Bài học về văn bản văn học trong sách Ngữ văn 6 Cánh Diều chiếm tỉ lệ bao nhiều

Câu hỏi thường gặp

NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA BỘ SÁCH GIÁO KHOA

1. Mỗi bộ sách giáo khoa thường có tư tưởng/triết lý nhất quán và đó cũng là đặc trưng phân biệt các bộ sách khác nhau, vậy triết lý/tư tưởng xuyên suốt của bộ sách này là gì?

Tư tưởng xuyên suốt của bộ sách là lấy hoạt động học của học sinh làm trung tâm: học tích cực, học hợp tác, học để vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Bộ sách này được biên soạn đáp ứng các yêu cầu chung đối với tất cả SGK mới. Nhưng có những điểm nhấn riêng thể hiện qua thông điệp Cùng học để phát triển năng lực. Với thông điệp này, các tác giả thể hiện quan điểm đổi mới SGK theo mô hình phát triển phẩm chất và năng lực của người học, nhưng không xem nhẹ vai trò của kiến thức.
Kiến thức trong SGK là chất liệu quan trọng nhắm đến mục tiêu của giáo dục là giúp HS hình thành, phát triển các phẩm chất và năng lực mà các em cần có để sống và làm việc trong bối cảnh mới của đất nước và nhân loại.
Bộ SGK này chú trọng việc hình thành năng lực tự học cho HS qua việc cung cấp thông tin sự kiện, tình huống thực tế, để học sinh dễ dàng tiếp nhận thông tin, thực hiện các nhiệm vụ học tập (thông qua các hoạt động học). Từ quá trình đó, HS tự rút ra tri thức và thực hành tạo ra các sản phẩm học tập.
Sau những bài tập hoặc thực hành giải quyết vấn đề, HS sẽ có khả năng phát triển năng lực giải quyết vấn đề trong cuộc sống.
Nội dung mỗi bài trong SGK được thiết kế dưới dạng các hoạt động học, giúp HS chủ động thực hiện hoạt động học tập: học cá nhân, học hợp tác (cặp đôi, nhóm hoặc cả lớp) dưới sự tổ chức hướng dẫn và đánh giá của GV. Việc này tạo điều kiện cho HS phát triển các năng lực cần thiết, trong đó có năng lực hợp tác một trong những năng lực quan trọng của công dân thế kỷ XXI.

2. Hiểu thế nào cho đúng về bộ sách giáo khoa có tên gọi Cùng học để phát triển năng lực?

Tên của bộ sách nói lên cách học (sách, HS, GV cùng đồng hành trong quá trình học) và mục đích của việc học (nhằm phát triển các phẩm chất và năng lực cần thiết của học sinh để trở thành công dân có ích cho x. hội).

Bộ sách Cùng học để phát triển năng lực giúp HS thay đổi cách học, từ học thụ động sang học chủ động tích cực, chuyển việc thuần túy tiếp thu kiến thức sang việc kiến tạo và vận dụng kiến thức.

Bộ sách với tên gọi Cùng học để phát triển năng lực, là sự nhấn mạnh yếu tố mới phát triển năng lực HS (nhấn mạnh năng lực, nhưng không tách rời phẩm chất. Năng lực ở đây bao hàm cả phẩm chất và năng lực). Bộ sách đảm bảophát triển phẩm chất và năng lựccủa HS thông qua hệ thống kiến thức tự nhiên, x. hội, thiết thực và hiện đại, chú trọng thực hành, vận dụng để giải quyết các vấn đề trong học tập và đời sống. Các bài học đều chú trọng cải thiện hiệu quả việc học và vận dụng kiến thức môn học vào thực tiễn và các môn khoa học khác.

3. Nhiều người cho rằng đây là bộ sách VNEN, có đúng không?

Nếu xét về góc độ tiếp cận lấy hoạt động học của HS làm trung tâm thì hai bộ sách có cùng quan điểm.

Mô hình trường học mới và một số mô hình giáo dục của các nước tiên tiến đều lấy hoạt động học của HS làm trung tâm trong việc dạy học. Bộ sách Cùng học để phát triển năng lực cùng chung cách tiếp cận đó. Nhưng với lợi thế đi sau, nên bộ sách Cùng học để phát triển năng lực chỉ kế thừa những ưu điểm của cách tổ chức dạy học tích cực của mô hình trường học mới cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, có những điều chỉnh cần thiết để khắc phục các hạn chế, đảm bảo phù hợp với điều kiện dạy học ở Việt Nam.

Bộ sách Cùng học để phát triển năng lực chú trọng việc dạy học tích cực. Trong đó, SGK thể hiện nội dung qua hệ thống các hoạt động học, sách giáo viên (SGV) hướng dẫn tổ chức các hoạt động học, với cách thiết kế bài học phù hợp cho việc tự học, gắn liền với các tình huống thực tế, nhằm phát triển năng lực giải quyết vấn đề của HS.

4. Những điểm mới của bộ sách là gì? Điều gì đảm bảo đây là bộ sách tốt, phù hợp với yêu cầu của Chương trình giáo dục phổ thông mới?

Trong quá trình nghiên cứu và biên soạn, chúng tôi đặt ra các yêu cầu cơ bản, chú trọng những điểm mới riêng biệt theo tư tưởng, triết lý của bộ sách. Cụ thể,SGK phải thỏa mãn các yêu cầu cơ bản:

Là một phát triển từ Chương trình môn học, đặt trọng tâm vào việc phát triển năng lực, phẩm chất, phát triển những kĩ năng môn học cơ bản và phụ trợ giúp cho mọi học sinh thành công trong học tập;

Là một bộ sách giáo khoa trình bày một cách tường minh, cô đọng toàn bộ chuẩn kiến thức kĩ năng môn học theo chương trình giáo dục phổ thông mới;

Là một chương trình thích hợp với mọi trình độ, trong đó các vấn đề được tích hợp hoàn hảo, dễ cho việc quản lí dạy học, có thể điều chỉnh bổ sung cho phù hợp.

Là một kế hoạch học tập có hướng dẫn từng bước, có tính hệ thống cao, dễ cho việc tự học của HS, dễ cho việc tổ chức dạy học của giáo viên; dễ dàng thực hiện một cách có hiệu quả ở bất kì lớp nào;

Bộ sách có một thiết kế tổng thể khoa học và thống nhất. Mỗi cuốn sách giáo khoa phải là một tác phẩm đẹp, thiết kế mĩ thuật hiện đại, hấp dẫn, thân thiện với học sinh.

Theo đó,Bộ sách Cùng học để phát triển năng lực đã được biên soạn ở lớp 1 có 6 ưu điểm nổi bật:

1.Mức độ tiếp cận kiến thức hợp lý, vừa đáp ứng yêu cầu của Chương trình, vừaphù hợp với sức học của đại đa số học sinh ở tất cả các vùng miền, đảm bảo sựthân thiện, gần gũi với mọi học sinh, giáo viên.

Ở mỗi môn học, sách bảo đảm sự hài hoà giữa các hoạt động hình thành kiến thức, rèn kỹ năng với hoạt động thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống của HS.

Bộ sách bảo đảm sự liên thông giữa các lớp học và sự kết nối giữa các môn học.

2. Sách dễ sử dụng, phù hợp cho việc tự học của học sinh, cho việc giảng dạy linh hoạt của giáo viên và cho việc theo dõi, phối hợp của phụ huynh học sinh.

Việc phát triển từ chương trình đến sách giáo khoa được nghiên cứu và thực hiện một cách bài bản, khoa học, để đảm bảo rằng SGK phải dễ sử dụng, hấp dẫn và phù hợp để HS tự học hiệu quả.

Bộ sách có tính kế thừa những yếu tố tích cực của SGK hiện hành và tiếp thu tính hiện đại của các nền giáo dục tiên tiến, nhằm tạo điều kiện để HS rèn luyện cách học và hỗ trợ đắc lực cho giáo viên giảng dạy theo chương trình mới và cập nhật kiến thức.

3.Sách có độ mở thích hợp, thuận tiện cho việc cập nhật thông tin và bổ sung kiến thức theo vùng miền, theo định hướng nghề nghiệp của học sinh.

Bộ sách được biên soạn linh hoạt theo cách mà GV có thể vận dụng tùy theo đặc điểm của trường học hoặc địa phương của họ. SGK không phải là tài liệu duy nhất cần tuân thủ, mà được xem như một minh họa của quan điểm tích hợp của chương trình.

4.Bộ sách góp phần đổi mới phương pháp dạy và học; giúp học sinh thực hiện nhiệm vụ học hiệu quả, giúp GV tổ chức tốt các hoạt động học tập của HS cũng như các hoạt động kiểm tra, đánh giá học tập của HS.

Bộ sách được viết theo tiếp cận phát triển năng lực khác với sách giáo khoa hiện hành chủ yếu được biên soạn theo tiếp cận nội dung. Do đó các bài học được thiết kế theo mô hình hoạt động. Các tác giả SGK biên soạn nội dung, thiết kế các thí nghiệm, thực hành dưới dạng các hoạt động học, giúp cho các em hình thành, phát triển khả năng vận dụng sáng tạo.

5.Bộ sách có Thiết kế mĩ thuật tổng thể, nhất quán và khoa học. Mỗi cuốn sách có thiết kế mỹ thuật đẹp, hấp dẫn, hiện đại; dễ dàng sử dụng cho mỗi HS.

6. Bộ sách là một bộ tài liệu dạy học hoàn chỉnh, bao gồm: sách giấy (sách giáo khoa, sách bài tập, sách giáo viên); Thiết bị, đồ dùng dạy học; Sách mềm (sách điện tử) : việc dạy học được hỗ trợ bởi hệ thống phần mềm và học liệu điện tử dành cho HS và GV (Hệ thống này giúp nâng cao hiệu quả dạy học, đáp ứng kì vọng của GV, HS và phụ huynh).

Với những đặc trưng nói trên, chắc chắn bộ sách sẽ đáp ứng tốt các yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới.

5. Bộ sách giáo khoa nói chung và sách giáo khoa mỗi môn học nói riêng đều xác định nhóm đối tượng sử dụng chính hoặc một khu vực để phát hành. Vậy với bộ sách Cùng học để phát triển năng lực, Ban soạn thảo hướng đến đối tượng nào, mô h.nh giáo dục nào, địa phương, vùng miền nào là chủ yếu?

Vì SGK Cùng học để phát triển năng lực bám sát mục tiêu, yêu cầu của Chương trình giáo dục phổ thông mới do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về nội dung kiến thức, yêu cầu về phát triển phẩm chất và năng lực, đồng thời đảm bảo tính kế thừa, tính hiện đại và có độ mở thích hợp, nên bộ sách này có thể phát hành rộng rãi trên toàn quốc, không phân biệt đối tượng hay vùng, miền.

6. Cấu trúc bộ sách giáo khoa này có gì khác biệt so với sách giáo khoa trước đây?

Sự khác biệt rõ nét nhất được thể hiện qua cấu trúc từng bài học. Theo đó, nội dung mỗi bài học được thể hiện qua các hoạt động học.

Cụ thể, sự khác biệt thể hiện ở các mặt sau:

1. Sách giáo khoa mới được xây dựng trên quan điểm tích hợp. Ở mỗi lớp, nội dung chương trình được phân chia thành những chủ đề. Mỗi chủ đề (gồm một số bài) tích hợp những kiến thức, kĩ năng, phương pháp, hướng tới hình thành và phát triển một số năng lực cốt yếu.

2. Mô hình cấu trúc sách giáo khoa Cùng học để phát triển năng lực là mô hình hoạt động.Cấu trúc SGK của từng môn học bao gồm các phần (mỗi phần gồm một số chủ đề và bài ôn tập cuối phần); mỗi chủ đề gồm một số bài học, bài ôn tập cuối chủ đề (gồm: Tóm tắt tổng hợp kiến thức, kĩ năng đã học và Hệ thống câu hỏi/bài tập ôn tập). Để xây dựng mô hình cấu trúc các bài học, trước hết cần xác định xem cuốn sách có bao nhiêu dạng bài. Về cơ bản, thường có các dạng bài sau: Bài hình thành kiến thức/kĩ năng/phương pháp mới; Bài thực hành/luyện tập/ôn tập; Dự án; Hoạt động trải nghiệm; Bài đọc thêm; Bài Ôn tập chủ đề,

Nội dung kiến thức trong mỗi bài học được thể hiện qua 4 bước, phù hợp với quá trình nhận thức: Bắt đầu từ một tình huống điển hình mô hình hoá để hình thành kiến thức/kĩ năng mới thực hành, vận dụng kiến thức/kĩ năng mới với những tình huống tương tự trong thực tế.

