Trường phái triết học Trung Quốc

Triết học Trung Quốc bắt nguồn từ thời Xuân Thu (春秋) và Chiến Quốc (戰國 時期), trong thời kỳ được gọi là " Trăm trường phái tư tưởng ", [1] được đặc trưng bởi sự phát triển đáng kể về trí tuệ và văn hóa. [1] Mặc dù phần lớn triết học Trung Quốc bắt đầu từ thời Chiến quốc, các yếu tố của triết học Trung Quốc đã tồn tại trong vài nghìn năm. Một số có thể được tìm thấy trong Kinh Dịch ( Sách của những thay đổi ), một bản tóm tắt cổ xưa về bói toán , có niên đại ít nhất là năm 672 trước Công nguyên. [2]Đó là trong thời đại Chiến Quốc rằng những gì Tư Mã Đàm gọi là trường phái triết học lớn của Trung Quốc- Nho giáo , Pháp gia , và Đạo giáo -arose, cùng với triết lý mà sau này rơi vào quên lãng, như Agriculturalism , mặc gia , Trung Quốc nghĩa tự nhiên , và logicians . Ngay cả trong xã hội hiện đại, Nho giáo vẫn là tín ngưỡng của nghi thức đối với xã hội Trung Quốc. [3]

Cuộc tranh luận về việc liệu tư tưởng của các bậc thầy Trung Quốc cổ đại có nên được gọi là triết học hay không đã được thảo luận kể từ khi môn học này du nhập vào Trung Quốc. [4] Xem Chính thống của triết học Trung Quốc để biết thêm chi tiết.

Tư tưởng đầu triều đại nhà Thương dựa trên các chu kỳ. Quan niệm này bắt nguồn từ những gì người dân thời nhà Thương có thể quan sát được xung quanh họ: ngày và đêm theo chu kỳ, các mùa diễn ra lặp đi lặp lại, và thậm chí mặt trăng tàn lụi cho đến khi nó sáng lại. Do đó, quan niệm này, vẫn còn phù hợp trong suốt lịch sử Trung Quốc , phản ánh trật tự của tự nhiên. Khi xếp cạnh nhau, nó cũng đánh dấu sự khác biệt cơ bản với triết học phương Tây , trong đó quan điểm chủ đạo về thời gian là một tiến trình tuyến tính. Trong thời Thương, số phận có thể bị thao túng bởi các vị thần vĩ đại, thường được dịch là các vị thần. [ mơ hồ ] Thờ cúng tổ tiên đã có mặt và được công nhận rộng rãi. Cũng có người và động vật hiến tế.

Khi Shang bị lật đổ bởi Zhou , một khái niệm chính trị, tôn giáo và triết học mới được giới thiệu gọi là " Mandate of Heaven ". Nhiệm vụ này được cho là được thực hiện khi những người cai trị trở nên không xứng đáng với vị trí của họ và đưa ra một lời biện minh sắc sảo cho sự cai trị của nhà Chu. Trong thời kỳ này, các bằng chứng khảo cổ chỉ ra rằng sự gia tăng tỷ lệ biết đọc biết viết và sự thay đổi một phần khỏi đức tin đặt vào Thượng Đế (Đấng Tối cao trong tôn giáo truyền thống của Trung Quốc ), với việc thờ cúng tổ tiên trở nên phổ biến và xu hướng trần tục hơn được đặt lên hàng đầu.

Nho giáo phát triển trong thời Xuân Thu từ những lời dạy của triết gia Trung Quốc Khổng Tử (551–479 TCN), người tự coi mình là người truyền lại các giá trị của nhà Chu. Triết lý của ông liên quan đến các lĩnh vực đạo đức và chính trị, nhấn mạnh đạo đức cá nhân và chính phủ, tính đúng đắn của các mối quan hệ xã hội, công bằng, chủ nghĩa truyền thống và sự chân thành. The Analects nhấn mạnh tầm quan trọng của lễ nghi, nhưng cũng là tầm quan trọng của 'ren', được dịch một cách lỏng lẻo là 'lòng nhân đạo', [5] Nho giáo, cùng với Chủ nghĩa pháp lý , chịu trách nhiệm tạo ra chế độ tài đức đầu tiên trên thế giới , giữ địa vị của một người. nên được xác định bởi trình độ học vấn và tính cách hơn là tổ tiên , sự giàu có hay tình bạn . [6] Nho giáo đã và đang tiếp tục có ảnh hưởng lớn trong văn hóa Trung Quốc, nhà nước Trung Quốc và các khu vực lân cận của Đông Á .

