinh tế sử dụng thì việc bảo hộ có thể sẽ tích cực hơn đối với các ngành này, nhưng sẽ tạo nên sự bảo hộ “âm” (tăng chi phí) đối với một số ngành khác hoặc đối với toàn bộ nền kinh tế. Tài liệu tham khảo 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Trung tâm Luật châu Á – Thái Bình Dương, Tập bài giảng pháp luật cộng đồng ASEAN, Hà Nội, 2011; 2. ASEAN Secretariat, http://www.aseansec.org/; 3. Singapore’s FTA Official Website, http://www.iesingapore.gov.sg/; 4. Thông cáo báo chí ASEAN Secretary General http://www.aseansec.org/21496.htm; 5. Tạp chí phát triển kinh tế số 220 tháng 2 năm 2009. bình luận về hiện tượng chệch hướng thương mại trong khu vực thương mại tự do, các biện pháp hạn chế hiện tượng này, đồng thời liên hệ với ASEANBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.04 KB, 4 trang ) MỞ BÀI xâm nhập vào nước có thuế quan cao thông qua các nước có thuế quan thấp trong khu vực và hiện tượng này được gọi là chệch hướng thương mại (trade deflection). Các nước thành viên FTA có quyền áp những mức thuế khác nhau, miễn là không cao hơn mức trần của WTO. Chính vì mức thuế của các nước thành viên đưa ra khác nhau nên có nguy cơ tạo ra chệch hướng thương mại. Khi hiện tượng này xuất hiện, có tác động tiêu cực tới các ngành sản xuất có hàng xuất nhập khẩu của quốc gia thành viên. Khác với tạm nhập tái xuất, nước tạm nhập hàng hóa không những thu được một lần lợi nhuận từ thuế nhập khẩu mà còn thu được lợi nhuận khi bán hàng sang nước nhập khẩu, khi xảy ra hiện tượng chệch hướng thương mại, quốc gia có thuế quan thấp hơn thường chỉ thu được lợi nhuận nhập khẩu; việc xuất khẩu mặt hàng cùng loại (do quốc gia ấy tự sản xuất) sang nước có thuế quan cao hơn phải chia sẻ hạn nghạch với mặt hàng có nguồn gốc xuất xứ từ nước thứ ba bên ngoài khu vực. Các nhà sản xuất từ ngoài khu vực né tránh thuế quan cao bằng nhiều cách như xây dựng nhà máy thực hiện công đoạn cuối cùng của quy trình sản xuất ở nước thành viên có thuế quan thấp, sau đó xuất sang các nước thành viên khác có thuế quan cao hơn. Mặc dù các nước này đã có những biện pháp về quản lý, kiểm tra chứng từ chứng minh xuất xứ của hàng hóa nhập khẩu. Điều này gây nên sự bất công bằng trong hoạt động thương mại và ảnh hưởng tới quốc gia thành viên và các quốc gia trong khối. Đồng thời, khi xuất hiện hiện tượng chệch hướng thương mại khiến các ngành xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh không phát huy được hiệu quả. Làm ảnh hưởng tới sự đoàn kết trong khối FTA. Đó là sự cạnh tranh, của doanh nghiệp trong nước thành viên với nước ngoại khối nếu nước thành viên là nước kém phát triển hơn nước ngoại khối có thể doanh nghiệp trong nước sẽ bị phá sản… . 2. Biện pháp hạn chế hiện tượng “chệch hướng thương mại” trong khu vực thươg mại tự do FTA Để giảm nguy cơ chệch hướng thương mại các quốc gia cần áp dụng nguyên tắc ROO cho từng trường hợp cụ thể (quy tắc xuất xứ), có nghĩa là chỉ những hàng hóa nào thỏa mãn các điều kiện đưa ra thì mới được hưởng mức thuế ưu đãi. Các quốc gia thành viên phải tăng cường hoạt động quản lý, kiểm tra một cách chặt chẽ, phân biệt hiệu quả giữa hành hóa có nguồn gốc thương mại tự do và từ nước khác (thông qua việc kiểm tra chứng từ chứng minh xuất xứ của hàng hóa nhập khẩu). Đưa ra các chính sách nhằm khắc phục hiện tượng này như: các quốc gia thành viên tăng cường xuất khẩu, ngoài ra cần nghiên cứu phương án sử dụng các FTA khác để “lấy độc trị độc” như thực hiện đàm phán các FTA song phương. Mở cửa thị trường cho hàng hóa và dịch vụ cho các đối tác khác (đối tác có sức cạnh tranh cao, ngoại khối) để gia tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường, giúp kiềm chế bớt nhập siêu từ các đối tác này. 3. Liên hệ với ASEAN Để đối phó với điều kiện hoàn cảnh và những thách thức xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, năm 1992 theo sang kiến của Thái Lan, Hội nghị thượng đỉnh ASEAN họp tại Singapore đã quyết định thành lập một khu vực mậu dịch Tự do ASEAN ( AFTA). Với nhiều mục tiêu, nội dung cũng như chưa đựng những kỳ vọng về một sự phát triển mạnh mẽ, hội nhập sâu hơn của kinh tế các nước ASEAN vào nền kinh tế thế giới. AFTA đã hình thành nên các hệ thống quan hệ song phương để thúc đẩy cho cả hệ thống cùng tiến tới mục tiêu chung, cụ thể là tháng 10/2003 Hội nghị ở Bali, các lãnh đạo ASEAN đã đồng ý hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) nhằm tiến tới loại bỏ hoàn toàn thuế quan