Mỗi bước được thiết kế dưới dạng những hoạt động học tập. Tùy theo đặc điểm môn học, cấp học mà có những loại hình hoạt động học tập khác nhau. Các tác giả SGK đã nghiên cứu xác định các loại hình hoạt động thích hợp. Sử dụng loại hình hoạt động này, có thể diễn đạt nội dung cho phù hợp.

3. Có thiết kế mĩ thuật tổng thể của bộ sách cho từng cấp học.Đảm bảo sự nhất quán về cấu trúc bộ sách từ lớp 1 đến lớp 12, nhằm giúp học sinh sử dụng bộ sách một cách dễ dàng, nhất là khi học sinh tự học hoặc tự ôn tập. Đây cũng là sự khác biệt đáng chú ý của bộ sách mới so với bộ sách trước đây.

7. Sách giáo khoa mới chú trọng tương tác giữa học sinh với sách, học sinh với nhau và học sinh với giáo viên như thế nào?

Chúng tôi rất quan tâm đến tính tương tác giữa học sinh với sách, học sinh với nhau và với giáo viên khi thiết kế SGK cũng như SGV thể hiện ở các chuỗi hoạt động. Ở đó, học sinh được làm việc với sách, có sự tương tác, hợp tác với bạn trong cặp đôi, nhóm hoặc tương tác với giáo viên. Ngoài ra, hệ thống sách mềm (học liệu điện tử) cũng tạo điều kiện tích cực và hiệu quả cho cách học này. Cụ thể là:

Tương tác giữa học sinh với SGK.SGK là tài liệu gợi mở, giúp người học tự ôn luyện, tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả học tập. Học sinh có thể phản hồi, góp ý với Ban biên soạn về bất cứ nội dung nào có trên học liệu điện tử và phần mềm.

Tương tác giữa học sinh với học sinh.Theo đó, học sinh có thể chia sẻ, thảo luận trao đổi các nội dung liên quan đến bài học.

Tương tác giữa học sinh với giáo viên.Thông qua việc tổ chức các hoạt động học, giáo viên trao đổi, hướng dẫn học sinh thực hiện có hiệu quả các hoạt động học tập. Ngoài ra, hệ thống phần mềm quản trị lớp học ảo kết nối với hệ thống học liệu điện tử giúp giáo viên giao bài, kiểm tra, chấm bài, theo dõi kết quả học tập của học sinh trực tuyến. Theo đó, phụ huynh có thể theo dõi được tình hình học tập của con em mình, trao đổi với giáo viên,

8. Trong chương trình, sách giáo khoa hiện hành, điểm hạn chế là kiến thức hàn lâm, khó hiểu còn nhiều. Đặc biệt ở bậc tiểu học chưa chú trọng đến tâm lý lứa tuổi, chưa gần gũi với đối tượng học sinh nhỏ tuổi. Vậy khi soạn thảo sách giáo khoa mới, nhược điểm này được khắc phục thế nào ở bộ sách giáo khoa cho tiểu học?

Yêu cầu về nội dung kiến thức đã được Ban soạn thảo chương trình chú ý thay đổi cho phù hợp với lứa tuổi trong Chương trình mới. Để hạn chế những điểm yếu của sách hiện hành, chúng tôi chú trọng cách hình thành kiến thức. Mỗi kiến thức mới bao giờ cũng được rút ra thông qua các hoạt động khởi động và hoạt động khám phá dựa trên những tình huống cụ thể, điển hình, gần gũi với từng lứa tuổi. Các hoạt động luyện tập và vận dụng cũng tuân thủ theo quy tắc phù hợp với lứa tuổi, hợp với thời đại.

9. Hình thức của bộ sách giáo khoa mới có những ưu điểm gì về thẩm mỹ, về tiện ích và chú ý đến sức khỏe học đường?

Bộ sách đã có thiết kế mĩ thuật tổng thể, có logo, nhất quán, khoa học và hoàn thiện, đảm bảo sự cân đối, hài hòa giữa kênh chữ và kênh hình.

Bộ sách được in nhiều màu với các hình ảnh sinh động. Bìa sách và giấy in có chất lượng để có thể dùng trong nhiều năm. Khổ chữ phù hợp với từng lứa tuổi để HS dễ đọc, không ảnh hưởng đến mắt. Trọng lượng mỗi cuốn sách không nặng, đặc biệt những cuốn cho HS tiểu học để giảm tải trọng lượng cặp sách khi HS đến trường.

10. Sách bài tập và sách giáo viên được biên soạn như thế nào để hỗ trợ việc sử dụng sách giáo khoa trong quá trình dạy học?

Sách bài tập dành cho những học sinh có nhu cầu luyện tập, phát triển thêm kiến thức/kĩ năng đã học. Khi viết SGK, các tác giả đã xác định được những kiến thức, kĩ năng nào cần luyện tập, phát triển và mức độ phát triển chúng. Điều này là cần thiết để phát triển năng lực cần có của mỗi cá nhân.

SGV mới kế thừa các ưu điểm của SGV hiện hành, đồng thời có những khác biệt, những điểm mạnh hỗ trợ cho giáo viên khi sử dụng bộ SGK này. Cụ thể theo mô hình hoạt động, SGK thiết kế các hoạt động học của học sinh, còn SGV hướng dẫn cách tổ chức các hoạt động học đó. Vì thế, SGV có cấu trúc hai trong một: mỗi bài trong SGK được thu nhỏ, nhúng trong SGV. Phần còn lại dành để hướng dẫn tổ chức các hoạt động học (bao gồm các hoạt động khởi động, khám phá, luyện tập và vận dụng). SGV chỉ rõ mục đích, các bước tiến hành và kết quả đạt được của học sinh với mỗi hoạt động. Có 3 hình thức tổ chức hoạt động học tập cơ bản: HĐ cá nhân, HĐ nhóm, HĐ cả lớp. SGV gợi ý lựa chọn loại hình tổ chức HĐ cho mỗi HĐ tương ứng trong SGK. Khi dạy học, tùy theo đối tượng cụ thể, GV thực hiện tổ chức HĐ học tập một cách linh hoạt, tích cực, để gợi ý, dẫn dắt HS thực hiện các hoạt động học một cách hiệu quả. Vì thế, SGV không chỉ dùng cho GV, mà phụ huynh cũng có thể sử dụng để giúp đỡ, theo dõi quá trình học tập của HS.

11. Để thích hợp với thời đại công nghệ, ban soạn thảo đã xây dựng phiên bản điện tử của bộ sách giáo khoa như thế nào? So với sách giấy, sách điện tử có thêm những nội dung, tính năng nào mới? Việc đăng ký sử dụng học liệu điện tử như thế nào?

1. Ban soạn thảo đã dựa vào nhu cầu thực tế của giáo viên, học sinh và các cấp quản lý để làm học liệu điện tử, đáp ứng mong mỏi của người dùng. Trong giai đoạn đầu các môn học sẽ có các học liệu điện tử ở mức cơ bản là: Tư liệu bài giảng điện tử dành cho giáo viên; Sách/vở bài tập tương tác chuyển thể từ sách giấy; Câu hỏi kiểm tra, đánh giá nhanh mỗi bài trong SGK.

Đi kèm với các học liệu điện tử, chúng tôi cũng trang bị các chức năng cho phần mềm nhằm hỗ trợ giáo viên tạo đề kiểm tra đánh giá thường xuyên và định kỳ, hỗ trợ quản lý dạy học như quản lý trường, lớp, giao bài tập và quản lý điểm. Ngoài ra, chúng tôi cũng phối hợp với các tác giả, chuyên gia để xây dựng hệ thống tập huấn trực tuyến giúp giáo viên tự học, qua đó hiểu chương trình giáo dục phổ thông mới và triết lí của bộ SGK.

2. Như vậy có thể thấy, học liệu điện tử có một số điểm khác so với sách giấy:

Nội dung sách giấy được chuyển thể thành dạng tương tác, hoặc được làm giàu bằng nội dung đa phương tiện.

Bổ sung thêm các nội dung như giải thích, hướng dẫn, câu hỏi kiểm tra đánh giá, bài giảng điện tử, đề kiểm tra, đánh giá,

Về tính năng, phần mềm theo dõi và quản lý việc sử dụng các học liệu điện tử giúp nắm bắt được tình hình dạy, học và sử dụng học liệu điện tử, qua đó giúp Ban soạn thảo có thông tin để cải tiến, nâng cấp liên tục.

Phần mềm cũng là cầu nối để giáo viên, học sinh, phụ huynh có thể trao đổi, hỏi đáp các vấn đề về nội dung trực tiếp với tác giả. Người dùng sách và học liệu có thể trao đổi với nhau, phản ánh, góp ý để nội dung ngày càng hoàn thiện hơn.

Cuối cùng, Sách giấy chỉ cung cấp thông tin, học liệu điện tử vừa cung cấp thông tin, vừa tiếp nhận câu trả lời theo một số định dạng như văn bản, phương án lựa chọn, hay tiếng nói, hình ảnh, bản vẽ. Những định dạng này giúp máy tính hiểu và sẽ đánh giá được năng lực người học thay cho giáo viên.

3. Việc đăng ký sử dụng học liệu điện tử khá đơn giản: Căn cứ vào danh sách giáo viên do Trường/Phòng/Sở Giáo dục và Đào tạo cung cấp, chúng tôi sẽ gửi thư điện tử hướng dẫn và cấp quyền khai thác sử dụng Sách Mềm (Hệ thống phần mềm và học liệu điện tử bổ trợ SGK); Đối với phụ huynh, học sinh, người dùng: Sách có kèm theo mã sử dụng Sách Mềm, người dùng cần đăng ký/đăng nhập vào địa chỉhttps://sachmem.vn, nhập mã số để sử dụng.

12. Một số sách giáo khoa của các nước khác có hệ thống bài tập, câu hỏi gợi mở kèm theo, có hướng dẫn học sinh tìm tài liệu tham khảo, bộ sách này có lưu ý nội dung đó không?

Bộ sách Cùng học để phát triển năng lực cũng có hệ thống bài tập, câu hỏi gợi mở và hướng dẫn học sinh tìm tài liệu tham khảo như một số sách giáo khoa của các nước hiện nay.

Hệ thống bài tập chủ yếu dùng để luyện tập củng cố và phát triển những kiến thức, kĩ năng đã hình thành trong sách học sinh. Do đó, với mỗi bài trong SGK, cần xác định rõ ràng những kiến thức/kĩ năng nào cần luyện tập/phát triển và mức độ luyện tập/phát triển của nó ở phần bài tập trong SGK. Mỗi bài tập hoặc hệ thống bài tập trình bày dưới dạng những vấn đề cần giải quyết để học sinh rèn luyện thói quen tự học, tự giải quyết vấn đề. Ban soạn thảo cũng lưu ý đến các mức năng lực trong soạn thảo bài tập, ví dụ như các bài tập nhằm:

  1. Vận dụng tri thức thường nhật về khoa học.
  2. Giải thích các hiện tượng khoa học đơn giản.
  3. Vận dụng tri thức định luật và tri thức sự kiện.
  4. Vận dụng tri thức về khái niệm, mô hình và quy trình.
  5. Lập luận và giải quyết vấn đề.
  6. Vượt qua những quan niệm sai lầm gắn với thường nhật,

13. Một nhược điểm của sách giáo khoa hiện hành là sự lạc hậu so với thực tế cuộc sống, cập nhật muộn. Có những thông tin, số liệu, địa danh, đã thay đổi, không được cập nhật, dẫn tới việc cả giáo viên và học sinh bị lúng túng khi dạy học và kiểm tra đánh giá. Bộ sách giáo khoa mới khắc phục điều đó như thế nào?

Bộ SGK mới được tích hợp học liệu điện tử sẽ khắc phục đáng kể điều này.

