Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022

Công ty cổ phần N C T

Giấy phép MXH số 499/GP-BTTTT do Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 28/09/2015.

Giấy Chứng nhận Đăng ký Kinh doanh số 0305535715 do Sở kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 01/03/2008.

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Definitely Maybe
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Album phòng thu của Oasis
Phát hành29 tháng 8 năm 1994
Thu âmTháng 11 năm 1993 – Tháng 4 năm 1994
Phòng thu

  • Clear Studios, Manchester
  • Sawmills Studios, Cornwall
  • The Pink Museum, Liverpool

Thể loại

  • Britpop[1]
  • rock[2][3]

Thời lượng51:57
Hãng đĩaCreation
Sản xuất

  • Oasis
  • Mark Coyle
  • Owen Morris
  • David Batchelor

Thứ tự album của Oasis
Live Demonstration
(1993)
Definitely Maybe
(1994)
(What's the Story) Morning Glory?
(1995)
Đĩa đơn từ Definitely Maybe

  1. "Supersonic"
    Phát hành: 11 tháng 4 năm 1994
  2. "Shakermaker"
    Phát hành: 13 tháng 6 năm 1994
  3. "Live Forever"
    Phát hành: 8 tháng 8 năm 1994
  4. "Cigarettes & Alcohol"
    Phát hành: 10 tháng 10 năm 1994
  5. "Rock 'n' Roll Star"
    Phát hành: Tháng 4 năm 1995

Definitely Maybe là album phòng thu đầu tay của ban nhạc rock người Anh Oasis do hãng đĩa Creation Records phát hành vào ngày 29 tháng 8 năm 1994. Đây là album phòng thu duy nhất của ban nhạc có sự góp mặt của tay trống đầu tiên Tony McCarroll. Definitely Maybe ngay lập tức gặt hái thành công cả về mặt thương mại lẫn phê bình, bên cạnh thành công của những đĩa đơn như "Supersonic", "Shakermaker" và "Live Forever". Nhạc phẩm đã thẳng tiến đến vị trí quán quân của UK Albums Chart và trở thành album đầu tay bán chạy nhất tại Anh Quốc ở thời điểm đó, sau đó tiếp tục giành 7 chứng nhận bạch kim (doanh số 2,1 triệu bản trở lên) của BPI.[4] Definitely Maybe còn đánh dấu cột mốc khởi đầu cho thành công của Oasis tại Hoa Kỳ khi bán hơn một triệu bản tại đây dù chỉ đứng ở vị trí 58 trên Billboard 200. Đĩa nhạc tiếp tục tiêu thụ hơn 8 triệu bản toàn cầu và đón nhận lượng khen ngợi đông đảo từ giới phê bình.

Definitely Maybe đã giúp thúc đẩy sự hồi sinh nhạc pop của Anh Quốc ở thập niên 1990, đồng thời được các nhà phê bình đón nhận nồng nhiệt vì những chủ đề tích cực và làm đối trọng với nhạc grunge ở thời điểm đó. Nhạc phẩm được coi là một đại diện ưu tú của làn sóng Britpop và từng xuất hiện trong danh sách những album vĩ đại nhất mọi thời đại của nhiều ấn phẩm. Năm 2006, tạp chí NME đã tiến hành một cuộc thăm dò của độc giả trong đó Definitely Maybe được bầu chọn là album vĩ đại nhất mọi thời đại.[5]

Bối cảnh sáng tác[sửa | sửa mã nguồn]

Oasis thành lập vào năm 1991 với tên gọi ban đầu là The Rain. Những thành viên đầu tiên của nhóm gồm Liam Gallagher, Paul Arthurs, Paul McGuigan và Tony McCarroll, trước khi người anh trai của Liam là Noel sớm gia nhập sau đó. Người anh nhà Gallagher khẳng định rằng nếu anh gia nhập, nhóm sẽ giao cho anh quyền kiểm soát tuyệt đối và họ sẽ cùng làm việc để trở thành siêu sao.[6]

Oasis ký hợp đồng với hãng đĩa thu âm độc lập Creation Records vào năm 1993. Đĩa đơn ấn bản-giới hạn 12" "Columbia" được phát hành vào cuối năm 1993 để thu hút sự chú ý của cánh nhà báo và nhà lập trình radio cho ban nhạc. Bất ngờ là kênh BBC Radio 1 đã chọn đĩa đơn và phát 19 lần hai tuần sau khi nó phát hành.[7] Đĩa đơn quảng bá đầu tiên của ban nhạc là "Supersonic" phát hành vào ngày 11 tháng 4 năm 1994; ngay ở tuần kế tiếp ca khúc đã ra mắt ở vị trí thứ 31 trên bảng xếp hạng đĩa đơn của Anh.[8] Đĩa đơn kế tiếp là "Shakermaker" phát hành vào tháng 6 năm 1994 cũng ra mắt ở vị trí thứ 11 và giúp nhóm nhạc xuất hiện trong chương trình truyền hình Top of the Pops.[9]

Thu âm[sửa | sửa mã nguồn]

Oasis đã lựa chọn Monnow Valley Studio gần Monmouth vào cuối năm 1993 để thu âm album phòng thu đầu tay của nhóm. Nhà sản xuất của nhóm là Dave Batchelor – người mà Noel Gallagher từng quen biết trong những ngày anh còn làm trong đội ngũ kĩ thuật viên hỗ trợ cho Inspiral Carpets. Những buổi thu thử đã diễn ra không thành công như kì vọng. "Nó không hề diễn ra suôn sẻ", Arthurs nhớ lại, "Ông ấy là người mắc sai lầm cho công việc này. Chúng tôi sẽ chơi nhạc trong căn phòng cực kì rộng lớn này, làm cho bầu không khí náo nhiệt trong phòng thu này và chơi nhạc giống như chúng tôi luôn chơi vậy. Ông ấy nói với chúng tôi, "Hãy lại đây và nghe thử đi"; rồi chúng tôi sẽ phản ứng kiểu như "Âm thanh đó nghe không giống như trong phòng thu. Đó là gì vậy? Nó nghe mỏng, yếu và quá trong."