Có thể du khách đã nhận ra rằng tất cả những cái tên này đều kết thúc bằng chữ “Tử”. “Tử” thông thường có nghĩa là “đứa trẻ” nhưng trong trường hợp này chữ “Tử” được thêm vào sau tên người với ý nghĩa tôn kính bởi vì họ là những nhà tư tưởng, những bậc thầy vĩ đại, những bậc thầy vĩ đại. Vậy nên bất cứ ai được xem là nhà tư tưởng hay bậc thầy vĩ đại thì sẽ được nhắc đến với chữ “Tử” ở cuối cùng.

1. Khổng Tử

Khổng Tử (28 tháng 9, năm 551 TCN - ngày 11 tháng 4 năm 479 TCN), người Lu (nay là Qufu Trung Quốc, Sơn Đông), các nhà tư tưởng nổi tiếng của Trung Quốc, các nhà giáo dục lớn. Khổng Tử đã tạo ra một phong cách thuyết giảng riêng, ông là người sáng lập ra trường Nho giáo. Khổng Tử đã dẫn một số các đệ tử đi khắp đất nước mười bốn năm, việc xem xét lại sáu bài kinh điển, đó là "thơ" "cuốn sách" "lễ" "nhạc" "dễ" "Xuân Thu". Theo truyền thuyết, ông có ba ngàn đệ tử, trong đó có bảy mươi hai hiền nhân. Sau khi Khổng Tử chết, các đệ tử và đệ tử của ông đến với Khổng Tử và các môn đồ của ông về những lời nói và hành động và tư tưởng được ghi lại, được biên soạn thành các tác phẩm cổ điển Khổng giáo "Analects of Confucius". Khổng Tử là một trong những người hiểu biết nhất trong xã hội thời bấy giờ, và được các nhà cai trị sau này tôn kính. Nho giáo Khổng Tử có ảnh hưởng sâu rộng đến Trung Quốc và thế giới, và Khổng Tử được liệt kê là "Top Ten Nhân vật Văn hoá trên Thế giới". Khổng Tử được tôn kính như một tổ tiên của Khổng giáo.

Khổng Tử xây dựng hệ thống tư tưởng "đạo đức và đạo đức" hoàn chỉnh: ở cấp độ cá nhân ủng hộ "nhân đức và nghi thức" nhân đức. Hệ thống tư tưởng luân lý dựa trên lý thuyết tốt. Ren của Confucius nói, thể hiện tinh thần nhân đạo, nghi lễ của Khổng Tử, nó thể hiện tinh thần của nghi lễ, nghĩa là hiện đại về trật tự và hệ thống. Chủ nghĩa nhân bản Đây là chủ đề vĩnh cửu của nhân loại, đối với bất kỳ xã hội, bất cứ lúc nào, bất kỳ chính phủ nào cũng có thể áp dụng, trật tự và xã hội thể chế là việc thiết lập nền văn minh của con người, những yêu cầu cơ bản của xã hội. Khái niệm của tinh thần nhân văn và trật tự là bản chất của tư tưởng xã hội và chính trị Trung Quốc cổ đại. Khổng Tử trong những năm sau của ông, lý tưởng cao nhất được gọi là "Đại Đồng", trong thế giới của Đại Đồng, người thế giới, không chỉ riêng gia đình họ cho chuyên nghiệp, không chỉ cho cha mẹ và con cái của họ cho tình yêu, nhưng tình yêu nhau, tình yêu tất cả mọi người, Không có gian lận trên thế giới, không có kẻ trộm, thế giới là công bằng.

Trường phái triết học Trung Quốc

Nội dung cốt lõi của tư duy chính trị của Khổng Tử là "nghi thức" và "nhân từ". Về chiến lược quản trị đất nước, ông chủ trương sử dụng đạo đức và nghi thức cai trị đất nước là cách điều hành đất nước cao quý nhất. Chiến lược này đến Đức, lịch sự của nhân dân, nghiêm chỉnh hệ thống phân cấp. Chia rẽ tầng lớp quý tộc và người dân giữa một dòng quan trọng. Lý tưởng chính trị cao nhất của Khổng Tử là thiết lập một "thế giới cho công chúng" của xã hội Đại Đồng. Trong thế giới của Đại Đồng, thế giới của con người, không chỉ riêng gia đình của họ cho những người chuyên nghiệp, không chỉ cho cha mẹ và con cái của họ cho tình yêu, mà còn yêu nhau, yêu tất cả thế giới, thế giới không gian lận, không có kẻ trộm, thế giới công bằng và hợp lý Các