Với ưu điểm của học liệu điện tử là có thể mở rộng không gian sách, giúp học sinh, giáo viên hứng thú với hoạt động khám phá, chiếm lĩnh tri thức; có thể sử dụng mạng của cộng đồng để góp ý cho Ban soạn thảo bất cứ nội dung nào mà mình thấy chưa hợp lý; Đồng thời, Ban soạn thảo có thể cập nhật số liệu, thông tin mới vào hệ thống học liệu điện tử một cách nhanh chóng, kịp thời. Sử dụng những số liệu mới này để chỉnh lí sách giáo khoa trong lần tái bản sớm nhất,

NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG SÁCH GIÁO KHOA MỖI MÔN HỌC

1. Mỗi bộ sách giáo khoa thường có tư tưởng/triết lý nhất quán và đó cũng là đặc trưng phân biệt các bộ sách khác nhau, vậy triết lý/tư tưởng xuyên suốt của bộ sách này là gì?

Tư tưởng xuyên suốt của bộ sách là lấy hoạt động học của học sinh làm trung tâm: học tích cực, học hợp tác, học để vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Bộ sách này được biên soạn đáp ứng các yêu cầu chung đối với tất cả SGK mới. Nhưng có những điểm nhấn riêng thể hiện qua thông điệp Cùng học để phát triển năng lực. Với thông điệp này, các tác giả thể hiện quan điểm đổi mới SGK theo mô hình phát triển phẩm chất và năng lực của người học, nhưng không xem nhẹ vai trò của kiến thức.
Kiến thức trong SGK là chất liệu quan trọng nhắm đến mục tiêu của giáo dục là giúp HS hình thành, phát triển các phẩm chất và năng lực mà các em cần có để sống và làm việc trong bối cảnh mới của đất nước và nhân loại.
Bộ SGK này chú trọng việc hình thành năng lực tự học cho HS qua việc cung cấp thông tin sự kiện, tình huống thực tế, để học sinh dễ dàng tiếp nhận thông tin, thực hiện các nhiệm vụ học tập (thông qua các hoạt động học). Từ quá trình đó, HS tự rút ra tri thức và thực hành tạo ra các sản phẩm học tập.
Sau những bài tập hoặc thực hành giải quyết vấn đề, HS sẽ có khả năng phát triển năng lực giải quyết vấn đề trong cuộc sống.
Nội dung mỗi bài trong SGK được thiết kế dưới dạng các hoạt động học, giúp HS chủ động thực hiện hoạt động học tập: học cá nhân, học hợp tác (cặp đôi, nhóm hoặc cả lớp) dưới sự tổ chức hướng dẫn và đánh giá của GV. Việc này tạo điều kiện cho HS phát triển các năng lực cần thiết, trong đó có năng lực hợp tác một trong những năng lực quan trọng của công dân thế kỷ XXI.

2. Hiểu thế nào cho đúng về bộ sách giáo khoa có tên gọi Cùng học để phát triển năng lực?

Tên của bộ sách nói lên cách học (sách, HS, GV cùng đồng hành trong quá trình học) và mục đích của việc học (nhằm phát triển các phẩm chất và năng lực cần thiết của học sinh để trở thành công dân có ích cho x. hội).

Bộ sách Cùng học để phát triển năng lực giúp HS thay đổi cách học, từ học thụ động sang học chủ động tích cực, chuyển việc thuần túy tiếp thu kiến thức sang việc kiến tạo và vận dụng kiến thức.

Bộ sách với tên gọi Cùng học để phát triển năng lực, là sự nhấn mạnh yếu tố mới phát triển năng lực HS (nhấn mạnh năng lực, nhưng không tách rời phẩm chất. Năng lực ở đây bao hàm cả phẩm chất và năng lực). Bộ sách đảm bảophát triển phẩm chất và năng lựccủa HS thông qua hệ thống kiến thức tự nhiên, x. hội, thiết thực và hiện đại, chú trọng thực hành, vận dụng để giải quyết các vấn đề trong học tập và đời sống. Các bài học đều chú trọng cải thiện hiệu quả việc học và vận dụng kiến thức môn học vào thực tiễn và các môn khoa học khác.

3. Nhiều người cho rằng đây là bộ sách VNEN, có đúng không?

Nếu xét về góc độ tiếp cận lấy hoạt động học của HS làm trung tâm thì hai bộ sách có cùng quan điểm.

Mô hình trường học mới và một số mô hình giáo dục của các nước tiên tiến đều lấy hoạt động học của HS làm trung tâm trong việc dạy học. Bộ sách Cùng học để phát triển năng lực cùng chung cách tiếp cận đó. Nhưng với lợi thế đi sau, nên bộ sách Cùng học để phát triển năng lực chỉ kế thừa những ưu điểm của cách tổ chức dạy học tích cực của mô hình trường học mới cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, có những điều chỉnh cần thiết để khắc phục các hạn chế, đảm bảo phù hợp với điều kiện dạy học ở Việt Nam.

Bộ sách Cùng học để phát triển năng lực chú trọng việc dạy học tích cực. Trong đó, SGK thể hiện nội dung qua hệ thống các hoạt động học, sách giáo viên (SGV) hướng dẫn tổ chức các hoạt động học, với cách thiết kế bài học phù hợp cho việc tự học, gắn liền với các tình huống thực tế, nhằm phát triển năng lực giải quyết vấn đề của HS.

4. Những điểm mới của bộ sách là gì? Điều gì đảm bảo đây là bộ sách tốt, phù hợp với yêu cầu của Chương trình giáo dục phổ thông mới?

Trong quá trình nghiên cứu và biên soạn, chúng tôi đặt ra các yêu cầu cơ bản, chú trọng những điểm mới riêng biệt theo tư tưởng, triết lý của bộ sách. Cụ thể,SGK phải thỏa mãn các yêu cầu cơ bản:

Là một phát triển từ Chương trình môn học, đặt trọng tâm vào việc phát triển năng lực, phẩm chất, phát triển những kĩ năng môn học cơ bản và phụ trợ giúp cho mọi học sinh thành công trong học tập;

Là một bộ sách giáo khoa trình bày một cách tường minh, cô đọng toàn bộ chuẩn kiến thức kĩ năng môn học theo chương trình giáo dục phổ thông mới;

Là một chương trình thích hợp với mọi trình độ, trong đó các vấn đề được tích hợp hoàn hảo, dễ cho việc quản lí dạy học, có thể điều chỉnh bổ sung cho phù hợp.

Là một kế hoạch học tập có hướng dẫn từng bước, có tính hệ thống cao, dễ cho việc tự học của HS, dễ cho việc tổ chức dạy học của giáo viên; dễ dàng thực hiện một cách có hiệu quả ở bất kì lớp nào;

Bộ sách có một thiết kế tổng thể khoa học và thống nhất. Mỗi cuốn sách giáo khoa phải là một tác phẩm đẹp, thiết kế mĩ thuật hiện đại, hấp dẫn, thân thiện với học sinh.

Theo đó,Bộ sách Cùng học để phát triển năng lực đã được biên soạn ở lớp 1 có 6 ưu điểm nổi bật:

1.Mức độ tiếp cận kiến thức hợp lý, vừa đáp ứng yêu cầu của Chương trình, vừaphù hợp với sức học của đại đa số học sinh ở tất cả các vùng miền, đảm bảo sựthân thiện, gần gũi với mọi học sinh, giáo viên.

Ở mỗi môn học, sách bảo đảm sự hài hoà giữa các hoạt động hình thành kiến thức, rèn kỹ năng với hoạt động thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống của HS.

Bộ sách bảo đảm sự liên thông giữa các lớp học và sự kết nối giữa các môn học.

2. Sách dễ sử dụng, phù hợp cho việc tự học của học sinh, cho việc giảng dạy linh hoạt của giáo viên và cho việc theo dõi, phối hợp của phụ huynh học sinh.

Việc phát triển từ chương trình đến sách giáo khoa được nghiên cứu và thực hiện một cách bài bản, khoa học, để đảm bảo rằng SGK phải dễ sử dụng, hấp dẫn và phù hợp để HS tự học hiệu quả.

Bộ sách có tính kế thừa những yếu tố tích cực của SGK hiện hành và tiếp thu tính hiện đại của các nền giáo dục tiên tiến, nhằm tạo điều kiện để HS rèn luyện cách học và hỗ trợ đắc lực cho giáo viên giảng dạy theo chương trình mới và cập nhật kiến thức.

3.Sách có độ mở thích hợp, thuận tiện cho việc cập nhật thông tin và bổ sung kiến thức theo vùng miền, theo định hướng nghề nghiệp của học sinh.

Bộ sách được biên soạn linh hoạt theo cách mà GV có thể vận dụng tùy theo đặc điểm của trường học hoặc địa phương của họ. SGK không phải là tài liệu duy nhất cần tuân thủ, mà được xem như một minh họa của quan điểm tích hợp của chương trình.

4.Bộ sách góp phần đổi mới phương pháp dạy và học; giúp học sinh thực hiện nhiệm vụ học hiệu quả, giúp GV tổ chức tốt các hoạt động học tập của HS cũng như các hoạt động kiểm tra, đánh giá học tập của HS.

Bộ sách được viết theo tiếp cận phát triển năng lực khác với sách giáo khoa hiện hành chủ yếu được biên soạn theo tiếp cận nội dung. Do đó các bài học được thiết kế theo mô hình hoạt động. Các tác giả SGK biên soạn nội dung, thiết kế các thí nghiệm, thực hành dưới dạng các hoạt động học, giúp cho các em hình thành, phát triển khả năng vận dụng sáng tạo.

5.Bộ sách có Thiết kế mĩ thuật tổng thể, nhất quán và khoa học. Mỗi cuốn sách có thiết kế mỹ thuật đẹp, hấp dẫn, hiện đại; dễ dàng sử dụng cho mỗi HS.

6. Bộ sách là một bộ tài liệu dạy học hoàn chỉnh, bao gồm: sách giấy (sách giáo khoa, sách bài tập, sách giáo viên); Thiết bị, đồ dùng dạy học; Sách mềm (sách điện tử) : việc dạy học được hỗ trợ bởi hệ thống phần mềm và học liệu điện tử dành cho HS và GV (Hệ thống này giúp nâng cao hiệu quả dạy học, đáp ứng kì vọng của GV, HS và phụ huynh).

Với những đặc trưng nói trên, chắc chắn bộ sách sẽ đáp ứng tốt các yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thông mới.

5. Bộ sách giáo khoa nói chung và sách giáo khoa mỗi môn học nói riêng đều xác định nhóm đối tượng sử dụng chính hoặc một khu vực để phát hành. Vậy với bộ sách Cùng học để phát triển năng lực, Ban soạn thảo hướng đến đối tượng nào, mô h.nh giáo dục nào, địa phương, vùng miền nào là chủ yếu?

Vì SGK Cùng học để phát triển năng lực bám sát mục tiêu, yêu cầu của Chương trình giáo dục phổ thông mới do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về nội dung kiến thức, yêu cầu về phát triển phẩm chất và năng lực, đồng thời đảm bảo tính kế thừa, tính hiện đại và có độ mở thích hợp, nên bộ sách này có thể phát hành rộng rãi trên toàn quốc, không phân biệt đối tượng hay vùng, miền.

6. Cấu trúc bộ sách giáo khoa này có gì khác biệt so với sách giáo khoa trước đây?

Sự khác biệt rõ nét nhất được thể hiện qua cấu trúc từng bài học. Theo đó, nội dung mỗi bài học được thể hiện qua các hoạt động học.

Cụ thể, sự khác biệt thể hiện ở các mặt sau:

1. Sách giáo khoa mới được xây dựng trên quan điểm tích hợp. Ở mỗi lớp, nội dung chương trình được phân chia thành những chủ đề. Mỗi chủ đề (gồm một số bài) tích hợp những kiến thức, kĩ năng, phương pháp, hướng tới hình thành và phát triển một số năng lực cốt yếu.

2. Mô hình cấu trúc sách giáo khoa Cùng học để phát triển năng lực là mô hình hoạt động.Cấu trúc SGK của từng môn học bao gồm các phần (mỗi phần gồm một số chủ đề và bài ôn tập cuối phần); mỗi chủ đề gồm một số bài học, bài ôn tập cuối chủ đề (gồm: Tóm tắt tổng hợp kiến thức, kĩ năng đã học và Hệ thống câu hỏi/bài tập ôn tập). Để xây dựng mô hình cấu trúc các bài học, trước hết cần xác định xem cuốn sách có bao nhiêu dạng bài. Về cơ bản, thường có các dạng bài sau: Bài hình thành kiến thức/kĩ năng/phương pháp mới; Bài thực hành/luyện tập/ôn tập; Dự án; Hoạt động trải nghiệm; Bài đọc thêm; Bài Ôn tập chủ đề,

Nội dung kiến thức trong mỗi bài học được thể hiện qua 4 bước, phù hợp với quá trình nhận thức: Bắt đầu từ một tình huống điển hình mô hình hoá để hình thành kiến thức/kĩ năng mới thực hành, vận dụng kiến thức/kĩ năng mới với những tình huống tương tự trong thực tế.