Những buổi thu thử tại Monnow Valley trị giá 800 bảng một ngày. Khi các buổi thu ngày càng đi vào bế tắc, nhóm bắt đầu tỏ ra hoảng loạn. Arthurs cho biết, "Noel đã điên cuồng gọi điện cho ban quản lý để nói rằng "Nó [việc thu âm] không hiệu quả". Đối với tôi việc thu âm diễn ra không suôn sẻ gây ra một chút sợ hãi." Batchelor bị bãi chức và Gallagher cố gắng dùng lại bản nhạc đã thu bằng cách mang những tệp băng ghi âm đến một số phòng thu ở Luân Đôn. Tim Abbot của Creation Records cho biết trong lúc ghé thăm ban nhạc tại Chiswick, "McGee, Noel, tôi và nhiều người đã tổ chức một buổi họp mặt lớn, chúng tôi nghe nó hết lần này đến lần khác. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ là 'Nó chẳng tạo nên cơn sốt nào đâu.' Chẳng có chuyện thành công tức thì đâu."

Tháng 1 năm 1994, Oasis trở lại từ một chuyến đi đen đủi đến Amsterdam và tiến hành thu âm lại album tại Sawmills Studio ở Cornwall. Lần này những buổi thu thử do Noel Gallagher và Mark Coyle chịu trách nhiệm sản xuất. Nhóm nhạc quyết định cách duy nhất để tái tạo âm thanh nhạc sống trong bản thu là ghi âm cùng nhau mà không cần cách âm giữa các nhạc cụ riêng lẻ. Qua nhiều bài hát, Gallagher đã sử dụng kĩ thuật ghi đè nhiều tiếng guitar. Arthurs nói rằng "đó là độc chiêu yêu thích của Noel: hạ tiếng trống, bass và guitar rhythm xuống rồi anh xử lý nó. [Phương châm] 'càng tối giản càng tốt' thực sự không tỏ ra hiệu quả nữa."

Kết quả thu âm vẫn bị coi là không vừa ý ban nhạc và có rất ít cơ hội để có thể thu lại đĩa nhạc thêm lần nữa. Vì vậy những bản nhạc đã thu buộc phải đem dùng lại. Trong sự tuyệt vọng, Marcus Russell của Creations đã liên lạc với kĩ sư kiêm nhà sản xuất nhạc Owen Morris, người từng hòa âm cho các ca khúc trong album. "Tôi chỉ nghĩ là 'họ vừa làm hỏng hết [mọi thứ] ở đây'", Morris nhớ lại sau khi nghe những bản nhạc ghi tại Sawmills. "Tôi đoán rằng ở thời điểm đó Noel đã hoàn toàn mất dạng. Marcus lúc đó thì như nài nỉ, "Anh có thể làm bất cứ thứ gì anh thích – theo đúng nghĩa đen, bất cứ thứ gì anh muốn." Những nhiệm vụ đầu tiên của nhà sản xuất này là loại bỏ các lớp ghi đè guitar mà Gallagher từng thêm vào, mặc dù vậy ông cũng nhận thấy rằng phần ghi đè của Gallagher cho phép ông thiết kế những mảng thay đổi độ to nốt nhạc/tiết tấu (xem musical dynamics) trong các bài hát như "Columbia" và "Rock 'n Roll Star".

Morris đã đảm nhiệm vị trí trưởng nhóm kĩ thuật thực hiện đĩa nhạc tại phòng thu của Johnny Marr ở Manchester; ông nhớ lại Marr "tỏ ra khiếp đảm 'trên khuôn mặt của anh' trước mọi chuyện đang diễn ra" và hoài nghi về những lựa chọn hòa âm của Morris, chẳng hạn như việc giữ lại tiếng nền ồn trong đoạn mở đầu của "Cigarettes and Alcohol". Lấy cảm hứng từ kĩ thuật dùng hiệu ứng tape delay của Phil Spector trên tiếng trống trong "Instant Karma!" của John Lennon và kĩ thuật sử dụng Eventide Harmonizer của Tony Visconti trên tiếng trống trong Low của David Bowie, Morris đã bổ sung hiệu ứng tape delay 8 nốt trên tiếng trống của Tony McCarroll, đồng thời mượn những đường xoi [trên đĩa hát] để thêm vào các nhịp cơ bản của McCarroll. Tape delay còn được dùng để nhân đôi tiếng trống của "Columbia" giúp bài hát có tiết tấu nhanh hơn, trong khi tiếng trống lục lạp được lập trình trên một vài ca khúc để theo kịp những tiếng đập trên dây mặt trống của McCarroll. Morris đã hoàn thành bản hòa âm cuối cùng vào cuối tuần của kì nghỉ lễ ngân hàng (bank holiday) trong tháng 5.

Thiết kế bìa[sửa | sửa mã nguồn]

Bức ảnh ở bìa mặt trước album được chụp bởi nhiếp ảnh gia nhạc rock Michael Spencer Jones trong nhà của guitarist Paul 'Bonehead' Arthurs. Bức hình lấy cảm hứng từ bìa LP biên tập A Collection of Beatles Oldies của The Beatles năm 1966 và Jones đã nghĩ ra vị trí của Liam trên sàn nhà nhờ một chuyến thăm đến ngành Ai Cập học nằm ở Viện bảo tàng Khoa học Manchester. Trong buổi phỏng vấn năm 2019, Jones cho biết ý tưởng chụp hình ban nhạc tại nhà của Bonehead là của Noel Gallagher; Noel lúc đầu muốn nhóm ngồi xung quanh bàn ăn của Bonehead, nhưng thay vào đó Jones đề nghị chụp ảnh trong phòng chờ đối diện với bay window (cửa sổ bay). Spencer cũng nói rằng anh yêu cầu Liam nằm xuống sàn nhà để hút sự chú ý từ sàn gỗ của căn phòng, khiến anh thấy bức hình trông giống như một tấm hình quảng cáo cho sơn véc-ni. Theo Spencer Jones thì ly rượu nằm ở bên phải Liam đã được rót đầy Ribena pha loãng, mặc dù truyền thuyết thành thị gợi ý rằng điều này đã được áp dụng vì ban nhạc không đủ tiền mua rượu. Lý do thực sự là những bức ảnh của Ribena tốt hơn rượu đỏ.