và các hàng rào phi thuế (NTBs) vào năm 2020, hướng đến một thị trường chung ASEAN. Đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển trong ASEAN, nếu đứng ngoài hoặc chậm chân với xu thế này, các nước sẽ phải chịu sự phân biệt đối xử và nguy cơ đối mặt với hiệu ứng chệch hướng thương mại khiến các ngành xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh không phát huy được hiệu quả. Vì vậy, việc tham gia các FTA tạo điều kiện mở rộng xuất khẩu, đồng thời tạo sức ép để các nước trên tăng cường hiệu quả sản xuất, năng lực cạnh tranh, cải cách, hoàn thiện hệ thống pháp lý cho phù hợp với chuẩn mực quốc tế. KẾT LUẬN Với lợi thế duy trì được tính độc lập tương đối của các thành viên, FTA là mô hình liên kết kinh tế được nhiều khu vực lựa chọn. Tuy nhiên nó cũng không thể tránh khỏi được một số hệ lụy không mong muốn như hiện tượng chệch hướng thương mại. vì vậy cần được các quốc gia thàn viên quan tâm hạn chế hiện tượng này nhằm tạo một khu vực thương mại tự do lành mạnh thúc đẩy kinh tế phát riển. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Pháp luật cộng đồng ASEAN trường Đại Học Luật Hà Nội. 2. Giáo trình quan hệ kinh tế quốc tế, Trương Đại Học Luật Hà Nội 3. Tự do hóa thương mại trong khuôn khổ hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á – ASEAN – khóa luận tốt nghiệp, Lại Ngọc Thanh 2011. 4. FTA song phương của các nước ASEAN và tác động đến cộng đồng kinh tế ASEAN và cộng đồng ASEAN/ PGS.TS. Hoàng Thị Thanh Nhàn 2008. 1. Cơ sở lí luận chung1.1. Khu vực thương mại tự doKhu vực thương mại tự do (FTA) hay còn gọi là khu vực mậu dịch tự do, được hình thành khi hai hay nhiều nước thực hiện việc bãi bỏ tất cả thuế xuất nhập khẩu và hạn chế phi thuế quan đối với thương mại hàng hóa qua lại giữa các nước này nhưng vẫn giữ nguyên thuế quan đối với các nước khác. TÓM TẮTBài viết nghiên cứu các vấn đề pháp lý của hiện tượng chệch hướng thương mại phát sinh từ quy tắc xuất xứ ưu đãi chặt chẽ, thông qua việc phân tích các quy tắc xuất xứ đối với hàng dệt may trong khuôn khổ hiệp định ban hành bởi ASEAN và các hiệp định thương mại ASEAN ký kết với quốc gia ngoại khối. Từ đó, bài viết kiến nghị ban hành quy định chi tiết trong khuôn khổ WTO về quy tắc xuất xứ ưu đãi và chệch hướng thương mại, cũng như học hỏi kinh nghiệm của Liên minh châu Âu về việc vận dụng quy tắc cộng gộp. Xem thêm:
TỪ KHÓA: ASEAN,Chệch hướng thương mại, Pháp luật thương mại Asean,Quy tắc xuất xứ ưu đãi, Tổ chức thương mại thế giới,WTO Xem thêm tài liệu liên quan:
Khu vực tự do mậu dịch (Free Trade Area, FTA) được hình thành trên nguyên tắc hàng hóa, dịch vụ của các quốc gia thành viên phải được hưởng các chế độ tiếp cận thị trường ưu đãi đặc biệt để qua đó xúc tiến hoạt động thương mại nội khối. Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay, khi quá trình sản phẩm các sản phẩm hàng hóa có thể trải qua nhiều công đoạn sản xuất tại nhiều quốc gia, việc xác định xuất xứ của sản phẩm được coi là trọng tâm của FTA. Các quy tắc xuất xứ được quy định rất chặt chẽ nhằm hạn chế những hành vi “vượt rào” của các doanh nghiệp ngoài khu vực tự do mậu dịch nhằm hưởng ưu đãi của FTA. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các quy tắc xuất xứ hàng hóa ưu đãi đối với một số sản phẩm, điển hình là hàng dệt may, khi được xây dựng quá chặt chẽ lại có thể dẫn đến hiện tượng chệch hướng thương mại. Theo đó, các quốc gia có khuynh hướng thay thế các nhà xuất khẩu cung cấp nguyên vật liệu truyền thống và hiệu quả bằng các nhà xuất khẩu của các thành viên FTA để được hưởng ưu đãi khi thỏa mãn yêu cầu về xuất xứ hàng hóa do các FTA định ra. Đây cũng là một trong những vấn đề tồn đọng trong hệ thống quy tắc xuất xứ hàng hóa của ASEAN, triệt tiêu những thỏa thuận tự do hóa thương mại của chính ASEAN và WTO. Về lâu dài, hiện tượng này có thể tác động không nhỏ tới hiệu quả kinh tế và tính cạnh tranh của ngành công nghiệp dệt may của quốc gia thành viên ASEAN, trong đó có Việt Nam. Bài viết phân tích các vấn đề trên thông qua việc nghiên cứu các quy định xuất xứ hàng hóa của ASEAN và một số hiệp định hương mại mà ASEAN ký kết với các quốc gia ngoại khối, trong mối tương quan với quy định của WTO. Bên cạnh đó, bài viết cũng sẽ tìm hiểu kinh nghiệm về việc ban hành bộ quy tắc xuất xứ của các khu vực tự do mậu dịch khác, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện và gia tăng hiệu quả của các quy tắc xuất xứ về dệt may của ASEAN. |