Mỗi bước được thiết kế dưới dạng những hoạt động học tập. Tùy theo đặc điểm môn học, cấp học mà có những loại hình hoạt động học tập khác nhau. Các tác giả SGK đã nghiên cứu xác định các loại hình hoạt động thích hợp. Sử dụng loại hình hoạt động này, có thể diễn đạt nội dung cho phù hợp.

3. Có thiết kế mĩ thuật tổng thể của bộ sách cho từng cấp học.Đảm bảo sự nhất quán về cấu trúc bộ sách từ lớp 1 đến lớp 12, nhằm giúp học sinh sử dụng bộ sách một cách dễ dàng, nhất là khi học sinh tự học hoặc tự ôn tập. Đây cũng là sự khác biệt đáng chú ý của bộ sách mới so với bộ sách trước đây.

7. Sách giáo khoa mới chú trọng tương tác giữa học sinh với sách, học sinh với nhau và học sinh với giáo viên như thế nào?

Chúng tôi rất quan tâm đến tính tương tác giữa học sinh với sách, học sinh với nhau và với giáo viên khi thiết kế SGK cũng như SGV thể hiện ở các chuỗi hoạt động. Ở đó, học sinh được làm việc với sách, có sự tương tác, hợp tác với bạn trong cặp đôi, nhóm hoặc tương tác với giáo viên. Ngoài ra, hệ thống sách mềm (học liệu điện tử) cũng tạo điều kiện tích cực và hiệu quả cho cách học này. Cụ thể là:

Tương tác giữa học sinh với SGK.SGK là tài liệu gợi mở, giúp người học tự ôn luyện, tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả học tập. Học sinh có thể phản hồi, góp ý với Ban biên soạn về bất cứ nội dung nào có trên học liệu điện tử và phần mềm.

Tương tác giữa học sinh với học sinh.Theo đó, học sinh có thể chia sẻ, thảo luận trao đổi các nội dung liên quan đến bài học.

Tương tác giữa học sinh với giáo viên.Thông qua việc tổ chức các hoạt động học, giáo viên trao đổi, hướng dẫn học sinh thực hiện có hiệu quả các hoạt động học tập. Ngoài ra, hệ thống phần mềm quản trị lớp học ảo kết nối với hệ thống học liệu điện tử giúp giáo viên giao bài, kiểm tra, chấm bài, theo dõi kết quả học tập của học sinh trực tuyến. Theo đó, phụ huynh có thể theo dõi được tình hình học tập của con em mình, trao đổi với giáo viên,

8. Trong chương trình, sách giáo khoa hiện hành, điểm hạn chế là kiến thức hàn lâm, khó hiểu còn nhiều. Đặc biệt ở bậc tiểu học chưa chú trọng đến tâm lý lứa tuổi, chưa gần gũi với đối tượng học sinh nhỏ tuổi. Vậy khi soạn thảo sách giáo khoa mới, nhược điểm này được khắc phục thế nào ở bộ sách giáo khoa cho tiểu học?

Yêu cầu về nội dung kiến thức đã được Ban soạn thảo chương trình chú ý thay đổi cho phù hợp với lứa tuổi trong Chương trình mới. Để hạn chế những điểm yếu của sách hiện hành, chúng tôi chú trọng cách hình thành kiến thức. Mỗi kiến thức mới bao giờ cũng được rút ra thông qua các hoạt động khởi động và hoạt động khám phá dựa trên những tình huống cụ thể, điển hình, gần gũi với từng lứa tuổi. Các hoạt động luyện tập và vận dụng cũng tuân thủ theo quy tắc phù hợp với lứa tuổi, hợp với thời đại.

9. Hình thức của bộ sách giáo khoa mới có những ưu điểm gì về thẩm mỹ, về tiện ích và chú ý đến sức khỏe học đường?

Bộ sách đã có thiết kế mĩ thuật tổng thể, có logo, nhất quán, khoa học và hoàn thiện, đảm bảo sự cân đối, hài hòa giữa kênh chữ và kênh hình.

Bộ sách được in nhiều màu với các hình ảnh sinh động. Bìa sách và giấy in có chất lượng để có thể dùng trong nhiều năm. Khổ chữ phù hợp với từng lứa tuổi để HS dễ đọc, không ảnh hưởng đến mắt. Trọng lượng mỗi cuốn sách không nặng, đặc biệt những cuốn cho HS tiểu học để giảm tải trọng lượng cặp sách khi HS đến trường.

10. Sách bài tập và sách giáo viên được biên soạn như thế nào để hỗ trợ việc sử dụng sách giáo khoa trong quá trình dạy học?

Sách bài tập dành cho những học sinh có nhu cầu luyện tập, phát triển thêm kiến thức/kĩ năng đã học. Khi viết SGK, các tác giả đã xác định được những kiến thức, kĩ năng nào cần luyện tập, phát triển và mức độ phát triển chúng. Điều này là cần thiết để phát triển năng lực cần có của mỗi cá nhân.

SGV mới kế thừa các ưu điểm của SGV hiện hành, đồng thời có những khác biệt, những điểm mạnh hỗ trợ cho giáo viên khi sử dụng bộ SGK này. Cụ thể theo mô hình hoạt động, SGK thiết kế các hoạt động học của học sinh, còn SGV hướng dẫn cách tổ chức các hoạt động học đó. Vì thế, SGV có cấu trúc hai trong một: mỗi bài trong SGK được thu nhỏ, nhúng trong SGV. Phần còn lại dành để hướng dẫn tổ chức các hoạt động học (bao gồm các hoạt động khởi động, khám phá, luyện tập và vận dụng). SGV chỉ rõ mục đích, các bước tiến hành và kết quả đạt được của học sinh với mỗi hoạt động. Có 3 hình thức tổ chức hoạt động học tập cơ bản: HĐ cá nhân, HĐ nhóm, HĐ cả lớp. SGV gợi ý lựa chọn loại hình tổ chức HĐ cho mỗi HĐ tương ứng trong SGK. Khi dạy học, tùy theo đối tượng cụ thể, GV thực hiện tổ chức HĐ học tập một cách linh hoạt, tích cực, để gợi ý, dẫn dắt HS thực hiện các hoạt động học một cách hiệu quả. Vì thế, SGV không chỉ dùng cho GV, mà phụ huynh cũng có thể sử dụng để giúp đỡ, theo dõi quá trình học tập của HS.

11. Để thích hợp với thời đại công nghệ, ban soạn thảo đã xây dựng phiên bản điện tử của bộ sách giáo khoa như thế nào? So với sách giấy, sách điện tử có thêm những nội dung, tính năng nào mới? Việc đăng ký sử dụng học liệu điện tử như thế nào?

1. Ban soạn thảo đã dựa vào nhu cầu thực tế của giáo viên, học sinh và các cấp quản lý để làm học liệu điện tử, đáp ứng mong mỏi của người dùng. Trong giai đoạn đầu các môn học sẽ có các học liệu điện tử ở mức cơ bản là: Tư liệu bài giảng điện tử dành cho giáo viên; Sách/vở bài tập tương tác chuyển thể từ sách giấy; Câu hỏi kiểm tra, đánh giá nhanh mỗi bài trong SGK.

Đi kèm với các học liệu điện tử, chúng tôi cũng trang bị các chức năng cho phần mềm nhằm hỗ trợ giáo viên tạo đề kiểm tra đánh giá thường xuyên và định kỳ, hỗ trợ quản lý dạy học như quản lý trường, lớp, giao bài tập và quản lý điểm. Ngoài ra, chúng tôi cũng phối hợp với các tác giả, chuyên gia để xây dựng hệ thống tập huấn trực tuyến giúp giáo viên tự học, qua đó hiểu chương trình giáo dục phổ thông mới và triết lí của bộ SGK.

2. Như vậy có thể thấy, học liệu điện tử có một số điểm khác so với sách giấy:

Nội dung sách giấy được chuyển thể thành dạng tương tác, hoặc được làm giàu bằng nội dung đa phương tiện.

Bổ sung thêm các nội dung như giải thích, hướng dẫn, câu hỏi kiểm tra đánh giá, bài giảng điện tử, đề kiểm tra, đánh giá,

Về tính năng, phần mềm theo dõi và quản lý việc sử dụng các học liệu điện tử giúp nắm bắt được tình hình dạy, học và sử dụng học liệu điện tử, qua đó giúp Ban soạn thảo có thông tin để cải tiến, nâng cấp liên tục.

Phần mềm cũng là cầu nối để giáo viên, học sinh, phụ huynh có thể trao đổi, hỏi đáp các vấn đề về nội dung trực tiếp với tác giả. Người dùng sách và học liệu có thể trao đổi với nhau, phản ánh, góp ý để nội dung ngày càng hoàn thiện hơn.

Cuối cùng, Sách giấy chỉ cung cấp thông tin, học liệu điện tử vừa cung cấp thông tin, vừa tiếp nhận câu trả lời theo một số định dạng như văn bản, phương án lựa chọn, hay tiếng nói, hình ảnh, bản vẽ. Những định dạng này giúp máy tính hiểu và sẽ đánh giá được năng lực người học thay cho giáo viên.

3. Việc đăng ký sử dụng học liệu điện tử khá đơn giản: Căn cứ vào danh sách giáo viên do Trường/Phòng/Sở Giáo dục và Đào tạo cung cấp, chúng tôi sẽ gửi thư điện tử hướng dẫn và cấp quyền khai thác sử dụng Sách Mềm (Hệ thống phần mềm và học liệu điện tử bổ trợ SGK); Đối với phụ huynh, học sinh, người dùng: Sách có kèm theo mã sử dụng Sách Mềm, người dùng cần đăng ký/đăng nhập vào địa chỉhttps://sachmem.vn, nhập mã số để sử dụng.

12. Một số sách giáo khoa của các nước khác có hệ thống bài tập, câu hỏi gợi mở kèm theo, có hướng dẫn học sinh tìm tài liệu tham khảo, bộ sách này có lưu ý nội dung đó không?

Bộ sách Cùng học để phát triển năng lực cũng có hệ thống bài tập, câu hỏi gợi mở và hướng dẫn học sinh tìm tài liệu tham khảo như một số sách giáo khoa của các nước hiện nay.

Hệ thống bài tập chủ yếu dùng để luyện tập củng cố và phát triển những kiến thức, kĩ năng đã hình thành trong sách học sinh. Do đó, với mỗi bài trong SGK, cần xác định rõ ràng những kiến thức/kĩ năng nào cần luyện tập/phát triển và mức độ luyện tập/phát triển của nó ở phần bài tập trong SGK. Mỗi bài tập hoặc hệ thống bài tập trình bày dưới dạng những vấn đề cần giải quyết để học sinh rèn luyện thói quen tự học, tự giải quyết vấn đề. Ban soạn thảo cũng lưu ý đến các mức năng lực trong soạn thảo bài tập, ví dụ như các bài tập nhằm:

  1. Vận dụng tri thức thường nhật về khoa học.
  2. Giải thích các hiện tượng khoa học đơn giản.
  3. Vận dụng tri thức định luật và tri thức sự kiện.
  4. Vận dụng tri thức về khái niệm, mô hình và quy trình.
  5. Lập luận và giải quyết vấn đề.
  6. Vượt qua những quan niệm sai lầm gắn với thường nhật,

13. Một nhược điểm của sách giáo khoa hiện hành là sự lạc hậu so với thực tế cuộc sống, cập nhật muộn. Có những thông tin, số liệu, địa danh, đã thay đổi, không được cập nhật, dẫn tới việc cả giáo viên và học sinh bị lúng túng khi dạy học và kiểm tra đánh giá. Bộ sách giáo khoa mới khắc phục điều đó như thế nào?

Bộ SGK mới được tích hợp học liệu điện tử sẽ khắc phục đáng kể điều này.