Đánh giá chuyên môn[sửa | sửa mã nguồn]

Đánh giá chuyên môn
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
[10]
Chicago Sun-Times
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
[11]
Encyclopedia of Popular Music
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
[12]
Mojo
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
NME 9/10[13]
Pitchfork 8.8/10[14]
Q
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Rolling Stone
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Select 5/5[15]
The Tampa Tribune
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
Top 100 oldies của mọi thời đại năm 2022
[16]

Definitely Maybe đón nhận đông đảo khen ngợi từ giới phê bình bên cạnh thành công về mặt thương mại; nhiều nhà phê bình và thính giả chào đón sự dũng cảm tích cực của album, đặc biệt trong thời kì mà rock bị thống trị bởi dòng nhạc grunge của Mỹ mang nét tương phản với chính album.[17] Họ còn ca ngợi các kĩ năng sáng tác và giai điệu của Noel Gallagher cùng với giọng ca của người em trai Liam. Keith Cameron của NME gọi Noel là "một nghệ sĩ nhạc pop điêu luyện theo kiểu truyền thống cổ điển và một bậc thầy trong nghề của mình"; Keith tin rằng "điều duy nhất còn mơ hồ về Definitely Maybe là tựa đề của nó...," ông nói tiếp, "Thực tế là có quá nhiều cảm xúc chân thực, niềm tin mưu trí và vốn hiểu biết tường tận về viết nhạc thông qua album đầu tay của Oasis để nó trở thành nhạc phẩm của một nhóm thương nhân đã về hưu... Nó giống như bạn mở cửa rèm phòng ngủ vào một buổi sáng và phát hiện ra vài tên chết tiệt đã dựng Taj Mahal ở khu vườn sau nhà của mình, rồi lấp đầy nó bằng hương vị Angel Delight mà bạn yêu thích. Đúng vậy, thật là tuyệt."[13] Melody Maker đã chấm sao album bằng cách hiển thị một vật phẩm "thiết yếu đẫm màu máu"; nhà báo Paul Lester của tạp chí này viết, "Trong tất cả những nhóm nhạc pop người Anh mới và giỏi, Oasis là ít đùa nghịch nhất và ít quan tâm nhất đến các ảnh hưởng của tính toán mưu mẹo thời hậu hiện đại", còn đối với hàng nghìn người, "Definitely Maybe chính là những gì mà thế giới đang chờ đợi – một bản nhạc đầy đủ các bài hát để chơi nhạc sống, được tạo nên bởi một nhóm những kẻ vô lại liều lĩnh ở miền Bắc mà bạn có thể dễ dàng mơ ước cùng tham gia." Ông kết luận, "Nếu bạn không tin rằng album đem đến hàng tá cơ hội để tin rằng năm 1994 là năm tuyệt nhất đối với dòng nhạc pop/rock thì bạn... nhầm rồi."[18]

Di sản[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1997, Definitely Maybe được vinh danh là album vĩ đại thứ 14 mọi thời đại trong cuộc bầu chọn có tên gọi 'Music of the Millennium' (Âm nhạc của thiên niên kỷ) do HMV, Channel 4, The Guardian và Classic FM đồng tiến hành.[19] Trong chương trình đếm ngược danh sách "100 album vĩ đại nhất" của Channel 4, nhạc phẩm đứng ở vị tri số 6.[20] Năm 2006, tạp chí NME xếp nhạc phẩm ở vị trí số 3 trong danh sách những album Anh Quốc vĩ đại nhất, đứng sau album đầu tay cùng tên của The Stone Roses và The Queen Is Dead của The Smiths.[21] Trong cuộc bình chọn của Anh năm 2006 do NME và cuốn sách Guinness Book of British Hit Singles chủ trì, Definitely Maybe được bầu là album vĩ đại nhất mọi thời đại, trong khi các album Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band và Revolver của The Beatles lần lượt xếp sau ở vị trí số 2 và 3.[22] Tạp chí Q còn liệt nhạc phẩm đứng thứ 5 trong danh sách những album vĩ đại nhất mọi thời đại vào năm 2006, trong cùng năm đó NME xướng tên đĩa nhạc là album vĩ đại nhất mọi thời đại.[5][23]

Danh sách bài hát[sửa | sửa mã nguồn]

Tất cả các ca khúc được viết bởi Noel Gallagher.

STTTựa đềThời lượng
1."Rock 'n' Roll Star" 5:23
2."Shakermaker" 5:08
3."Live Forever" 4:36
4."Up in the Sky" 4:28
5."Columbia" 6:17
6."Supersonic" 4:43
7."Bring It on Down" 4:17
8."Cigarettes & Alcohol" 4:49
9."Digsy's Dinner" 2:32
10."Slide Away" 6:32
11."Married with Children" 3:15
Bài hát bổ sung
Những bài hát không nằm trong hầu hết các ấn bản
STTTựa đềThời lượng
4."Cloudburst" (Ấn bản duy nhất ở Nhật) 5:22
6."Sad Song" (Ấn bản duy nhất ở Nhật) 4:27
12."Whatever" (Ấn bản duy nhất ở Mexico) 6:22
Các bài hát bổ sung trong ấn bản đặc biệt của Nhật Năm 2014[24]
STTTựa đềThời lượng
12."Shakermaker" (Slide Up mix) 5:36
13."Bring It on Down" (phiên bản Monnow Valley) 4:23

Phiên bản đĩa vinyl[sửa | sửa mã nguồn]

Tất cả các ca khúc được viết bởi Noel Gallagher.

