Tìm hiểu lỗi viết câu của học sinh lớp 4 đề xuất cách chữa một số lỗi viết câu

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

      I. Lý do chọn đề tài

     Bậc học Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục Tiểu học có vai trò quan trọng, giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn, lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đó là những con người phát triển toàn diện, có tri thức, có năng lực thực hành, chủ động, sáng tạo. Bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân cho học sinh.

     Đáp ứng yêu cầu đó, các môn học ở Tiểu học được xây dựng theo quan điểm tích hợp nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh và hình thành cho các em những kĩ năng học tập. Cùng với các môn học khác, môn Tiếng Việt ở Tiểu học nhằm giúp học sinh sử dụng Tiếng Việt có hiệu quả trong giao tiếp, đồng thời phát triển các năng lực trí tuệ và các năng lực hoạt động của học sinh, giúp các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp của ngôn từ Tiếng Việt và phần nào cuộc sống xung quanh. Từ đó, các em vận dụng kiến thức tạo lập văn bản. Để viết được một bài văn, học sinh phải sử dụng ngôn ngữ và năng lực tư duy của mình. Năng lực đó thể hiện trước hết ở việc các em diễn đạt suy nghĩ của mình bằng các câu, hay liên kết các câu đó để bày tỏ những điều mình suy nghĩ.

     Từ thực tiễn của việc dạy và học Tiếng Việt ở bậc Tiểu học,  tôi nhận thấy để học sinh lớp 4 viết được câu đúng ngữ pháp, câu hay  là vấn đề không đơn giản. Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp học giúp học sinh thực sự chủ động trong việc tiếp thu kiến thức, học sinh là chủ thể trong mọi hoạt động (tiếp thu và chiếm lĩnh kiến thức).Trước những vấn đề đặt ra, học sinh chủ động suy nghĩ, giáo viên gợi mở hỗ trợ, hướng các em vào trọng tâm vấn đề.

     Hơn nữa ở các lớp dưới, các em mới chỉ đặt các câu đơn giản gồm hai thành phần chính đó là chủ ngữ và vị ngữ (câu đơn) lên lớp 4, các em phải đặt câu có các thành phần phụ như trạng ngữ. Đây là những kiến thức mới. Việc vận dụng ngữ pháp để đặt những câu này là vấn đề khó, bỡ ngỡ với các em. Do đó, còn nhiều em đặt câu sai, chưa hoàn chỉnh hoặc nội dung chưa rõ ràng, thoát ý.

    Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi suy nghĩ trăn trở làm sao để khắc phục tình trạng mắc lỗi câu, làm sao để giúp các em viết đúng các câu văn  bởi đó là yếu tố quan trọng hình thành cho học sinh cách trình bày bài tốt một văn bản, giúp các em có khả năng lĩnh hội tri thức, phát triển tư duy và giao lưu hàng ngày, bao dạn trước tập thể, giúp nhân cách học sinh phát triển toàn diện.

     Chính vì vậy, tôi mạnh dạn thực hiện đề tài: “Một số biện pháp khắc phục lỗi sai khi viết câu văn cho học sinh lớp 4 ở trường Tiểu học". Với đề tài này, tôi mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình giúp học sinh khắc phục lỗi viết câu sai.

     II. Mục đích nghiên cứu

    1. Giáo viên:

- Tổng hợp một cách lô-gíc kiến thức Luyện từ và câu lớp 4.

- Thống kê, phân loại cho đầy đủ các dạng lỗi viết câu của học sinh.

- Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến câu sai.

- Đề xuất một số biện pháp chữa lỗi câu phù hợp để có những câu văn đúng, hay, giàu hình ảnh .

     2. Học sinh:

- Có kĩ năng vận dụng kiến thức luyện từ và câu vào việc đặt câu, trình bày một vấn đề trọn vẹn về ý, diễn đạt mạch lạc, lưu loát.

- Tự tin vào bản thân khi giao tiếp.

- Bồi dưỡng lòng yêu Tiếng Việt, hỗ trợ tích cực cho việc học tập ở tất cả các môn học cũng như trong giao tiếp hàng ngày.