Với ưu điểm của học liệu điện tử là có thể mở rộng không gian sách, giúp học sinh, giáo viên hứng thú với hoạt động khám phá, chiếm lĩnh tri thức; có thể sử dụng mạng của cộng đồng để góp ý cho Ban soạn thảo bất cứ nội dung nào mà mình thấy chưa hợp lý; Đồng thời, Ban soạn thảo có thể cập nhật số liệu, thông tin mới vào hệ thống học liệu điện tử một cách nhanh chóng, kịp thời. Sử dụng những số liệu mới này để chỉnh lí sách giáo khoa trong lần tái bản sớm nhất,

NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG SÁCH GIÁO KHOA MỖI MÔN HỌC

1. Trong chương trình giáo dục phổ thông thực hiện tới đây, có một số môn học mới, tích hợp như môn Lịch sử và Địa lý, Khoa học tự nhiên ở THCS. Đội ngũ tác giả sách giáo khoa những môn này được đầu tư thế nào?

Sách giáo khoa môn Lịch sử và Địa lý (LS&ĐL) ở THCS, về hình thức thì bao gồm 2 phân môn như tên gọi của nó. SGK môn Khoa học tự nhiên (KHTN) ở THCS về hình thức gồm 3 phân môn là Vật lí, Hoá học và Sinh học. Tuy nhiên chúng không phải là sự cộng gộp mấy cuốn sách phân môn để thành một cuốn SGK chung. Sách giáo khoa môn KHTN, LS&ĐL phải là sự tổ hợp một cách có chọn lọc những nội dung cơ bản của các phân môn dựa trên quan điểm dạy học tích hợp theo chương trình mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Bởi vì đối tượng nghiên cứu, phương pháp nhận thức và nhiều khái niệm, nguyên lí của các phân môn vốn thống nhất trong một lĩnh vực chung là thế giới tự nhiên và xã hội nên SGK mỗi môn học này phảitích hợp xuyên suốt các mạch nội dungnhằm xây dựng thế giới quan khoa học vàphát triển năng lực vận dụng một cách tổng hợpkiến thức và kỹ năng vào giải quyết mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống.

Nhận thức được rõ ràng rằng đội ngũ tác giả là nhân tố quyết định sự thành công của SGK môn học như kì vọng nêu trên, Công ty CP Đầu tư và Phát triển Giáo dục Hà Nội đã sớm lựa chọn được đội ngũ tác giả có chất lượng gồm: Tổng Chủ biên là nhà khoa học có năng lực và bề dày kinh nghiệm về khoa học cơ bản, về khoa học giáo dục và về việc biên soạn SGK; Các Chủ biên là những nhà khoa học có chuyên môn sâu về từng phân môn và đã từng tham gia biên soạn SGK hoặc các tài liệu học tập cho HS, GV; Các tác giả được chọn chủ yếu từ những giảng viên của các trường đại học chuyên về khoa học cơ bản, một số GV giỏi, có hiểu biết sâu sắc về khoa học giáo dục. Công ty đã mời các chuyên gia trong lĩnh vực khoa học giáo dục về biên soạn SGK báo cáo, trao đổi kinh nghiệm với đội ngũ tác giả trong nhiều hội thảo.

2. Khoa học tự nhiên là môn học tích hợp ở cấp THCS, THPT, sách giáo khoa môn này có điểm gì mới so với các sách đơn môn trước đây. Giáo viên và học sinh cần chú ý gì để dạy và học môn này đạt hiệu quả?

Đối với THCS, theo Chương trình và SGK hiện hành, các phân ngành của KHTN như Vật lí, Hoá học, Sinh học, được chia thành các môn riêng. Môn Vật lí và môn Sinh học được học từ lớp 6, còn môn Hoá học thì đến lớp 8 mới bắt đầu.

Ở SGK mới các nội dung giáo dục về Vật lí, Hoá học, Sinh học và Khoa học Trái đất được tổ hợp thành môn KHTN và được học đồng thời từ lớp 6 đến lớp 9 nhằm tránh sự rời rạc, trùng lặp về kiến thức, đồng thời giúp HS rèn luyện năng lực vận dụng tổng hợp kiến thức các phân môn của KHTN vào các tình huống thực tiễn.

Tích hợp không đồng nghĩa với trộn lẫn, vì vậy ở SGK mới các chủ đề (chương) trong các lĩnh vực Chất và sự biến đổi của chất, Vật sống, Năng lượng và sự biến đổi, Trái Đất và bầu trời được sắp xếp chủ yếu theo lôgic của mạch nội dung đồng thời có chú ý tới sự gắn kết giữa các lĩnh vực đó để giúp HS hình thành các nguyên lí, quy luật chung của thế giới tự nhiên như tính cấu trúc, sự đa dạng, sự tương tác, sự vận động và biến đổi.

Hai điểm mới cơ bản nêu trên đây cũng chính là những điều cần chú ý khi dạy và học môn KHTN.

3. Lâu nay, chất lượng dạy và học môn Lịch sử rất hạn chế, có nguyên nhân do sách giáo khoa viết theo hướng tiếp cận nội dung, rất nặng nề, khô khan, không hấp dẫn người học. Sách giáo khoa mới với sự xuất hiện của môn tích hợp Lịch sử và Địa lý có điểm gì mới và liệu có khắc phục được những hạn chế của sách giáo khoa Lịch sử trước đây không?

Sách giáo khoa hiện hành viết theo hướng tiếp cận nội dung, nhiều bài còn nặng nề (nhiều số liệu khô khan), cách thể hiện chưa hấp dẫn người học. Sách giáo khoa mới viết theo chương trình năm 2018, đối với Tiểu học, môn Lịch sử và Địa lý tích hợp sâu; đối với THCS, môn Lịch sử và Địa lý viết theo hướng tích hợp ở mức độ nhất định. Đó là tích hợp nội môn (do nhu cầu của mỗi môn) và tích hợp liên môn Lịch sử và Địa Lý (thể hiện ở một số chuyên đề). Riêng phân môn Lịch sử, SGK sẽ viết theo hướng lồng ghép: Thế giới Khu vực Việt Nam, vừa làm rõ bối cảnh vừa bổ sung, soi chiếu kiến thức cho nhau (SGK hiện hành thì các mạch kiến thức này được thể hiện riêng biệt). Đối với THPT, Lịch sử và Địa lý là hai môn học riêng biệt trong bộ SGK. Về môn Lịch sử THPT, SGK được viết theo chủ đề và chuyên đề, không tiếp cận theo hướng đồng tâm và thông sử như SGK hiện hành.

Bộ SGK Cùng học để phát triển năng lực nhấn mạnh yếu tố phát triển năng lực, nên các nội dung bài học được thiết kế dưới dạng các hoạt động học, khuyến khích học sinh tự tìm tòi và nghiên cứu, mở rộng kiến thức, chính là cách giúp HS phát triển phẩm chất năng lực. Hy vọng SGK Lịch sử mới sẽ góp phần tích cực khắc phục những hạn chế của SGK Lịch sử hiện hành.

4. Với định hướng tiếp cận năng lực, sách giáo khoa mới môn Ngữ văn có gì mới? Sách giáo khoa mới này liệu có làm cho học sinh hứng thú học Văn hơn không?

Với định hướng phát triển năng lực, SGK Ngữ văn có những điểm mới cơ bản:

  1. Bài học được thiết kế trong sự kết hợp giữa thể loại/kiểu văn bản với chủ đề. Từng bài học được thiết kế theo hai phầnĐọc vănvàLàm văn. Thiết kế này hướng tới mục tiêu phát triển năng lực văn học và năng lực ngôn ngữ, năng lực thẩm mĩ và năng lực tư duy của HS. Với hai phầnĐọc vănvàLàm văn, HS được phát triển đầy đủ tất cả các năng lựcđọc, viết, nói và nghe.
  2. Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của HS: người học tự giác tìm hiểu bài học, tự kiểm tra, đánh giá dưới sự hướng dẫn của thầy; tăng cường thực hành trải nghiệm của học sinh, vận dụng kiến thức để giải quyết những vấn đề đặt ra trong học tập, trong cuộc sống. Vì vậy ở mỗi bài học, ngoài những văn bản chính thức còn có những văn bản mở rộng, bên cạnh những hoạt động trên lớp là hướng dẫn những hoạt động ngoài giờ.
  3. Cách trình bày SGK mang tính đa phương tiện, kết hợp giữa kênh chữ và kênh hình vừa đa dạng vừa chọn lọc.

SGK mới sẽ làm cho HS hứng thú học Văn hơn vì:

  1. Học Văn có hiệu quả thiết thực đối với cuộc sống hiện tại và sau này của HS, bởi sự gắn kết giữa văn chương với đời sống, với công việc học tập của HS.
  2. Học Văn các em được sống trong thế giới tâm hồn phong phú. Dù chú ý tới tính thực tiễn, bài học ngữ văn không làm mất đi những cảm xúc thẩm mĩ, vẫn bồi dưỡng đời sống tinh thần phong phú cho người học.
  3. Bài học trở nên nhẹ nhàng, sinh động trong các hoạt động hợp tác giữa GV và HS, giữa HS với HS; các hoạt động sân khấu hoá, câu lạc bộ văn học, trải nghiệm điền dã,

5. Môn Ngữ văn ở các lần thay sách đều gây tranh cãi trong việc đưa ngữ liệu vào sách. Theo Chương trình mới thì chỉ có một số tác phẩm bắt buộc, còn lại sẽ để mở, Vậy sách giáo khoa Ngữ văn trong bộ sách giáo khoa Cùng học để phát trển năng lực phát huy tinh thần mở đó thế nào? Tiêu chí để chọn ngữ liệu vào sách?

Trước hết cần khẳng định, với môn Ngữ văn, lựa chọn ngữ liệu văn bản để dạy học là hết sức quan trọng. Cần thấy được tác dụng tích cực của việc mở trong lựa chọn ngữ liệu đưa vào SGK đó là phát huy sự chủ động tích cực của GV, phù hợp với đối tượng HS (theo vùng miền: thành phố, nông thôn, vùng sâu, vùng xa; theo loại hình trường lớp: chuyên, không chuyên, vừa học, vừa làm), phát huy năng lực tự chủ, sáng tạo của người học, tránh việc học tập sao chép tập trung vào một số tác phẩm nhất định,

Tuy nhiên, mở trong lựa chọn ngữ liệu không có nghĩa là tùy theo ý thích, tùy theo gu của người soạn sách. Mở để phong phú, đa dạng, nhưng tuyệt đối không có nghĩa là xô bồ, hỗn tạp. Điều cần lưu ý là văn bản tác phẩm dạy trong nhà trường, nên nhất thiết phải bảo đảm những yêu cầu về tính tư tưởng của Chương trình giáo dục môn Ngữ văn cũng như các môn Khoa học xã hội trong nhà trường.

Tiêu chí để lựa chọn ngữ liệu đưa vào sách giáo khoa của chúng tôi là:

Có giá trị cao, đặc sắc về nội dung và nghệ thuật, tiêu biểu về chủ đề, về kiểu văn bản/ thể loại, về ngôn ngữ, kết tinh thành tựu văn học của thời đại, của dân tộc, của nhân loại.

Có tính giáo dục cao: giáo dục tư tưởng, tình cảm, thẩm mĩ.

Đáp ứng yêu cầu cần đạt về phát triển phẩm chất và năng lực người học phẩm chất, năng lực chung cũng như phẩm chất, năng lực đặc thù của môn Ngữ văn. Đặc biệt chú ý các phẩm chất yêu nước, nhân ái, trung thực, trách nhiệm, các năng lực văn học, ngôn ngữ, thẩm mĩ, tư duy (tư duy lôgic và tư duy hình tượng), năng lực giao tiếp.

Phù hợp với tâm lí (nhận thức, tình cảm), lứa tuổi của HS theo từng lớp học, từng cấp học.

Có khả năng tích hợp trong môn (Văn học, Tiếng Việt, Làm văn), tích hợp liên môn (Lịch sử, Văn hóa, Nghệ thuật, Giáo dục công dân,).

6. Môn Đạo đức, Giáo dục công dân hiện nay thường bị chê khô cứng, giáo điều, không cập nhật các tình huống, vấn đề cuộc sống, Vậy khi biên soạn sách, các tác giả đã có những đổi mới gì để tăng tính hấp dẫn, thiết thực và hiệu quả cho việc dạy và học môn học này?