Mặt 1
STTTựa đềThời lượng
1."Rock 'n' Roll Star" 5:23
2."Shakermaker" 5:08
3."Live Forever" 4:36
Mặt 2
STTTựa đềThời lượng
1."Up in the Sky" 4:28
2."Columbia" 6:17
3."Sad Song" 4:30
Mặt 3
STTTựa đềThời lượng
1."Supersonic" 4:43
2."Bring It on Down" 4:17
3."Cigarettes & Alcohol" 4:49
Mặt 4
STTTựa đềThời lượng
1."Digsy's Dinner" 2:32
2."Slide Away" 6:32
3."Married with Children" 3:15

Box set các đĩa đơn[sửa | sửa mã nguồn]

Definitely Maybe
Tập tin:Definitely Maybe Singles box set cover.jpg
Box set của Oasis
Phát hành4 tháng 11 năm 1996
Thu âm1993–1994
Thể loạiRock, Britpop
Thời lượng87:38
Hãng đĩaCreation
Sản xuấtOasis, Mark Coyle, Owen Morris, Dave Batchelor
Thứ tự album của Oasis
Definitely Maybe
(1996)
(What's the Story) Morning Glory?
(1996)

Bộ đĩa box set Definitely Maybe được phát hành vào ngày 4 tháng 11 năm 1996 kèm theo bốn đĩa đơn, trong đó có đĩa mặt B và một đĩa ghi lại những buổi phỏng vấn. Box set đứng ở vị trí số 23 trên UK Singles Chart.[25]

Tất cả các ca khúc đều do Noel Gallagher sáng tác, ngoại trừ "I Am the Walrus" của Lennon–McCartney.

Đĩa 1
STTTựa đềThời lượng
1."Những buổi phỏng vấn" 18:22
Đĩa 2
STTTựa đềThời lượng
1."Supersonic" 4:44
2."Take Me Away" 4:30
3."I Will Believe" (Live) 3:46
4."Columbia" (White label demo) 5:45
Đĩa 3
STTTựa đềThời lượng
1."Shakermaker" 5:08
2."D'Yer Wanna Be a Spaceman?" 2:41
3."Alive" (Đĩa demo 8-track) 3:56
4."Bring It on Down" (Live) 4:17
Đĩa 4
STTTựa đềThời lượng
1."Live Forever" 4:36
2."Up in the Sky" (Phiên bản coustic) 3:32
3."Cloudburst" 5:21
4."Supersonic" (Live) 5:12
Đĩa 5
STTTựa đềThời lượng
1."Cigarettes & Alcohol" 4:49
2."I Am the Walrus" (Live) 6:25
3."Listen Up" 6:39
4."Fade Away" 4:13

Tái bản 2014[sửa | sửa mã nguồn]

Nằm trong một chiến dịch quảng bá mang tên Chasing the Sun, album được phát hành vào ngày 19 tháng 5 năm 2014, một ấn bản đặc biệt có sự xuất hiện của album gốc đã được tái chỉnh sửa hậu kì, tặng kèm với hai đĩa tài liệu bổ sung. Bên cạnh đó, một ấn phẩm tái bản giới hạn đĩa cassette demo gốc năm 1993 của ban nhạc cũng được bày bán để khách hàng mua.

Tái bản đĩa 2 năm 2014: Mặt B
STTTựa đềThời lượng
1."Columbia" (White Label Demo)  
2."Cigarettes & Alcohol" (Demo)  
3."Sad Song"  
4."I Will Believe" (Live)  
5."Take Me Away"  
6."Alive" (Demo)  
7."D'Yer Wanna Be a Spaceman?"  
8."Supersonic" (Live)  
9."Up in the Sky" (Phiên bản acoustic)  
10."Cloudburst"  
11."Fade Away"  
12."Listen Up"  
13."I Am the Walrus" (Live tại Glasgow Cathouse, Glasgow, Scotland, tháng 6 năm 1994)  
14."Whatever"  
15."(It's Good) to Be Free"  
16."Half the World Away"  
Tái bản đĩa 3 năm 2014: Những bài hát hiếm
STTTựa đềThời lượng
1."Supersonic" (Live tại Glasgow Tramshed, Glasgow, Scotland, 7 tháng 4 năm 1994)  
2."Rock 'n' Roll Star" (Demo)  
3."Shakermaker" (Buổi biểu diễn nhạc sống trong cửa hàng Paris)  
4."Columbia" (Eden Studios Mix)  
5."Cloudburst" (Demo)  
6."Strange Thing" (Demo)  
7."Live Forever" (Buổi biểu diễn nhạc sống trong cửa hàng)  
8."Cigarettes & Alcohol" (Live tại Manchester Academy, Manchester, Anh, ngày 18 tháng 12 năm 1994)  
9."D'Yer Wanna Be a Spaceman?" (Live tại Manchester Academy, Manchester, Anh, ngày 18 tháng 12 năm 1994)  
10."Fade Away" (Demo)  
11."Take Me Away" (Live tại Manchester Academy, Manchester, Anh, ngày 18 tháng 12 năm 1994)  
12."Sad Song" (Live tại Manchester Academy, Manchester, Anh, ngày 18 tháng 12 năm 1994)  
13."Half the World Away" (Live tại Phòng khách sạn Tokyo)  
14."Digsy's Dinner" (Buổi biểu diễn nhạc sống trong cửa hàng ở Paris)  
15."Married with Children" (Demo)  
16."Up in the Sky" (Buổi biểu diễn nhạc sống trong cửa hàng pử Paris)  
17."Whatever" (Chỉ có đàn dây)  
Những bài hát chỉ dùng để tải nhạc bổ sung, tái bản năm 2014[26]
STTTựa đềThời lượng
1."Live Forever" (Live Gleneagles June ‘94) 4:26
2."Digsy's Dinner" (Live Gleneagles June ‘94) 2:24

Xếp hạng và chứng nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú giảiChú thích