Khổng Tử trong lịch sử của Trung Quốc lần đầu tiên đề xuất chất lượng của tài năng con người là tương tự, sự khác biệt về nhân cách chủ yếu là do giáo dục thu được và tác động môi trường xã hội. Để mọi người có thể được giáo dục, mọi người nên được giáo dục. Ông ủng hộ việc thành lập trường tư, một loạt các sinh viên, phá vỡ chủ sở hữu nô lệ độc quyền giáo dục trường quý tộc quý tộc, phạm vi giáo dục mở rộng cho thường dân, phù hợp với xu thế phát triển xã hội. Ông chủ trương học tập rảnh rỗi, đi học chính trị. Giáo dục của ông nhằm nuôi dưỡng một quý ông trong chính trị, và một quý ông phải có phẩm chất đạo đức cao trong tu luyện, vì vậy Khổng Tử nhấn mạnh rằng giáo dục ở trường phải là giáo dục đạo đức ngay từ đầu. Khổng Tử trong phương pháp giảng dạy đòi hỏi giáo viên "cá nhân", phương pháp "heuristic", chú ý đến Tong Meng, giáo dục giác ngộ. Ông đã giáo dục học sinh có thái độ học tập trung thực, khiêm tốn, thường xuyên xem xét kiến thức, kiến thức mới mở rộng mở rộng, chiều sâu, "từng người một". Nội dung chính trong giáo dục đạo đức của Khổng Tử là "nghi lễ" và "lòng nhân từ". "Lễ" là một quy tắc đạo đức, "lòng nhân từ" là tiêu chuẩn đạo đức cao nhất.

2. Mạnh Tử

Mạnh Tử (372-289 trước Công Nguyên; có một số tài liệu khác ghi là: 385-303 hoặc 302 trước Công Nguyên) là nhà triết học Trung Quốc và là người tiếp nối Khổng Tử.

Mạnh Tử, tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời vua Liệt Vương, nhà Chu, quê gốc ở đất Trâu, thuộc nước Lỗ, nay là thành phố Trâu Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông mồ côi cha, chịu sự nuôi dạy nghiêm túc của mẹ là Chương thị (người đàn bà họ Chương). Chương thị sau này được biết tới với cái tên Mạnh mẫu (mẹ của Mạnh Tử). Mạnh mẫu đã ba lần chuyển nhà để Mạnh Tử được ở trong môi trường xã hội tốt nhất cho việc học tập, tu dưỡng. Thời niên thiếu, Mạnh Tử làm môn sinh của Tử Tư, tức là Khổng Cấp, cháu nội của Khổng Tử. Vì vậy, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư tưởng Khổng giáo.

Trường phái triết học Trung Quốc

Mạnh Tử là đại biểu xuất sắc của Nho giáo thời Chiến Quốc, thời kỳ nở rộ các nhà tư tưởng lớn với các trường phái như Pháp gia, Du thuyết, Nho gia, Mặc gia... (thời kỳ bách gia tranh minh). Trong hoàn cảnh lịch sử đó, Mạnh Tử phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử với chủ trương dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh, ông cũng là người đưa ra thuyết tính thiện của con người rằng con người sinh ra đã là thiện rồi nhân chi sơ bản tính thiện, tư tưởng này đối lập với thuyết tính ác của Tuân Tử rằng nhân chi sơ bản tính ác. Ông cho rằng "kẻ lao tâm trị người còn người lao lực thì bị người trị". Học thuyết của ông gói gọi trong các chữ "Nghĩa", "Trí", "Lễ", "Tín". Ông đem học thuyết của mình đi truyền bá đến vua chúa các nước chư hầu như Tề Tuyên Vương (nước Tề), Đằng Văn Công (nước Đằng), Lương Huệ Vương (nước Nguỵ)...nhưng không được áp dụng. Về cuối đời ông dạy học và viết sách, sách Mạnh Tử của ông là một trong những cuốn sách quan trọng của Nho giáo. Ông được xem là ông tổ thứ hai của nho giáo và được hậu thế tôn làm "Á thánh Mạnh Tử" (chỉ đứng sau Khổng Tử).