Môn đạo đức là một trong những môn rất dễ rơi vào giáo điều, thuyết giảng. Vì vậy, khi biên soạn SGK mới, chúng tôi quan tâm nhất vấn đề làm sao để HS hứng thú với môn học và phát triển được năng lực, phẩm chất. Nói đến giáo dục đạo đức, trước hết phải quan tâm đến cảm xúc. Thế nên, xuất phát điểm của SGK môn đạo đức là chú trọng cảm xúc của HS, mà cảm xúc thì không ai áp đặt hoặc làm thay được, mà phải từ chính bản thân học sinh, từ trong các hoạt động học tập mới có cảm xúc thật sự được.

Bộ SGK Cùng học để phát triển năng lực đã lấy cáchoạt động làm trung tâm và HS chính là chủ thể của các hoạt động đó. Tư tưởng này đã được quán triệt và thể hiện rất rõ ở SGK môn Đạo đức. Ngay từ sách lớp 1 chúng tôi đã chú trọng việc lựa chọn, thiết kế nội dung thông qua các hoạt động (từ hoạt động cá nhân, đến cặp đôi, nhóm,) để HS có điều kiện thể hiện cảm xúc của mình. Chẳng hạn, sách Đạo đức lớp 1 gồm các chủ đề có nội dung gần gũi, cần thiết với HS trong cuộc sống thường ngày. Các em có thể xem, đọc sách này với những câu chuyện, những tình huống, trò chơi thật gần gũi, lý thú. Các em sẽ cùng bạn bè thảo luận, trả lời câu hỏi hoặc đóng vai để cảm nhận về gia đình, người thân và cuộc sống xung quanh, Điều quan trọng nhất là HS được thực hành, ứng dụng những điều trong sách một cách thường xuyên, qua đó bộc lộ niềm vui, sự thích thú qua mỗi bài học đó cũng chính là niềm vui của các gia đình, thầy cô giáo và những người làm sách chúng tôi. Ban đầu trẻ có thể chưa quen, thậm chí còn dụt dè với hoạt động tương tác, chia sẻ với bạn, với GV, nhưng với tiến trình hoạt động học tích cực dưới sự hướng dẫn của GV, HS sẽ quen dần và bộc lộ được cảm xúc, năng lực của mình. Hơn nữa, để sách hấp dẫn và sử dụng có hiệu quả đối với mọi HS ở các vùng miền khác nhau trên cả nước, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến cách thức trình bày sách sao cho đẹp, hiện đại, phù hợp với tâm lý lứa tuổi. Hình ảnh, tranh minh họa trong sách phản ánh được sự đa dạng vùng miền của đất nước, vừa sinh động, thân thiện, vừa gần gũi với cuộc sống học sinh. Hy vọng SGK mới sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Đạo đức theo định hướng phát triển năng lực, khắc phục đáng kể những hạn chế hiện nay.

7. Môn Toán là một trong những môn học có thời lượng nhiều nhất. Ở SGK hiện hành, do tiếp cận nội dung là chủ yếu, ít thực hành, ít liên hệ với đời sống, nên việc dạy học môn Toán thường bị nặng, không gây hứng thú cho học sinh. Vậy với hướng tiếp cận năng lực, sách giáo khoa mới môn Toán có gì mới và việc khắc phục những hạn chế trước đây như thế nào?

SGK môn Toán của bộ sách Cùng học để phát triển năng lực được xây dựng nhằm bảo đảm thành công việc học tích cực của HS. Điều này được thể hiện qua ba điểm mới sau đây:

Thứ nhất. Các bài học được thiết kế theo mô hình hoạt động. Các hoạt động đều xuất phát từ những tình huống thực tế, gần gũi với HS, với mức độ tư duy được nâng dần cùng với quá trình phát triển năng lực của HS. Mỗi HS là một thành viên tích cực trong các hoạt động dưới sự hướng dẫn của GV. Thông qua các hoạt động, HS tham gia hình thành kiến thức, luyện tập kiến thức và vận dụng kiến thức.

Thứ hai. Các chủ đề học được sắp xếp lôgic, các hoạt động luyện tập và ứng dụng luôn bám sát kiến thức, đa dạng nhưng gắn liền các vấn đề thực tiễn, vừa đủ để phát triển các phẩm chất và năng lực cần thiết, nhưng cũng vừa sức cho số đông HS ở miền núi cũng như miền xuôi, ở nông thôn cũng như thành thị.

Thứ ba. Sách được thiết kế đẹp, nhiều màu, với những hình ảnh sinh động, hài hòa giữa kênh hình và kênh chữ. Lật các trang sách, HS sẽ có cảm giác như xem một cuốn truyện tranh hấp dẫn, muốn tìm hiểu kỹ từng nội dung từ trang đầu cho tới trang cuối, và chờ đón SGK của năm tiếp theo.

Chính ba điểm trên tạo nên sự khác biệt căn bản với sách hiện hành. Học theo phương pháp của SGK mới này, HSsẽ biết học Toán để làm gì, học Toán có ích như thế nào, và sẽ thấy rằng môn Toán không còn khô khan, không còn nặng nề, không còn khó hiểu; HS sẽ yêu giờ học toán, yêu môn toán và các thầy cô dạy Toán.

8. Sách môn Tin học và Công nghệ có điểm gì mới đáng chú ý?

Trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, môn Tin học và môn Công nghệ có đặc điểm: Ở cấp Tiểu học, hai môn ghép lại thành một môn Tin học và Công nghệ, còn ở cấp THCS và THPT thì Tin học và Công nghệ là hai môn độc lập. Như vậy, có thể hiểu môn Tin học và Công nghệ ở Tiểu học là một môn học có hai phần Tin học và Công nghệ ghép nối tiếp với nhau. Theo Chương trình tổng thể, môn học có dung lượng 70 tiết, mỗi phần có dung lượng 35 tiết.

Với chương trình như vậy, SGK Tin học và Công nghệ sẽ được cấu trúc hai phần rõ rệt, phần Tin học và phần Công nghệ. Trong SGK không có phần nội dung tích hợp Tin học và Công nghệ. Về hình thức, hai phần đều được trình bày thống nhất trong cả quyển sách, còn về nội dung, mỗi phần sẽ trình bày theo yêu cầu cần đạt của riêng phần mình. Cả hai phần đều có những điểm mới chung sau đây:

1. SGK Tin học được biên soạn theo yêu cầu và định hướng mô hình phát triển năng lực. Thông qua những hoạt động cụ thể giúp học sinh chủ động hình thành những kiến thức cơ bản, thiết thực, và quan trọng hơn, biết vận dụng một cách sáng tạo, hiệu quả các kiến thức đó để hoàn thành các công việc, giải quyết các vấn đề nảy sinh trong học tập và đời sống.

2. Nội dung kiến thức mỗi bài học được phân bổ không quá dài để phù hợp với khả năng tiếp thu và tâm sinh lý học sinh, đặc biệt đối với các học sinh cấp Tiểu học và THCS.

3. Tận dụng tối đa kênh hình, nhất là với các học sinh Tiểu học và các năm đầu THCS để truyền tải một cách trực quan các yêu cầu hình thành, vận dụng và phát triển kiến thức cho học sinh.

4. Các yêu cầu hình thành, vận dụng và phát triển kiến thức được thực hiện chủ yếu thông qua các hoạt động cụ thể mà mỗi học sinh đều có thể thực hiện dưới sự hướng dẫn của giáo viên ngay trong giờ học (nhất là với cấp Tiểu học và THCS). Và, do vậy, mỗi bài học thường có kết quả cuối cùng là những sản phẩm học tập cụ thể.

9. Đặc trưng và những điểm nổi trội của sách giáo khoa môn Giáo dục thể chất?

1. Đặc trưng

Là SGK đầu tiên của môn học GDTC trong hệ thống giáo dục phổ thông.

Là tài liệu phục vụ cho hoạt động GDTC trường học hướng tới mục tiêu: Phát triển thể chất cho thế hệ trẻ, góp phần phát triển thể lực và tầm vóc người Việt Nam ở thế kỷ XXI.

2. Đặc điểm nổi bật

Phản ánh tiến trình GDTC, tiến trình hình thành và phát triển từng tố chất thể lực phù hợp với quy luật sinh học và quy luật sư phạm.

Thông qua hệ thống bài tập TDTT, kế hoạch hoá quá trình tác động có chủ đích đến sự phát triển các tố chất thể lực, hình thái cơ thể của học sinh theo độ tuổi.

Đồng bộ hoá nội dung và quá trình GDTC với quá trình rèn luyện năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo cho học sinh.

Đa số hình vẽ đều phản ánh các loại hình vận động, động tác đã được kỹ thuật hoá, tiêu chuẩn hoá, gắn liền với mô tả, chỉ dẫn yêu cầu và cách thực hiện bằng chữ (về tốc độ, mức độ dùng sức, phương hướng chuyển động,).

10. Những điểm nhấn đáng chú ý của sách giáo khoa môn Mỹ thuật 1 là gì?

Nhằm phát triển các năng lực thẩm mĩ đặc thù của môn học, điểm nhấn của cuốnSách Mĩ Thuật lớp 1 Cùng học và phát triển năng lựcthể hiện ở hình thức và nội dung, cụ thể:

Hấp dẫn ngay từ cái nhìn đầu tiênlà quan điểm về hình thức trình bày. Sách được thiết kế với tiêu chí: Đẹp và bắt mắt, thu hút nhờ sự sinh động, đa dạng về màu sắc, hình vẽ minh họa và ảnh chụp thiên nhiên, phong cảnh kích thích trí tò mò và giúp học sinh có hứng thú trong môn học ngay từ những trang sách đầu tiên.

Đơn giản, gần gũi với học sinh lớp 1, là định hướng về nội dung. Sách được biên soạn với 8 chủ đề và 01 bài mở đầu, theo hình thức tích hợp giữa mĩ thuật tạo hình với mĩ thuật ứng dụng và các kiến thức sơ lược về lịch sử mĩ thuật. Qua đó, giúp học sinh có nhận biết ban đầu về các yếu tố và nguyên lý tạo hình. Các chủ đề có nội dung đơn giản, gần gũi với học sinh và được minh hoạ bằng những hình ảnh thân quen, thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên, con người và cuộc sống thường ngày.

Thiết kế chủ đề nội dung theo các hoạt động học tập, giúp giáo viên có thể tổ chức các hoạt động học tập linh hoạt, phát triển năng lực: tự chủ, giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo, thông qua 4 hoạt động: Khởi động, Khám phá, Thực hành, Vận dụng.

Góc chia sẻđược thiết kế ở cuối mỗi chủ đề sẽ là không gian dành cho hoạt động trưng bày sản phẩm cá nhân và nhóm đã thực hiện, nhằm tăng cường sự tự tin của HS trong làm việc nhóm, tạo hứng thú cho các em trong quá trình học tập, sáng tạo. Qua đây, HS có thể cùng bạn trao đổi, đưa ra nhận xét cá nhân, chia sẻ cảm nhận và đánh giá sản phẩm đã làm của mình và bạn,

11. Những điểm nhấn đáng chú ý của sách giáo khoa Âm nhạc 1 là gì?

SGK Âm nhạc 1 triển khai đầy đủ nội dung trong chương trình Âm nhạc mới nhưng thiết kế gọn gàng, nhẹ nhàng nhằm giúp học sinh vui học, học vui.

Các bài hát các em được học, được nghe đều theo các chủ đề xác định, dễ hát, hợp khả năng, dễ nghe, hấp dẫn.

Tuy học nhạc, nhưng ở học kì I các em chỉ làm quen với 3 hình tiết tấu mẫu và thể hiện thông qua nhạc cụ gõ quen dùng. Sang học kì II, các em mới làm quen với cao độ và tên các nốt nhạc, trước hết chỉ học 3 nốt, 4 nốt,
rồi 5 nốt (chưa giới thiệu đủ 7 nốt) bằng các kí hiệu bàn tay. Khi đã biết, các em mới tiếp cận với nốt nhạc trên khuông nhạc qua những mẫu âm ngắn trên những hình tiết tấu đã được làm quen và luyện tập.

Ở lớp một không có lí thuyết âm nhạc, các em được nghe, phân biệt âm thanh cao thấp, dài ngắn, nhanh chậm, được nghe kể 2 mẩu chuyện âm nhạc vui và lí thú .

Tất cả những nội dung trên được thực hiện qua các hoạt động để các em trải nghiệm, qua đó hình thành một số năng lực và phẩm chất theo quy định của chương trình.