  1. ^ Leas, Ryan (29 tháng 8 năm 2014). “Definitely Maybe Turns 20”. Stereogum. Bản gốc lưu trữ 2 tháng 4 năm 2017. Truy cập 8 tháng 4 năm 2017. Outside of all those particulars, though, and applying the narrative to Britain itself as well as how Britpop figured in here, is the fact that Definitely Maybe was the final shot in the first round of the genre's peak.
  2. ^ Partridge, Kenneth (29 tháng 8 năm 2014). “Oasis' 'Definitely Maybe' at 20: Classic Track-by-Track Album Review”. Billboard. Bản gốc lưu trữ 7 tháng 11 năm 2016. Truy cập 17 tháng 5 năm 2017.
  3. ^ Comaratta, Len (22 tháng 5 năm 2014). “Oasis – Definitely Maybe [Reissue]”. Consequence of Sound. Bản gốc lưu trữ 6 tháng 12 năm 2016. Truy cập 17 tháng 5 năm 2017.
  4. ^ “Certified Awards Search”. British Phonographic Industry. Bản gốc lưu trữ 4 tháng 6 năm 2018. Truy cập 9 tháng 4 năm 2011.
  5. ^ a b “Best album of all time revealed”. NME. 2 tháng 6 năm 2006. Truy cập 27 tháng 5 năm 2017.
  6. ^ Harris, p. 126
  7. ^ Harris, p. 132
  8. ^ Harris, p. 149
  9. ^ Harris, p. 167
  10. ^ Erlewine, Stephen Thomas. “Definitely Maybe – Oasis”. AllMusic. Truy cập 15 tháng 10 năm 2017.
  11. ^ DeRogatis, Jim (8 tháng 1 năm 1995). “Oasis, 'Definitely Maybe' (Creation; Epic)”. Chicago Sun-Times. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2017. Truy cập 6 tháng 3 năm 2017 – qua HighBeam.
  12. ^ Larkin, Colin (2011). The Encyclopedia of Popular Music (ấn bản 5). Omnibus Press. ISBN 0-85712-595-8.
  13. ^ a b Cameron, Keith (27 tháng 8 năm 1994). “Family Duels”. NME: 35. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 8 năm 2000. Truy cập 27 tháng 5 năm 2014.
  14. ^ Dombal, Ryan (22 tháng 5 năm 2014). “Oasis: Definitely Maybe: Chasing the Sun Edition”. Pitchfork. Truy cập 23 tháng 5 năm 2016.
  15. ^ Perry, Andrew (tháng 9 năm 1994). “Smoke beer, drink tabs!”. Select (51): 90–91.
  16. ^ Ferman, Dave (ngày 9 tháng 10 năm 1994). “Oasis offers relief from usual English fare”. The Tampa Tribune. tr. 105.
  17. ^ “The Top 200 Tracks of the 1990s: 50-21”. Pitchfork Media. 2 tháng 9 năm 2010. Truy cập 27 tháng 5 năm 2014.
  18. ^ Lester, Paul (27 tháng 8 năm 1994). “Certainly Probably”. Melody Maker: 37.
  19. ^ “Channel 4/HMV best music of this millennium”. Rocklistmusic.co.uk. Truy cập 2 tháng 1 năm 2017.
  20. ^ “The 100 Greatest Albums”. Channel 4. Bản gốc lưu trữ 14 tháng 9 năm 2008. Truy cập 27 tháng 4 năm 2017.
  21. ^ “NME's best British album of all time revealed”. NME. UK. 26 tháng 1 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2019.
  22. ^ “Oasis' album 'best of all time'”. BBC News. 1 tháng 1 năm 2006. Truy cập 6 tháng 4 năm 2019.
  23. ^ “Oasis top best British album poll”. BBC.co.uk. 18 tháng 2 năm 2008. Truy cập 15 tháng 3 năm 2018.
  24. ^ “Oasis – Definitely Maybe (1994) [2014, Remastered, 20th anniversary, Japanese Deluxe Edition]”. israbox.pw. 7 tháng 2 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2019. Truy cập 9 tháng 4 năm 2017.
  25. ^ “Oasis – Definitely maybe singles box silver”. Chart Stats. Truy cập 11 tháng 10 năm 2018.
  26. ^ Paul Sinclair (16 tháng 5 năm 2014). “Free Oasis download: Live at Glasgow 1994”. superdeluxeedition.com. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2018.
  27. ^ "Australiancharts.com – Oasis – Definitely Maybe". Hung Medien. Truy cập 27 tháng 5 năm 2014.
  28. ^ "Austriancharts.at – Oasis – Definitely Maybe" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập 27 tháng 5 năm 2014.
  29. ^ "Ultratop.be – Oasis – Definitely Maybe" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập 27 tháng 5 năm 2014.
  30. ^ "Dutchcharts.nl – Oasis – Definitely Maybe" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập 27 tháng 5 năm 2014.
  31. ^ Pennanen, Timo (2006). Sisältää hitin – levyt ja esittäjät Suomen musiikkilistoilla vuodesta 1972 (bằng tiếng Phần Lan) (ấn bản 1). Helsinki: Kustannusosakeyhtiö Otava. tr. 263. ISBN 978-951-1-21053-5.
  32. ^ “Tous les Albums de l'Artiste choisi”. InfoDisc. Truy cập 5 tháng 6 năm 2017.
  33. ^ "Officialcharts.de – Oasis – Definitely Maybe". GfK Entertainment Charts. Truy cập 27 tháng 5 năm 2014.
  34. ^ “Tonlist Top 40”. DV. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2017.[liên kết hỏng]
  35. ^ “Billboard – Issue March 16th 1996 Hits of The World”. Billboard.
  36. ^ "Italiancharts.com – Oasis – Definitely Maybe". Hung Medien. Truy cập 5 tháng 6 năm 2017.
  37. ^ “Oricon Archive – Oasis”. Oricon. Truy cập 5 tháng 6 năm 2017.
  38. ^ "Charts.nz – Oasis – Definitely Maybe". Hung Medien. Truy cập 27 tháng 5 năm 2014.
  39. ^ "Norwegiancharts.com – Oasis – Definitely Maybe". Hung Medien. Truy cập 27 tháng 5 năm 2014.
  40. ^ "Spanishcharts.com – Oasis – Definitely Maybe". Hung Medien. Truy cập 5 tháng 6 năm 2017.
  41. ^ "Swedishcharts.com – Oasis – Definitely Maybe". Hung Medien. Truy cập 27 tháng 5 năm 2014.
  42. ^ "Swisscharts.com – Oasis – Definitely Maybe". Hung Medien. Truy cập 27 tháng 5 năm 2014.
  43. ^ "Official Albums Chart Top 100". Official Charts Company. Truy cập 27 tháng 5 năm 2014.
  44. ^ "Oasis Chart History (Billboard 200)". Billboard. Truy cập 27 tháng 5 năm 2014.
  45. ^ “Oasis > Charts & Awards > Billboard Albums”. AllMusic. Truy cập 1 tháng 1 năm 2017.
  46. ^ 18 tháng 9 năm 2004/7502/ "Official Albums Chart Top 100". Official Charts Company. Truy cập 27 tháng 5 năm 2014.
  47. ^ “Irish Albums Top 100 – ngày 22 tháng 5 năm 2014”. Irma.ie. 3 tháng 5 năm 2012. Truy cập 3 tháng 6 năm 2014.
  48. ^ “Artisti – Classifica settimanale WK 21 (dal 19-05-2014 al 25-05-2014)” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Bản gốc lưu trữ 29 tháng 5 năm 2014. Truy cập 29 tháng 5 năm 2014.
  49. ^ “Scottish Albums Top 40 – 31st May 2014”. Official Charts. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2014.
  50. ^ 31 tháng 5 năm 2014/7502/ "Official Albums Chart Top 100". Official Charts Company. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2014.
  51. ^ Ryan, Gavin (2011). Australia's Music Charts 1988–2010. Mt. Martha, VIC, Úc: Moonlight Publishing.
  52. ^ “Canada album certifications – Oasis – Definitely Maybe”. Music Canada.
  53. ^ “France album certifications – Oasis – Definitely Maybe” (bằng tiếng Pháp). Syndicat national de l'édition phonographique.
  54. ^ “Japan album certifications – Oasis – Definitely Maybe” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Nhật Bản. Chọn 1994年月 trong menu thả xuống
  55. ^ “New Zealand album certifications – Oasis – Definitely Maybe”. Recorded Music NZ.
  56. ^ “Guld- och Platinacertifikat − År 1987−1998” (PDF) (bằng tiếng Thụy Điển). IFPI Thụy Điển.
  57. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Awards (Oasis; 'Definitely Maybe')”. IFPI Switzerland. Hung Medien.
  58. ^ “Britain album certifications – Oasis – Definitely Maybe” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Chọn albums trong bảng chọn Format. Chọn Multi-Platinum trong nhóm lệnh Certification. Nhập Definitely Maybe vào khung "Search BPI Awards" rồi nhấn Enter
  59. ^ Myers, Justin (6 tháng 10 năm 2016). “Flashback to Oasis' debut album Definitely Maybe”. Officialcharts.com. Truy cập 9 tháng 4 năm 2017.
  60. ^ “American album certifications – Oasis – Definitely Maybe” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Nếu cần, nhấn Advanced Search, dưới mục Format chọn Album rồi nhấn Search