3. Tuân Tử

Tuân Tử (313 - 238 trước Công Nguyên) là một nhà Nho, nhà tư tưởng của Trung Hoa vào cuối thời Chiến Quốc. Cũng gọi bằng Huống, còn có tên là Khanh. Tuân Tử là một trong Bách gia chư tử. Tuân Tử chính là thầy học của Hàn Phi và thừa tướng nhà Tần Lý Tư.

Tuân Khanh người nước Triệu, năm mươi tuổi mới đi học ở nước Tề. Thời bấy giờ, học thuyết của Trâu Diễn thì vu khoát, huênh hoang, chỉ nói suông. Trâu Thích thì văn hoa đầy đủ nhưng khó thi hành. Thuần Vu Khôn thì ở lâu mới có được điều hay. Cho nên người Tề có câu ca:Nói trời nói đất là Diễn; vẽ rồng vẽ phượng là Thích, hơ bầu dầu xe là Khôn.

Những học giả như Điền Biền đều đã chết trong thời Tề Tuyên Vương. Tuân Khanh là bậc thầy già nhất. Nước Tề tôn kính là “Liệt đại phu”, và Khanh ba lần làm tế tửu. Có người Tề gièm Tuân Khanh. Tuân Khanh bèn sang Sở. Xuân Thân Quân cho Tuân Khanh làm huyện lệnh Lan Lăng. Xuân Thân Quân chết rồi, Tuân Khanh lui về, nhân làm nhà ở Lan Lăng. Lý Tư có lần đến theo học và sau làm thừa tướng nước Tần.

Trường phái triết học Trung Quốc

Tuân Khanh ghét chính sự thời dơ đục, nước mất, vua hỏng luôn luôn nối nhau. Các vua không theo được đạo lớn mà lo cúng tế, bói toán, tin điều may, điều rủi. Những nhà nho bỉ lậu, câu nệ, nhỏ nhen như Trang Chu lại dùng lối khôi hài làm rối loạn phong tục. Tuân Khanh bèn xét những hành vi đạo đức của đạo Nho, đạo Mặc, xét nguồn gốc của việc hưng thịnh, bại vong, liệt thành thứ tự, làm ra sách vài vạn chữ, rồi chết, chôn ở huyện Lan Lăng.

Tuân Khanh cho rằng Bản tính con người là ác, căm ghét mê tín, coi trọng giáo dục, đề cao các tiên vương đời Hạ, Thương, Chu mà xem nhẹ Nghiêu Thuấn là mẫu mực của Khổng Tử.

Tư tưởng của Tuân Khanh là dùng lễ để trị nước, khác với Khổng Tử là dùng nhân để trị nước.Do lễ và luật rất gần nhau nên hai học trò của ông là Hàn Phi và Lý Tư đều chuyển sang pháp trị.

4. Hàn Phi Tử

Hàn Phi (281-233 trước Công Nguyên) là học giả nổi tiếng Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc theo trường phái Pháp gia, tác giả sách Hàn Phi tử.

Hàn Phi sống cuối đời Chiến Quốc, trong giai đoạn Tần Thủy Hoàng đang thống nhất Trung Hoa. Ông thuộc dòng dõi quý tộc nước Hàn (được gọi là "công tử"), thích cái học "hình danh." Gốc của học thuyết này là ở Hoàng Đế, Lão Tử. Hàn Phi có tật nói ngọng, không thể biện luận nhưng giỏi viết sách.

Hàn Phi và Lý Tư đều học với Tuân Khanh (còn gọi là Tuân Tử). Lý Tư tự cho mình kém Hàn Phi. Hàn Phi thấy nước Hàn bị suy yếu, mấy lần viết thư dâng lên hiến kế cho vua Hàn, nhưng vua Hàn không dùng.

Hàn Phi ghét những người trị nước không trau dồi làm cho pháp chế sáng rõ mà muốn dùng cái thế của mình để chế ngự bầy tôi; không lo việc làm cho nước giàu, binh mạnh bằng cách tìm người xứng đáng, dùng người hiền trái lại dùng những bọn tham nhũng, dâm loạn, sâu mọt, đặt chúng ở địa vị cao hơn những người có công lao và có thực tài. Hàn Phi cho rằng nhà Nho dùng lời văn làm rối loạn luật pháp, bọn du hiệp dùng võ lực phạm đến điều ngăn cấm, gặp lúc yên ổn thì nhà vua dùng bọn hám danh, gặp lúc nguy cấp thì lại dùng kẻ sĩ mang giáp trụ.