Sách có rất nhiều hình vẽ sinh động, minh họa cho các nội dung và hoạt động nên khi giở sách ra, các em đã thấy vui mắt và tạo tâm lí muốn tìm hiểu khám phá.

Sách Âm nhạc 1 được biên soạn rất công phu, phù hợp với năng lực tiếp thu, cảm nhận của trẻ em ở mọi vùng miền, kết hợp được truyền thống với hiện đại, giàu bản sắc của dân tộc Việt Nam.

12. Trải nghiệm là một hoạt động giáo dục mới được đưa vào trong chương trình mới. Vậy sách cho hoạt động trải nghiệm có điểm gì mới và hoạt động này có gì khác so với hoạt động ngoài giờ lên lớp trước đây?

Hoạt động trải nghiệm nằm trong tổng thể chương trình mới là những hoạt động giáo dục tạo cơ hội cho HS tiếp cận thực tế sâu hơn, thường xuyên hơn; Khuyến khích các em tham gia vào cuộc sống thật, cảm nhận nó bằng tất cả các giác quan; Huy động tổng hợp các kiến thức, khái niệm, kỹ năng học được ở trường, các kinh nghiệm vốn có, để vượt qua những khó khăn, giải quyết các vấn đề; Từ đó nhận được những cảm xúc tích cực, thấy tự tin hơn vào khả năng của mình, tự hào vì những đóng góp của mình cho gia đình, nhà trường, xã hội, hiểu thêm nhiều giá trị tinh thần, để tâm hơn đến người thân, bạn bè xung quanh Có nghĩa là,HĐTN hướng tới sự hình thành phẩm chất và rèn luyện năng lực của HS trong quá trình hoạt động, giúp các em xây dựng cho mình bộ sách giá trị thông qua việc làm.

Nếu hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (HĐGDNGLL) là sự tiếp nối và thống nhất với hoạt động dạy học, tạo điều kiện gắn lí thuyết với thực hành, củng cố, khắc sâu những kiến thức đã được học qua các môn học ở trên lớp, thì HĐTN lại là chuỗi những HĐGD độc lập, được thiết kế đầy đủ, chu đáo, xuyên suốt các cấp học, với bốn loại hình và nhiều phương thức hoạt động có quan hệ hữu cơ với nhau. Các nội dung HĐTN không phải các tình huống giả định hay HĐ thực hành của từng môn học, mà là nội dung tổng hợp sát với thực tế cuộc sống và tâm tư, tình cảm của HS, đòi hỏi vận dụng kiến thức tổng hợp và kinh nghiệm riêng.

HĐTN không dừng lại ở thời lượng ba tiết trong tuần và HĐ ngoài giờ trong khuôn khổ nhà trường, mà còn có nội dung kết nối mật thiết với gia đình, xã hội để HS được trải nghiệm toàn diện, từng bước tiếp cận với các ngành nghề khác nhau để xác định cho mình hướng đi trong tương lai.

13. Ở bậc THPT, chương trình mới thiết kế theo hướng mở, tăng tính thực nghiệm. Các tác giả đã tiếp thu tinh thần này như thế nào trong việc biên soạn sách giáo khoa?

Chương trình mới thiết kế theo hướng mở, tăng tính thực nghiệm là để thực hiện mục tiêu phát triển năng lực người học, cụ thể hơn là phát triển năng lực tự chủ, sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện để học sinh vận dụng kiến thức đã học giải quyết những vấn đề đặt ra trong học tập, trong cuộc sống.

Kiến thức được đưa vào SGK không nặng tính hàn lâm, mà là những kiến thức có ý nghĩa, giá trị thực tiễn. Những kiến thức trong SGK phải là những kiến thức cơ bản, kiến thức hạt nhân, có khả năng sản sinh năng lực ở người học.

Những hoạt động thực nghiệm, sáng tạo của học sinh trở thành yêu cầu bắt buộc, được cụ thể hóa thành nội dung, thời lượng dạy học khi biên soạn SGK.

Đặc biệt chú ý đến hệ thống câu hỏi, các hình thức hoạt động để học sinh thực nghiệm, vận dụng những kiến thức đã học giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn đời sống và công việc học tập của học sinh.

Hoạt động kiểm tra, đánh giá là cả quá trình học tập, chứ không chỉ dồn vào kì thi cuối kì, cuối năm, cuối cấp. Không chỉ kiểm tra, đánh giá HS biết được gì, mà phải rất chú trọng đến việc kiểm tra, đánh giá HS làm được gì sau khi học. Năng lực học sinh được thể hiện ở kết quả cụ thể của hoạt động sáng tạo, vì vậy, hoạt động sáng tạo phải trở thành chỉ số cao nhất để đánh giá năng lực người học.

14. Hiện nay Giáo dục STEM đang là xu thế được quan tâm, việc kết hợp kiến thức Khoa học tự nhiên vào giải quyết các chủ đề/vấn đề nào đó gần với cuộc sống, đang thu hút sự quan tâm của cha mẹ học sinh. Ban soạn thảo, tác giả có chú trọng tới việc thiết kế những chủ đề gần với xu thế này không?

Giáo dục STEM là cách tiếp cận liên ngành trong quá trình học, trong đó các khái niệm học thuật mang tính nguyên tắc được lồng ghép với các bài học trong thế giới thực, ở đó HS áp dụng các kiến thức trong khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán vào trong các bối cảnh cụ thể, giúp kết nối giữa trường học, cộng đồng, nơi làm việc và các tổ chức toàn cầu, để từ đó phát triển các năng lực trong lĩnh vực STEM và cùng với đó có thể cạnh tranh trong nền kinh kế mới.

Viện Nghiên cứu Giáo dục STEM của Đại học Missouri (Mỹ) đã có bài viết rút ra 3 đặc điểm quan trọng khi nói về giáo dục STEM.

Thứ nhất đó là cách tiếp cận liên ngành khác với đa ngành. Mặc dù cũng là có nhiều ngành, nhiều lĩnh vực nhưng liên ngành thể hiện sự kết nối và bổ trợ lẫn nhau trong các ngành. Do vậy, nếu một chương trình học, một trường học chỉ có nhiều môn, nhiều giáo viên dạy các ngành khác nhau mà không có sự kết nối và bổ trợ lẫn nhau thì chưa được gọi là giáo dục STEM.

Thứ hai là sự lồng ghép với các bài học trong thế giới thực, thể hiện tính thực tiễn và tính ứng dụng kiến thức trong việc giải quyết các vấn đề thực tế. Ở đây, không còn rào cản của việc học kiến thức lý thuyết với ứng dụng. Do vậy, các chương trình giáo dục STEM nhất thiết phải hướng đến các hoạt động thực hành và vận dụng kiến thức để tạo ra sản phẩm hoặc giải quyết các vấn đề của thực tế cuộc sống.

Thứ ba là sự kết nối từ trường học, cộng đồng đến các tổ chức toàn cầu; đó là kỷ nguyên của thế giới phẳng, cách mạng công nghiệp 4.0 nơi mà tự động hoá và điều khiển từ xa thông qua các thiết bị điện tử di động lên ngôi, thông qua đường truyền Internet. Do vậy, quá trình giáo dục STEM không chỉ hướng đến vấn đề cụ thể của địa phương mà phải đặt trong mối liên hệ với bối cảnh kinh tế toàn cầu và các xu hướng chung của thế giới, ví dụ như biến đổi khí hậu, năng lượng tái tạo,

Bộ SGK CHĐPTNL về cơ bản đã quán triệt tinh thần STEM dựa trên 3 đặc điểm đã nêu, nhưng ở mức độ phù hợp với thực tiễn chung của Việt Nam.

15. Theo yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, việc biên soạn sách giáo khoa sẽ phải đảm bảo tính nhất quán ở một số nội dung giáo dục như quyền con người, quyền trẻ em, ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, chống kì thị sắc tộc, bình đẳng giới, ý thức bảo vệ môi trường, Vậy trong bộ sách Cùng học để phát triển năng lực đã tiếp thu yêu cầu này thể hiện trong các sách giáo khoa của từng môn học, cấp học như thế nào cho hợp lý, tránh áp đặt, khiên cưỡng?

Khi tổ chức biên soạn bộ SGK Cùng học để phát triển năng lực ở mỗi môn học, chúng tôi đã quán triệt, thực hiện đúng yêu cầu này. Tuy nhiên, dựa trên đặc điểm của từng môn học mà SGK thể hiện nội dung giáo dục các lĩnh vực đã nêu ở những mức độ khác nhau.

16. Yếu tố thu hút, phát huy năng lực, nhiệt tình của đội ngũ Tổng Chủ biên, Chủ biên, tác giả bộ sách giáo khoa Cùng học để phát triển năng lực là gì?

Ngoài những chuẩn quy định thông thường của NXBGD Việt Nam và nội dung kiến thức cần đạt của Chương trình Giáo dục phổ thông do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, Công ty CP Đầu tư và Phát triển Giáo dục Hà Nội luôn trân trọng những đóng góp của đội ngũ Tổng Chủ biên, Chủ biên, tác giả. Điều này thể hiện ở việc các tác giả được tự do thể hiện sự hiểu biết sâu rộng của mình và lựa chọn những phương pháp yêu thích để tạo hưng phấn cho HS trong quá trình hình thành kiến thức và vận dụng vào thực tiễn. Tự do sáng tạo luôn là yếu tố được tôn trọng đối với mỗi tác giả.

Tuy nhiên, những ý tưởng sáng tạo vẫn phải tuân thủ tư tưởng xuyên suốt bộ sách, định hướng chung, tính nhất quán, liên thông giữa các lớp học, cấp học. Việc này cũng được thảo luận, trao đổi cởi mở và thống nhất trước khi biên soạn.

Với bộ sách Cùng học và phát triển năng lực thìđịnh hướng phát triển năng lựclà mối quan tâm hàng đầu trong việc kiến thiết bài học cũng như việc lựa chọn các kiến thức có nhiều ứng dụng thực tế, có tác dụng tích cực đến phát triển năng lực học sinh đối với từng môn học. Chẳng hạn, đối với môn toán, kỹ năng quan sát, so sánh, phân tích thường được rèn luyện trong các hoạt động khởi động mở đầu bài học hoặc chuỗi bài học. Năng lực tư duy và suy luận thể hiện trong hoạt động khám phá hình thành kiến thức. Năng lực quan trọng nhất là năng lực giải quyết vấn đề được rèn luyện trong tất cả các loại hình hoạt động. Các năng lực khác như mô hình hoá toán học, giao tiếp toán học, sử dụng công cụ học tập, cũng được phát triển đồng thời, với cấp độ nhiều, ít phụ thuộc vào từng chủ đề.

QUY TRÌNH BIÊN SOẠN

1. Quy trình biên soạn sách diễn ra như thế nào? Để có cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc biên soạn sách giáo khoa, công ty và ban soạn thảo đã triển khai việc nghiên cứu, khảo sát thực tế và dạy thử nghiệm thế nào?

Biên soạn SGK không chỉ cần kinh nghiệm mà cần có quá trình nghiên cứu và tổ chức một cách bài bản. Chúng tôi đã nghiên cứu xây dựng quy trình làm SGK trong hơn hai năm, ngay sau khi Bộ Giáo dục và Đào tạo dự thảo Chương trình GD phổ thông tổng thể. Trong đó, nghiên cứu quy trình phát triển từ chương trình tới SGK, tiếp cận với các quan điểm biên soạn SGK của các nước tiên tiến.

Trong quá trình đó, chúng tôi đã thực hiện các công việc sau:

1. Mời chuyên gia quốc tế và trong nước tổ chức tập huấn tác giả về chương trình và SGK theo định hướng phát triển năng lực.

2. Tổ chức cho các nhóm tác giả xây dựng đề cương sách giáo khoa, bao gồm:Đề cương khung SGK môn học cho toàn cấp; Đề cương khung năng lực môn học cho mỗi lớp; Đề cương chi tiết môn học cho từng lớp.

3. Nghiên cứu xây dựng mô hình sách giáo khoa bao gồm: Mô hình cấu trúc và cách thể hiện SGK theo từng cấp, mô hình SGK Cùng học và phát triển năng lực là mô hình hoạt động. Đã có một đề tài cấp nhà nước Mô hình sách giáo khoa và tài liệu tham khảo bổ trợ theo chương trình giáo dục phổ thông mới do NXBGD Việt Nam là đơn vị chủ trì. Chúng tôi đã vận dụng sáng tạo kết quả nghiên cứu này phù hợp với triết lí của bộ sách.