Đọc thêm
  • Harris, John. Britpop!: Cool Britannia and the Spectacular Demise of English Rock. Da Capo Press, 2004. ISBN 0-306-81367-X

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Definitely Maybe tại YouTube (streamed copy where licensed)

Có phô mai, có schmaltz, cảm xúc thô và giai điệu giết người kỳ lạ trong danh sách số người yêu thích của quốc gia mọi thời đại. Danh sách này, được phát hành ngày hôm qua, cho thấy các bài hát công khai thích các giai điệu hiện đại.

Nó được biên soạn để đánh dấu kỷ niệm 50 năm của các bảng xếp hạng của Anh và đứng đầu trong số 100 số phổ biến nhất là Rhapsody nổi tiếng của Nữ hoàng.

Không một ca khúc nào trong 15 năm qua lọt vào top 25, chỉ với bốn bài hát từ 10 năm qua chui vào bảng xếp hạng.

Từ thập kỷ trước, chỉ có Kylie Minogue không thể đưa bạn ra khỏi đầu tôi, Oasis không nhìn lại trong sự tức giận, ngày đẹp trời của U2 và Elvis đã phối lại một chút ít cuộc trò chuyện.

Các ngôi sao thời hiện đại như Robbie Williams, Spice Girls và Westlife đã không tham gia, mặc dù ban nhạc Ailen sẽ nhận được giải thưởng an ủi bằng cách đạt vị trí số một trong bảng xếp hạng tuần này, kỷ lục 941 để làm như vậy.

Bảng xếp hạng năm 1984 Topper Band Aid's Do họ biết đó là Giáng sinh là bài hát hiện đại nhất trong top 25.

Người dùng của các trang web khác nhau và người nghe Radio 2 đã bỏ phiếu trong cuộc thăm dò, điều này có thể giải thích lý do tại sao bảng xếp hạng nghiêng về phía Golden Oldies.

Trường suy nghĩ nói rằng âm nhạc hiện đại không tốt lắm sẽ cho rằng biểu đồ cho thấy mọi người muốn những bài hát phù hợp, được chơi bởi những người nhiều hơn là tạo ra những người đàn ông tiếp thị theo đuổi sự chú ý của các cô gái tuổi teen.

Tất cả ba trong số 17 số số của Beatles đều lọt vào Top 100 mọi thời đại, với những nỗ lực sau chia tay của họ khi thấy Chúa tể ngọt ngào của George Harrison ở vị trí thứ năm và Imagine của John Lennon ở vị trí thứ hai.