Như thế thành ra ngày nay người nhà vua nuôi lại không phải là những người nhà vua cần dùng, những người nhà vua cần dùng đều lại không phải những người nhà vua nuôi. Hàn Phi thương xót những người thanh liêm, chính trực không được bọn tôi gian tà dung tha, nhìn những sự biến đổi tồn vong của các nước ngày xưa nên viết Cô Phẫn (sự phẫn nộ của con người cô độc), Ngũ Đố (năm thứ sâu mọt). Nội Ngoại Trữ Thuyết (sưu tập những lời bàn về việc trong và việc ngoài), Thuyết Lâm (chuyện xưa), Thuyết Nan (cái khó trong việc du thuyết),... tất cả hơn mười vạn chữ.

Có người đem sách của Hàn Phi đến nước Tần. Tần vương Chính đọc quyển Cô phẫn và Ngũ đố (theo Tư Mã Thiên; Nguyễn Hiến Lê ghi đó là bộ Hàn Phi tử), rất thích. Được Lý Tư cho biết Hàn Phi là tác giả sách, vua Tần liền vội vàng đánh Hàn. Lúc đầu vua Hàn không dùng Hàn Phi, đến khi nguy cấp bèn sai Hàn Phi đi sứ sang Tần. Vua Tần gặp được Hàn Phi mừng rỡ nhưng chưa tin dùng.

Hàn Phi đi sứ qua Tần với mục đích cứu Hàn. Ông viết bài Tồn Hàn cho vua Tần, cố hết sức thuyết phục vua Tần đừng đánh Hàn. Lý Tư và Diêu Giả ganh ghét Hàn Phi, gièm Hàn Phi, nói với Tần vương Chính: "Hàn Phi là công tử nước Hàn. Nay nhà vua muốn thôn tính tất cả nước chư hầu, nhưng Phi thì rốt cuộc chỉ lo cho Hàn chứ không lo cho Tần, thường tình con người ta vẫn thế. Nay nhà vua không dùng, giữ lại đây lâu rồi cho về, thế là gây cho mình một mối lo. Không bằng lấy cớ làm trái pháp luật mà giết đi".

Vua Tần cho là phải, giao cho quan lại trị tội Hàn Phi. Lý Tư sai người đưa thuốc độc để cho Hàn Phi tự sát. Hàn Phi muốn bày tỏ trước mặt nhà vua, nhưng không được nhà vua tiếp. Sau đó nhà vua hối tiếc sai người tha thì Hàn Phi đã chết rồi.

Cũng có thuyết cho là trong lúc bị giam, Hàn Phi bèn viết bài Sơ kiến Tần dâng vua, mong dùng cái tài văn chương để thoát khỏi cửa tử. Tần vương Chính đọc xong thấy rất khâm phục, liền ra lệnh thả Hàn Phi. Nhưng quá muộn, Phi đã bị Lý Tư ép uống thuốc độc chết mất rồi.

Trường phái triết học Trung Quốc

Tư tưởng chủ yếu của Hàn Phi là thuyết Pháp trị. Không phải ông là người đầu tiên nêu lên học thuyết này mà trước đó Quản Trọng, Thương Ưởng, Thân Bất Hại đã khởi xướng học thuyết này. Tư tưởng của Hàn Phi Tử khác với tư tưởng của Nho giáo (vốn cho rằng để quản lý xã hội thì dùng Nhân trị và Đức trị), ông cho rằng cách tốt nhất để quản lý xã hội là dùng pháp luật: "Pháp luật không hùa theo người sang... Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh của kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót của kẻ thất phu".

Hàn Phi theo thuyết tính ác của thầy là Tuân Tử một cách triệt để, bảo không gì thân bằng tình cha con, vậy mà có nhiều người cha sinh con trai thì nuôi, sinh con gái thì giết đi, coi cái lợi của mình nặng hơn tình ruột thịt như vậy là con người bẩm sinh vốn đại ác. Do đó ông không bàn đến nhân nghĩa, cũng không trọng lễ như Tuân Tử, mà đề cao phương pháp dùng thế, dùng thuật, dùng luật của pháp gia để trị nước.

Ông chủ trương cho dân chúng tự do cạnh tranh trong phạm vi kinh tế để nước được mau giàu. Và ông tin rằng theo chính sách độc tài về chính trị, tự do về kinh tế, thì nhà vua chẳng cần làm gì, cứ ngồi ở trên kiểm soát kẻ dưới, là nước sẽ trị. Chủ trương "vô vi nhi trị" đó thực trái hẳn chủ trương của Lão Tử, Trang Tử; chính ra nó là một thứ cực hữu vi.