     III. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

     1. Đối tượng nghiên cứu:

     Biện pháp khắc phục lỗi sai khi viết câu cho học sinh lớp 4

     2. Phạm vi nghiên cứu:

     Chương trình sách giáo khoa môn Tiếng Việt lớp 4.

    IV. Nhiệm vụ nghiên cứu:

1. Nghiên cứu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài.

2. Tìm hiểu thực trạng việc viết câu sai và nguyên nhân

3. Đề xuất một số kinh nghiệm khi hướng dẫn học sinh cách chữa câu sai.

     V. Phương pháp nghiên cứu:

1. Phương pháp nghiên cứu lý luận.

2. Phương pháp phân tích tổng hợp.

3. Phương pháp khảo sát thực tế.

4. Phương pháp thực nghiệm

     V. Thời gian nghiên cứu và ứng dụng

Giai đoạn 1: Từ tháng 9/2018 đến 11/2018: Xác định đề tài, tính cấp thiết của đề tài, chọn đề tài, tìm kiếm và thu thập tài liệu, xây dựng đề cương nghiên cứu.

Giai đoạn 2: Từ 11/2018 đến T4/2019: Thực hiện nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các cơ sở dữ liệu. Tiến hành các phương pháp cụ thể trên đối tượng nghiên cứu.

Giai đoạn 3: Từ T3/2019 đến 1/4/2019: Viết công trình nghiên cứu và nghiệm thu.

PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

     I. Cơ sở khoa học và đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học

     1. Cơ sở khoa học

Dạy học (nói chung) và dạy Tiểu học (nói riêng) cho học sinh Tiểu học là một công trình nghiên cứu giáo dục nhằm giúp các em nắm chắc chìa khó khám phá kho tàng kiến thức về tự nhiên và xã  hộ. Nó có giá trị lâu dài đảm bảo sự phát triển bền vững của học sinh.

Mặt khác, dạy Tiếng việt còn góp phần hình thành nhân cách cho học sinh Tiểu học, các em có lòng yêu thiên nhiên, đất nước, yêu cái thiện, ghét cái ác, đấu tranh với thói hư, tật xấu. Hơn nữa, dạy Tiếng việt còn rèn cho các em thói quen giao tiếp hoàn hảo, tự nhiên trong học tập và trong cuộc sống. Vì vậy, khi dạy cần lưu ý giúp các em thực hiện đúng các kĩ năng nghe, nói, viết.

     2. Đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học :

Lứa tuổi học sinh Tiểu học là  một giai đoạn phát triển tất yếu của con người nhưng ở lứa tuổi này, trẻ em có đặc điểm riêng là: tính cách hồn nhiên, ngây thơ, mang nhiều cảm tính, tiềm chứa những khả năng phát triển và ở lứa tuổi này các em bước vào thời kỳ mới. Từ hoạt động vui chơi chuyển sang hoạt động học tập, các em phải tuân theo hoạt động quy củ hơn, phải lĩnh hội tri thức mới mẻ khó hơn so với lứa tuổi mẫu giáo. Các em phải đi vào khuôn khổ khá phức tạp của việc học các môn. Đặc biệt là viết, nói, viết câu sao cho đúng để người nghe, đọc dễ hiểu. Điều đó dễ gây sức ép làm cho các em chán nản (lớp 1-2-3), ở lớp 4-5 các em đã có thói quen đi học nếu hoạt động học được tổ chức tốt gây cho các em hứng thú, niềm say mê. Vì vậy, mỗi giáo viên cần có các biện pháp phù hợp, đúng, hay để làm say mê lòng học tập ở các em.

Đặc điểm của học sinh Tiểu học là ngây thơ, trong trắng. Sự ngây thơ đó mang màu sắc cảm tính. Nó được củng cố và phát triển trên cơ sở nhận thức ngày càng cao, đúng đắn hơn. Các em rất tin vào thầy cô, bạn bè và bản thân mình. Từ niềm tin đó thầy cô phải luôn luôn chú ý chuẩn mực.

Ở lứa tuổi này “chơi” ít hơn “học” nhưng không vì thế mà ta bắt học sinh mất hẳn hoạt động vui chơi của trẻ mà ta phải biết kết hợp hài hòa “học” và “chơi”, “chơi” và “học”. Chẳng hạn, khi dạy giờ luyện từ và câu, hay giờ tập làm văn (trả bài viết), sửa lỗi viết câu, ta có thể tổ chức cho học sinh thi. Từ đó các em có ý thức nói viết đúng.