Darren Haynes của công ty biểu đồ chính thức đã tổng hợp danh sách này cho biết: "Hương vị của công chúng khá nhất quán. Những bài hát nổi tiếng cổ điển này vẫn là những giai điệu mà mọi người yêu thích nhất. Ngay cả thế hệ trẻ cũng nhận những bài hát này trên tàu của riêng họ."

Hoàn thành 100 sẽ được phát sóng bởi Radio 2 tối nay.

Những người chúng tôi đã yêu

1 Nữ hoàng - Bohemian Rhapsody Queen - Bohemian Rhapsody

2 John Lennon - Tưởng tượng John Lennon - Imagine

3 Beatles - Hey Jude Beatles - Hey Jude

4 Simon & Garfunkel - Cầu trên nước gặp khó khăn Simon & Garfunkel - Bridge Over Troubled Water

5 George Harrison - Chúa tể ngọt ngào của tôi George Harrison - My Sweet Lord

6 Procol Harum - Một sắc thái trắng nhạt hơn Procol Harum - A Whiter Shade Of Pale

7 con vật - Ngôi nhà của mặt trời mọc Animals - The House Of The Rising Sun

8 ABBA - Nữ hoàng nhảy múa Abba - Dancing Queen

9 BEACH BOYS - Những rung động tốt Beach Boys - Good Vibrations

10 Nữ hoàng & David Bowie - dưới áp lực Queen & David Bowie - Under Pressure

11 Kate Bush - Wuthering Heights Kate Bush - Wuthering Heights

12 Pink Floyd - một viên gạch khác trong tường Pink Floyd - Another Brick In The Wall

13 Cảnh sát - Mỗi hơi thở bạn hít vào Police - Every Breath You Take

14 anh em chính nghĩa - bạn đã mất cảm giác yêu thương đó Righteous Brothers - You've Lost That Loving Feeling

15 ban nhạc viện trợ - họ có biết đó là Giáng sinh không Band Aid - Do They Know It's Christmas

16 viên đá lăn - (Tôi không thể nhận được) sự hài lòng Rolling Stones - (I Can't Get No) Satisfaction

17 Beatles - Cô ấy yêu bạn Beatles - She Loves You

18 Tế bào mềm - Tình yêu bị nhiễm độc Soft Cell - Tainted Love

19 Beatles - Tất cả những gì bạn cần là tình yêu Beatles - All You Need Is Love

20 Elvis Presley - Nhà tù Rock Elvis Presley - Jailhouse Rock

21 10 cc - Tôi không yêu 10 CC - I'm Not In Love

22 Steve Harley & Cockney Rebel - Make Me Smile (Hãy đến gặp tôi) Steve Harley & Cockney Rebel - Make Me Smile (Come Up And See Me)

22 Rod Stewart - Maggie May Rod Stewart - Maggie May

24 Roy Orbison - Ồ, người phụ nữ xinh đẹp Roy Orbison - Oh Pretty Woman

25 David Bowie - không gian kỳ quặc David Bowie - Space Oddity

26 Sinead O'Connor - Không có gì so sánh 2 u Sinead O'Connor - Nothing Compares 2 U

27 Beatles - Tôi muốn nắm tay bạn Beatles - I Want To Hold Your Hand

28 vận động viên nửa đêm của Dexy - Come On Eileen Dexy's Midnight Runners - Come On Eileen