Hàn Phi tổng hợp tư tưởng của các pháp gia trước ông, các nhà nghị luận thời Chiến Quốc, mà viết bộ sách Hàn Phi Tử. Trong bộ sách này, ông thương xót những người thanh liêm, chính trực không được bọn tôi gian tà dung tha, nhìn những sự biến đổi tồn vong của các nước ngày xưa như thiên Cô Phẫn (sự phẫn nộ của con người cô độc), Ngũ Đố (năm thứ sâu mọt), Nội Ngoại Trữ Thuyết (sưu tập những lời bàn về việc trong và việc ngoài), Thuyết Lâm (chuyện người xưa), Thuyết Nan (cái khó trong việc du thuyết),... tất cả hơn mười vạn chữ. Nguyễn Hiến Lê đánh giá bộ Hàn Phi Tử có giá trị hơn bộ Quân vương (Le Prince) của Niccolò Machiavelli (1469-1527) cả về tư tưởng lẫn bút pháp.

5. Lão Tử

Lão Tử là một nhân vật chính yếu trong Triết học Trung Quốc, sự tồn tại của ông trong lịch sử hiện vẫn đang còn được tranh cãi. Theo truyền thuyết Trung Quốc, ông sống ở thế kỷ VI TCN. Nhiều học giả hiện đại cho rằng ông sống ở thế kỉ IV TCN, thời Bách gia chư tử và thời Chiến Quốc. Lão Tử được coi là người viết "Đạo đức kinh" - cuốn sách của Đạo giáo có ảnh hưởng lớn, và ông được công nhận là Khai tổ của Đạo giáo.

Người ta biết được rất ít về cuộc đời Lão Tử. Sự hiện diện của ông trong lịch sử cũng như việc ông viết cuốn "Đạo Đức Kinh" đang bị tranh cãi rất nhiều. Lão Tử đã trở thành một nhân vật văn hóa quan trọng đối với các thế hệ người Trung Quốc tiếp sau. Truyền thuyết cho rằng ông sinh ra ở huyện Khổ nước Sở, hiện nay là Lộc Ấp thuộc tỉnh Hà Nam, trong những năm cuối thời Xuân Thu. Một số truyền thuyết nói rằng khi sinh ra tóc ông đã bạc trắng, vì ông đã nằm trong bụng mẹ 8 hay 80 năm, điều này giải thích cho cái tên của ông, có thể được dịch thành "bậc thầy già cả".

Theo truyền thống, và một tiểu sử gồm cả trong cuốn sử của Tư Mã Thiên, Lão Tử là người cùng thời nhưng lớn tuổi hơn Khổng Tử và làm quan giữ sách trong thư viện triều đình nhà Chu. Khổng Tử đã có ý định hay đã tình cờ gặp ông ở nước Chu, gần nơi hiện nay là Lạc Dương, nơi Khổng Tử định đọc các cuốn sách trong thư viện. Theo những câu chuyện đó, trong nhiều tháng sau đó, Khổng Tử và Lão Tử đã tranh luận về lễ nghi và phép tắc, vốn là những nền tảng của Khổng giáo. Lão Tử cho rằng việc khôi phục lễ giáo thời nhà Chu của Khổng Tử để giúp thiên hạ thái bình là không thực dụng. Truyền thuyết Đạo giáo kể rằng những cuộc tranh luận đó có ích cho Khổng Tử nhiều hơn so với những gì có trong thư viện.

Sau này, Lão Tử nhận thấy rằng chính sự của đất nước đang tan rã và quyết định ra đi. Ông đi về phía Tây trên lưng một con trâu qua nước Tần và từ đó biến mất vào sa mạc rộng lớn. Truyền thuyết kể rằng có một người gác cửa tên Doãn Hỉ ở cửa phía tây của ải Hàm Cốc thuyết phục Lão Tử viết lại những hiểu biết của mình trước khi đi vào sa mạc. Cho tới lúc ấy, Lão Tử mới chỉ nói ra các triết thuyết của ông mà thôi, và giống như trường hợp của Chúa Giêsu, Phật, và Khổng Tử (những cuốn văn tuyển của họ hầu như được hoàn thành bởi các đệ tử). Theo yêu cầu của người lính đó, Lão Tử đã viết để lại cuốn "Đạo Đức Kinh". Nhiều cuốn ghi chép và bức tranh về Lão Tử còn lại đến ngày nay, thường thể hiện ông là một người già hói đầu với một chòm râu trắng hay đen và rất dài; ông thường cưỡi trên lưng một con trâu.