4. Nghiên cứu xây dựng Thiết kế mĩ thuật tổng thể, logo của bộ sách Cùng học và phát triển năng lực.

5. Trên cơ sở đề cương và mô hình đã có, các tác giả viết bài mẫu cho các dạng bài. Sau khi có được sự thống nhất của chủ biên, chúng tôi tiến hành việc dạy thử ở một số trường phổ thông và thu thập ý kiến của GV và HS nhằm điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp.

6. Biên soạn bản thảo sau khi dạy thử nghiệm.

2. Đội ngũ tham gia viết bộ sách này được lựa chọn như thế nào? Những người có kinh nghiệm, uy tín sẽ là sự bảo đảm cho sự thành công của bộ sách, vậy đội ngũ biên soạn của bộ sách này có những đại diện như vậy không? Họ giữ vị trí như thế nào trong việc tổ chức biên soạn?

Công ty CP Đầu tư và Phát triển Giáo dục Hà Nội là thành viên của NXBGD Việt Nam, đã có quá trình trưởng thành và phát triển lâu dài trong công cuộc biên soạn sách giáo dục nói chung và SGK nói riêng. Đây là một lợi thế. Chúng tôi có đủ tiềm lực về nhân sự biên tập viên, họa sĩ, đặc biệt là lực lượng đông đảo tác giả là các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, các nhà khoa học, các thầy cô giáo đang giảng dạy phổ thông. Vì vậy, đội ngũ được huy động làm SGK lần này có tỷ lệ đáng kể các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm và uy tín trong việc soạn thảo SGK. Họ là nhân tố quan trọng đảm bảo tính kế thừa và phát triển của bộ sách, giữ chuẩn mực kiến thức phù hợp với môi trường giáo dục Việt Nam, góp phần quan trọng vào sự thành công của bộ sách.

Ngoài đội ngũ Tổng Chủ biên, Chủ biên, tác giả, mỗi môn học còn có một số Cố vấn khoa học và cộng tác viên là GV giỏi đang dạy học ở trường phổ thông tham gia vào việc đọc, góp ý sách đây là bộ lọc rất quý để đảm bảo chất lượng và tính khả thi của SGK.

3. Nhiều người cho rằng khi có nhiều bộ sách giáo khoa khác nhau thì những bộ sách gần gũi với thực tiễn dạy học sẽ được quan tâm, vậy ban soạn thảo có hướng mời giáo viên phổ thông vào biên soạn hoặc thẩm định bộ sách này không?

Trong đội ngũ tác giả, chúng tôi có nhiều người đang giảng dạy và công tác tại các cấp học phổ thông. Họ cung cấp cho chúng tôi nhiều kinh nghiệm về trình độ chung và ý nguyện của học sinh, giáo viên hiện nay đối với từng chủ đề nhằm điều chỉnh mức độ luyện tập cho phù hợp.

Để bộ sách gần gũi với thực tiễn dạy học, quan điểm biên soạn bộ SGK Cùng học và phát triển năng lực là: bảo đảm sự kết nối giữa các lớp học và sự liên thông giữa các môn học và quan điểm lựa chọn kiến thức và tinh giản nội dung. Việc lựa chọn kiến thức trình bày trong SGK phải theo đúng các quy định của chương trình về kiến thức và năng lực cần đạt. Trong đó,ưu tiên lựa chọn các kiến thức có nhiều ứng dụng thực tế và có tác dụng tích cực đến việc phát triển năng lựccủa học sinh (ví dụ có tính điển hình cao, có ý nghĩa trong hiện tại, có ý nghĩa trong tương lai, phù hợp với cấu trúc của chủ đề, phù hợp với sự quan tâm và khả năng tiếp thu của học sinh,). Do đó, việc mời GV phổ thông tham gia vào quá trình biên soạn và thẩm định nội bộ bộ sách này được Ban soạn thảo bộ sách đặc biệt quan tâm. Thành phần tác giả biên soạn bộ sách này ở tất cả các môn học và ở các cấp học đều có sự tham gia của các thầy, cô giáo phổ thông. Đây là lực lượng quan trọng, có nhiều kinh nghiệm thực tế, đã đóng góp rất tích cực vào sự thành công của bộ sách. Họ đã truyền được hơi thở của đời sống thực tiễn dạy học hiện nay vào từng trang sách Cùng học để phát triển năng lực.

NHỮNG CAM KẾT ĐỒNG HÀNH CÙNG BỘ SÁCH

1. Việc tổ chức tập huấn, hướng dẫn sử dụng sách giáo khoa sẽ được ban soạn thảo triển khai như thế nào, kế hoạch cụ thể ra sao?

Kế hoạch tập huấn và việc chuẩn bị về tài liệu, cơ sở vật chất đã được chuẩn bị một cách chu đáo và bài bản.

Ngoài việc tập huấn sử dụng sách với từng địa phương có yêu cầu, Ban soạn thảo sẽ xây dựng các khóa tập huấn trực tuyến để tất cả các giáo viên có thể tham gia tập huấn mọi lúc, mọi nơi có mạng Internet. Các lớp học được xây dựng theo mô hình MOOC, cho phép giáo viên tự học, tương tác hai chiều với nhóm tác giả, để hiểu hết ý đồ tác giả, sách, và chia sẻ phương pháp giảng dạy, bài giảng mẫu,

2. Ban soạn thảo và công ty có những chính sách ưu đãi gì với cơ sở giáo dục và những người lựa chọn sách?

Công ty CP Đầu tư và Phát triển Giáo dục Hà Nội cam kết sẽ đồng hành cùng với các cơ sở giáo dục, thầy cô giáo, phụ huynh và học sinh trong quá trình sử dụng bộ sách Cùng học và phát triển năng lực, thể hiện ở 6 nội dung sau:

1. Công ty cam kết thực hiện cơ chế hỗ trợ, phục vụ kịp thời , đầy đủ, đồng bộ SGK và tài liệu bổ trợ cho HS và GV.

2. Cam kết tổ chức tập huấn miễn phí cho toàn bộ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên sử dụng SGK theo hình thức trực tiếp hoặc trực tuyến do các Tổng Chủ biên, Chủ biên và tác giả đảm nhiệm.

3. Mỗi GV sẽ được cấp một tài khoản miễn phí để khai thác, sử dụng học liệu điện tử, bao gồm: Sách điện tử, các bài giảng mẫu, thí nghiệm mô phỏng, hệ thống bài kiểm tra đánh giá, kho tài liệu tham khảo,

4. Công ty cam kết giúp các cơ sở giáo dục xây dựng phần mềm quản lý học tập, kết nối giữa nhà trường với phụ huynh.

5. Đặc biệt, hàng năm vào dịp hè, công ty tổ chức mời GV cốt cán trong các môn có thực hành thí nghiệm ở các địa phương về trung tâm thực nghiệm của công ty để tập huấn về thực hành, thí nghiệm.

6. Ngay từ khi bộ sách hoàn thiện, công ty đã thành lập bộ phận thường trực xử lý các vướng mắc, hỗ trợ các cơ sở giáo dục, các nhà trường, thầy cô giáo trong hành trình sử dụng bộ sách Cùng học và phát triển năng lực.

3. Nhiều người lo ngại giá sách giáo khoa mới sẽ đắt hơn so với sách giáo khoa hiện hành nhiều lần, công ty đã có tính toán cho việc này như thế nào?

Để góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị: đổi mới căn bản và toàn diện sự nghiệp giáo dục nước nhà, công ty đã đầu tư xây dựng bộ sách giáo khoa chất lượng, đẹp và hấp dẫn. Quan điểm xuất bản sách của công ty là: Lấy việc thực hiện nhiệm vụ chính trị làm mục đích, kinh doanh chỉ là phương tiện. Công ty sẽ luôn đồng hành tạo điều kiện để các cơ sở giáo dục, các thầy cô giáo và học sinh sử dụng bộ sách này.

4. Những lưu ý đối với giáo viên, học sinh khi dùng bộ sách Cùng học để phát triển năng lực.

Bộ SGK Cùng học và phát triển năng lực là một bộ SGK trình bày một cách tường minh toàn bộ chuẩn kiến thức kĩ năng môn học theo chương trình giáo dục phổ thông mới. Mỗi bài học được thiết kế thành một hệ thống các hoạt động cụ thể, đa dạng, kết hợp giữa hoạt động tìm hiểu kiến thức, rèn kỹ năng, với hoạt động thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống. Sách viết dễ hiểu, hấp dẫn và thân thiện với học sinh. Có thể xem đây là một kế hoạch học tập có hướng dẫn từng bước, có tính hệ thống cao, dễ cho việc tự học của HS và dễ cho việc tổ chức dạy học của giáo viên.

Hiện nay Lấy việc học của HS làm trung tâm là một phương châm dạy học đã được các thầy cô giáo, các nhà trường luôn hướng tới. Cách dạy học Thầy giảng trò nghe được thay thế bằng cách áp dụng những phương pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao hiệu quả học tập của HS.

Điểm chung của các phương pháp này là: Tăng cường cho HS hoạt động trải nghiệm, để từ đó lĩnh hội kiến thức và luyện được kĩ năng một cách tích cực, giảm thụ động; GV tổ chức và hướng dẫn HS hoạt động học hiệu quả.

Theo cách này, HS tập trung hơn, hứng thú hơn trong học tập; giáo viên có điều kiện bao quát toàn lớp học, đồng thời quan sát theo dõi được từng HS cụ thể và kịp thời gợi ý, hướng dẫn cho HS khi cần.

Bộ SGK này đã thiết kế theo các hoạt động học tập của HS, nhưng quyết định chất lượng của các hoạt động học là ở việc GV tổ chức các hoạt đó thế nào. Đây cũng là điểm chú ý nhằm khắc phục các hạn chế mà nhiều phương pháp dạy học tích cực đã thử nghiệm vấp phải trước đây.

Theo đó, giáo viên cần lưu ý:

Nghiên cứu, xác định rõ mục tiêu của mỗi hoạt động để hướng tới mục tiêu chung của bài học.

Tổ chức mỗi hoạt động của HS theo lần lượt từng bước: HS nhận biết vấn đề cần giải quyết và tự suy nghĩ tìm cách giải quyết (quá trình này GV phải theo dõi và nắm bắt được tình hình từng HS); Một số HS trình bày cách giải quyết trước lớp (GV chỉ định học sinh nào trình bày là theo ý đồ kịch bản sư phạm của mình); GV luôn khuyến khích động viên và tôn trọng ý kiến của HS để các em hào hứng, tự tin; Từ ý kiến trình bày của HS, GV khéo léo hướng dẫn HS cả lớp chốt các cách giải quyết chuẩn, thấy được cách tốt.

Từ hai điều trên, GV vận dụng kinh nghiệm và khả năng sáng tạo của mình để có những câu hỏi gợi ý, các bước dẫn dắt hoạt động cũng như hình thức tổ chức hoạt động đơn giản, hấp dẫn, làm cho học sinh hào hứng, tập trung thực hiện các hoạt động học một cách hiệu quả.

GV làm tốt ba lưu ý trên sẽ giúp HS hình thành ý thức tự chủ và tự học tốt.

HS cần lưu ý:
Luôn luôn cố gắng và chủ động tìm hiểu, nghiên cứu kỹ bài học trong SGK. SGK mới chú trọng và khuyến khích HS tự học, nhưng không có nghĩa là hoạt động học của các em đơn độc, không được GV quan tâm. Ngược lại, GV luôn theo sát và hướng dẫn các em trong từng hoạt động học. Vì vậy, các em cần mạnh dạn, tự tin trải nghiệm cá nhân hoặc trải nghiệm cùng bạn học thực hiện các yêu cầu trong bài học, các mục hoạt động đã được đưa vào SGK như: Bạn có biết, Thử sức, Đố, Cùng chơi, Góc chia sẻ, Khi gặp khó khăn, các em chủ động tương tác bạn, với GV để tháo gỡ. Thông qua các hoạt động học tích cực như vậy, các em sẽ có sản phẩm học tập của riêng mình, được khám phá, lĩnh hội kiến thức mới và nhiều điều mới mẻ trong cuộc sống. Điều đó sẽ giúp các em thêm nhiều hiểu biết và tăng cường kĩ năng về mọi mặt,