29 Marvin Gaye - Tôi đã nghe nó qua The Grapevine Marvin Gaye - I Heard It Through The Grapevine

30 Monkees - Tôi là một tín đồ Monkees - I'm A Believer

31 Boomtown Rats - Tôi không thích thứ Hai Boomtown Rats - I Don't Like Mondays

32 Beatles - một đêm khó khăn Beatles - A Hard Day's Night

33 Beatles - Giúp đỡ! Beatles - Help!

34 Frankie đến Hollywood - Thư giãn Frankie Goes To Hollywood - Relax

35 Kylie Minogue - Không thể đưa bạn ra khỏi đầu tôi Kylie Minogue - Can't Get You Out Of My Head

36 Nữ hoàng - Innuendo Queen - Innuendo

37 Byrds - Mr Tambourine Man Byrds - Mr Tambourine Man

38 ABBA - Waterloo Abba - Waterloo

39 Elvis vs JXL - Cuộc trò chuyện ít hơn một chút Elvis vs JXL - A Little Less Conversation

40 kinks - bạn thực sự có tôi Kinks - You Really Got Me

41 Oasis - Đừng nhìn lại trong cơn giận Oasis - Don't Look Back In Anger

42 Elvis Presley - tất cả đều run rẩy Elvis Presley - All Shook Up

43 Fleetwood Mac - Albatross Fleetwood Mac - Albatross

44 Elvis Presley - bạn có cô đơn tối nay không Elvis Presley - Are You Lonesome Tonight

45 Bryan Adams - (mọi thứ tôi làm) Tôi làm điều đó cho bạn Bryan Adams - (Everything I Do) I Do It For You

46 Rolling Stones - Sơn nó màu đen Rolling Stones - Paint It Black

47 Nilsson - không có bạn Nilsson - Without You

48 Elvis Presley - Điều kỳ diệu của bạn Elvis Presley - The Wonder Of You

49 Louis Armstrong - Thật là một thế giới/quán rượu tuyệt vời Louis Armstrong - What A Wonderful World/Cabaret

50 Ian Dury & The Blockheads - đánh tôi bằng nhịp điệu của bạn Ian Dury & The Blockheads - Hit Me With Your Rhythm Stick

51 ABBA - Người chiến thắng lấy tất cả Abba - The Winner Takes It All

52 Blondie - Heart of Glass Blondie - Heart Of Glass

53 Beatles - Ngày Tripper/Chúng tôi có thể giải quyết nó Beatles - Day Tripper/We Can Work It Out

54 Elvis Presley-Không thể không yêu/Rock-a-Hula Baby Elvis Presley - Can't Help Falling In Love/Rock-A-Hula Baby

55 George Michael - thì thầm bất cẩn George Michael - Careless Whisper

56 Beatles - vé đi xe Beatles - Ticket To Ride

56 John Lennon - Người phụ nữ John Lennon - Woman

58 Beatles - Không thể mua cho tôi tình yêu Beatles - Can't Buy Me Love

59 Elvis Presley - Bây giờ hoặc không bao giờ Elvis Presley - It's Now Or Never

60 Jimi Hendrix - Voodoo Chile Jimi Hendrix - Voodoo Chile

61 Dusty Springfield - Bạn không cần phải nói rằng bạn yêu tôi Dusty Springfield - You Don't Have To Say You Love Me

62 Beatles - Tàu ngầm vàng/Eleanor Rigby Beatles - Yellow Submarine/Eleanor Rigby

63 Liên đoàn con người - bạn không muốn tôi Human League - Don't You Want Me

64 Roy Orbison - Chỉ cô đơn Roy Orbison - Only The Lonely

65 Bill Haley và sao chổi của anh ấy - Rock suốt ngày đêm Bill Haley & His Comets - Rock Around The Clock

66 Beatles - Người viết bìa mềm Beatles - Paperback Writer

67 Jam - đi dưới lòng đất Jam - Going Underground

68 T Rex - Nhận nó trên T Rex - Get It On

69 Slade - Merry xmas mọi người Slade - Merry Xmas Everybody

70 Sonny & Cher - I Got You Babe Sonny & Cher - I Got You Babe

71 kinks - buổi chiều đầy nắng Kinks - Sunny Afternoon

72 Bonnie Tyler - nhật thực toàn phần Bonnie Tyler - Total Eclipse Of The Heart

73 Joe Cocker - Với một chút giúp đỡ từ bạn bè của tôi Joe Cocker - With A Little Help From My Friends

73 Abba - Mamma Mia Abba - Mamma Mia

75 Gerry & The Pacemakers - Bạn sẽ không bao giờ đi bộ một mình Gerry & The Pacemakers - You'll Never Walk Alone

75 David Bowie - Tro tàn với tro cốt David Bowie - Ashes To Ashes

75 anh em chính nghĩa - giai điệu Unchained Righteous Brothers - Unchained Melody

78 Beatles - Quay lại Beatles - Get Back

79 Abba - Biết tôi biết bạn Abba - Knowing Me Knowing You

80 Madonna - Giống như một lời cầu nguyện Madonna - Like A Prayer

81 Elvis Presley - Quay trở lại người gửi Elvis Presley - Return To Sender

82 vòng đeo - Ngọn lửa vĩnh cửu Bangles - Eternal Flame

83 Freddie Mercury - Sống một mình Freddie Mercury - Living On My Own

83 U2 - Ngày đẹp trời U2 - Beautiful Day

85 Buggles - Video đã giết chết ngôi sao radio Buggles - Video Killed The Radio Star

86 Stones Rolling - Jumping Jack Flash Rolling Stones - Jumping Jack Flash

87 Loài thịt - Tôi sẽ làm bất cứ điều gì vì tình yêu (nhưng tôi sẽ không làm điều đó) Meat Loaf - I'd Do Anything For Love (But I Won't Do That)

88 Michael Jackson - Billie Jean Michael Jackson - Billie Jean

89 Scott McKenzie - San Francisco (hãy chắc chắn để mặc một số hoa trên tóc của bạn) Scott McKenzie - San Francisco (Be Sure To Wear Some Flowers In Your Hair)

90 Beatles - Từ tôi đến bạn Beatles - From Me To You

91 Alice Cooper - Trường học Alice Cooper - School's Out

92 A -HA - Mặt trời luôn chiếu sáng trên TV A-ha - The Sun Always Shines On TV

93 Bee Gees - Sốt đêm Bee Gees - Night Fever

94 Gloria Gaynor - Tôi sẽ sống sót Gloria Gaynor - I Will Survive

95 Đá lăn - Phụ nữ Honky Tonk Rolling Stones - Honky Tonk Women

95 Hollies - Anh ấy không nặng anh ấy là anh trai của tôi Hollies - He Ain't Heavy He's My Brother

97 Beatles - Xin chào tạm biệt Beatles - Hello Goodbye

98 Smokey Robinson & The Miricles - Nước mắt của một chú hề Smokey Robinson & The Miracles - Tears Of A Clown

99 Cảnh sát - Tin nhắn trong chai Police - Message In A Bottle

99 Billy Joel - Uptown Girl Billy Joel - Uptown Girl

Bài hát oldies số một của mọi thời đại là gì?

1Over the Rainbow” by Judy Garland. This song came to popularity as the most famous track from The Wizard of Oz.

Bài hát cũ nổi tiếng nhất là gì?

Top 50 bài hát mang tính biểu tượng nhất mọi thời đại..
Mùi như tinh thần tuổi teen - Nirvana ..
Hãy tưởng tượng - John Lennon ..
Một - u2 ..
Billie Jean - Michael Jackson ..
Bohemian Rhapsody - Nữ hoàng ..
Này Jude - The Beatles ..
Giống như một viên đá lăn - Bob Dylan ..
Tôi không thể nhận được sự hài lòng - những viên đá lăn ..

Một số bài hát cũ mà mọi người đều biết là gì?

Hãy cẩn thận với một khi bạn nghe thấy họ, có lẽ bạn sẽ không thể quên chúng ...
Nữ hoàng - 'Bohemian Rhapsody.....
Beyoncé - phụ nữ độc thân.....
Hành trình - Đừng ngăn chặn sự tin cậy '....
Hoảng loạn!....
Bon Jovi - Livin 'trên một lời cầu nguyện.....
Britney Spears - em bé một lần nữa.....
Gloria Gaynor - Tôi sẽ sống sót.....
The Killers - Mr ..

Golden oldies là gì?

Golden Oldies thường đề cập đến âm nhạc độc quyền từ những năm 1950 và 1960.music exclusively from the 1950s and 1960s.