Trường phái triết học Trung Quốc

Tác phẩm của Lão Tử, cuốn Đạo Đức Kinh, là một trong những cuốn chuyên luận đáng chú ý nhất trong lịch sử triết học Trung Quốc. Nó là kiệt tác được cho là của ông, đụng chạm tới nhiều vấn đề của triết học trong quan hệ giữa con người và thiên nhiên, "người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên", rằng con người cần sống hòa hợp với thiên nhiên và tạo hóa, tuân theo quy luật của thiên nhiên, tu luyện để sống lâu và gần với Đạo.

Lão Tử đã phát triển khái niệm "Đạo", với nghĩa là "Con đường", thời Lão Tử mọi ngành nghề đều có một chữ "Đạo" đằng sau, Lão Tử nói Đạo của mình là "Đạo khả Đạo phi thường Đạo. Danh khả danh phi thường danh" (Đạo mà nói ra được thì không còn là đạo bình thường nữa, Tên mà đặt ra được thì không còn là tên bình thường nữa. Chữ Đạo ngoài nghĩa là "Đường" còn có nghĩa là "Nói", Danh ngoài nghĩa là "Tên" còn có nghĩa là "Đặt tên") và mở rộng nghĩa của nó thành quy luật hay nguyên lý của vũ trụ tuần hoàn và tác động lên vạn vật: "đạo là cách thức của thiên nhiên". Ông nhấn mạnh khái niệm vô vi, "Hư vô thanh tĩnh, tự nhiên vô vi", hay "hành động thông qua không hành động", "hành động thuận theo tự nhiên không có mục đích phi tự nhiên". Điều này không có nghĩa là người ta chỉ nên ngồi một chỗ và không làm gì cả, mà là hành động thuận theo tự nhiên, hành động theo nguyên lý vũ trụ, không bị ràng buộc vào mục đích cá nhân mạnh mẽ, vào dục vọng để đạt được một cái gì đó cụ thể. Những hành động được thực hành theo Đạo rất dễ dàng và có hiệu quả hơn mọi cố gắng để chống lại nó. Người ta hành động thuận theo tự nhiên khi thông qua tu luyện để hiểu về nguyên lý của vũ trụ, tự nhiên, và cải biến bản thân mình thành sinh mệnh cao cấp hơn. Lão Tử tin rằng cần phải tránh bạo lực khi có thể, và rằng một chiến thắng quân sự nên là dịp để đau buồn thay vì ăn mừng chiến thắng.

Giống với những lý lẽ phản đối do Plato đưa ra trong cuốn Cộng hòa về nhiều hình thái chính phủ, Lão Tử chỉ ra rằng các luật lệ để chuẩn hóa và cai trị chỉ dẫn tới một xã hội khó kiểm soát hơn. Lão Tử nói "Nếu dân không sợ chết, dọa họ chết có ích gì", người ta có thể hiểu rằng nếu đặt ra quá nhiều luật lệ hà khắc để bắt nhân dân tuân phục nhưng trong tâm của họ không phục thì sẽ gây nên những tình huống khó khăn hơn về sau.

Tương tự như nhiều nhà tư tưởng Trung Quốc khác, cách giải thích tư tưởng của ông luôn sử dụng sự nghịch biện, loại suy, sử dụng các câu nói từ trước, lặp lại, đối xứng, vần và chuỗi sự kiện lặp lại. Những đoạn văn được cho là của ông rất giống thơ và khó hiểu. Chúng được coi là những điểm khởi đầu cho sự suy xét về vũ trụ học hay quan sát nội tâm. Nhiều lý thuyết mĩ học trong nghệ thuật Trung Quốc bắt nguồn từ những ý tưởng của ông và người kế tục nổi tiếng nhất của ông là Trang Tử.

Một số người nghĩ rằng trường phái triết học Tây phương có tính chất tương tự nhất với Đạo giáo là Trường phái truyền thống, đặc biệt là các tác phẩm của Ananda Coomaraswamy và Rene Guenon.

6. Trang Tử

Trang Tử (365-290 trước Công Nguyên), có tên là Mông Lại, Mông Trang hay Mông Tẩu, là một triết gia và tác gia Đạo giáo. Tên thật của ông là Trang Chu và tác phẩm của ông sau đều được gọi là Trang Tử.

Ông sống vào thời Chiến Quốc, thời kỳ đỉnh cao của các tư tưởng triết học Trung Hoa với Bách Gia Chư Tử.

Trường phái triết học Trung Quốc

Cũng như Lão Tử, tư liệu sớm nhất chép về Trang Tử là ở bộ Sử ký của Tư Mã Thiên. Sử gia Tư Mã Thiên viết về Trang Tử khá vắn tắt: "Trang tử, người đất Mông, tên Chu, làm quan lại ở Vườn Sơn (Tất Viên)" sau đó sống ẩn dật cho đến cuối đời. Nhưng điều chắc chắn là Trang Tử sống cùng thời với Mạnh Tử và Huệ Thi thời Lương Huệ Vương và Tề Tuyên Vương. Đất Mông được xác định nằm trong đất Tống, thuộc tỉnh Hà Nam (Trung Quốc) ngày nay. Trang Tử là một trong những nhà tư tưởng đặc biệt vào loại hạng nhất thời ấy, rất giỏi kể chuyện, có sức tưởng tượng vô cùng phong phú.

Chí khí của bậc hiền triết Trang Tử cũng giống như căn bản nền tảng tư tưởng Đạo gia: ẩn dật mà khoáng đạt, quay trở về cuộc sống hòa hợp với tự nhiên, không muốn tham dự vào tranh quyền đoạt lợi, xa lánh những hệ lụy cuộc đời. Gần như đối lập với đạo Khổng mang bản thể trần tục, ưa thực tế, trọng thực nghiệm và đặc biệt tôn trọng chủ nghĩa nhân văn, Trang Tử kế tiếp truyền thống tư tưởng của Lão Tử, phát triển thành một hệ phái mà sau này người ta thường gọi một cách vắn tắt là Lão-Trang.

Khác với Lão Tử cuối cùng vì chán ngán xã hội Trung Hoa đương thời đã vượt cửa ải Hàm Cốc, mất tích về phương Tây; với Trang Tử, người đời thường nhắc đến "Trang Chu mộng hồ điệp" như một huyền thoại.

Trang Tử được cho là tác giả của một phần hoặc toàn bộ tác phẩm mang tên ông, bộ sách “Trang Tử”, một tác phẩm mang triết lý hoài nghi, lập luận rằng đời sống thì hữu hạn còn tri thức cần phải học thì vô hạn. Vậy nên việc dùng một thứ hữu hạn để truy cầu điều vô hạn, ông cho rằng thật là điên rồ.

7. Mặc Tử

Mặc Tử sinh ra ở tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông là người sáng lập của Mặc gia, với học thuyết “kiêm ái”, đối lập với học thuyết của Khổng Tử trong vài thế kỷ.

Mặc Tử ban đầu là một môn đồ của Khổng giáo cho tới khi ông cho rằng Khổng giáo nhấn mạnh quá nhiều về các quy tắc lễ nghi rườm rà và quá coi nhẹ tín ngưỡng. Bởi thế Mặc Tử đã quyết định tự mở lối đi riêng. Tuy nhiên, cuộc đời của Mặc Tử lại khá tương đồng với cuộc đời Khổng Tử ở rất nhiều khía cạnh quan trọng.

Trường phái triết học Trung Quốc

Nhiều người đọc tác phẩm của Mặc Tử và tên tuổi của ông thường được nhắc tới trong các kinh điển Trung Hoa truyền thống. Ông cũng buộc phải lưu lạc hết nước này đến nước khác trong suốt thời Chiến Quốc.

Nhiều trẻ em biết đến Mặc Tử nhờ tác phẩm “Thiên tự văn”. Đây là một bài thơ bằng tiếng Hán được dùng như là sách vỡ lòng dạy chữ Hán cho trẻ em từ thế kỷ thứ 6 trở về sau.

Nó bao gồm chính xác 1000 chữ, mỗi chữ chỉ được dùng một lần, và được sắp xếp thành 250 dòng, mỗi dòng 4 chữ gom thành các nhóm 4 dòng có vần điệu dễ nhớ. Tác phẩm này là nền tảng cho việc dạy đọc và viết thời xưa.

Đất nước, văn hóa và con người Trung Hoa quả thật có rất nhiều điều hấp dẫn gây sự thích thú và tò mò khám phá của rất nhiều khách du lịch nước ngoài. Du khách hãy tham gia tourdu lịch Trung Quốc cùng Viet Viet Tourism để có cơ hội tìm hiểu nhiều hơn về vùng đất xinh đẹp này nhé!