Nhìn chung ở mỗi trẻ em đều tiềm chứa một khả năng phát triển. Khả năng đó lớn cùng các em mà các em đang hòa đồng, vì thé không có gì ngạc nhiên khi thấy trẻ em ngày nay thông minh hơn trẻ em trước đây. Người giáo viên cũng phải nhạy bén với điều kiện thời đại để cải tiến phương pháp giảng dạy cho phù hợp với thực tiễn.

Học sinh Tiểu học là thực thể, chính thể trọn vẹn chưa định hình, chưa hoàn thiện mà thực thể đang lớn lên, đang phát triển, thuộc tính tâm lý phát triển không đồng đều, vì thế, các em thường hiếu động, dễ hưng phấn, khó tập trung, hay chú ý đến những hoạt động cụ thể, dễ thấy, dễ hiểu, làm theo. Các em không thích những hoạt động kéo dài thời gian. Chính vì vậy ta hiểu tại sao những lý thuyết dài dòng, khô khan, trừu tượng lại không có tác dụng bằng một tấm gương cụ thể, một lời khuyên chân tình, một cử chỉ quan tâm yêu thương. Các em dễ xúc cảm với thế giới xung quanh. Các em thường biểu hiện xúc cảm đó khi tri giác trực tiếp các sự vật và hiện tượng cụ thể hấp dẫn. Những giờ học đơn điệu, những triết lí khô cứng, thiếu hình ảnh sinh động rất khó gây cảm xúc ở các em, dễ làm cho các em mệt mỏi, nhàm chán, ít có tác dụng đến bài học nói riêng và sự phát triển của trẻ nói chung.

Để giảng dạy môn Tiếng Việt tốt nhất là phân môn luyện từ và câu lớp 4 thì ngay từ những lớp đầu cấp, giáo viên phải trang bị cho các em những kiến thức cơ bản làm nền tảng cho việc nói, viết thành câu một cách chắc chắn để các em có kiến thức vững vàng ở lớp tiếp theo và phục vụ cho việc giao tiếp hàng ngày.

Mặt khác, giáo viên nắm được đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học. Khi giảng dạy, tránh nói lý thuyết khô khan, tránh kéo dài thời gian mà cần tổ chức tiết dạy sinh động với những đồ dùng gần gũi với các em cùng với những hoạt động tích cực của học sinh làm cho tiết học sôi nổi, các em dễ nhớ, nhớ lâu.

     II. Thực trạng dạy - học viết câu.

     1. Về phía giáo viên

     1.1. Ưu điểm:

- Dạy đúng phương pháp đặc trưng của bộ môn.

- Có ý thức trách nhiệm với học sinh, nhiệt tình giảng dạy.

     1.2. Tồn tại:

- Một số giáo viên diễn đạt còn lúng túng, chưa sáng tạo. Giờ học buồn tẻ, chưa gây được hứng thú học tập cho học sinh.

- Giáo viên mới chỉ quan tâm tới đối tượng học sinh tiếp thu bài nhanh, chưa hướng dẫn học sinh sửa những lỗi sai về câu.

     2. Về phía học sinh.

- Học sinh hiểu nghĩa của từ còn hạn chế.

- Vốn từ ít ỏi.

- Kĩ năng nói và viết thành câu chưa tốt.

Do vậy ngay khi dạy tới phần ''Từ đơn - Từ ghép” Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh lớp 4A4 bằng bài tập sau:

Đề bài: Đánh dấu X vào ô trống trước những câu đúng sau:

a. Khi mùa hè đến, hoa phượng nở đỏ rực sân trường.

b. Lan Hương, em gái của em.

c. Với điệu nhảy điêu luyện, anh ấy biểu diễn đầy thuyết phục.

d. Mẹ em cao năm mét.

e . Bạn Ngọc thông minh nhưng nhanh nhẹn.

e. Em rất yêu quý và kính trọng thầy cô giáo.

g. Trong nhà bé thấy một chiếc ô tô rất đẹp.

Qua khảo sát ở lớp tôi có 60 học sinh, kết quả khảo sát như sau: 

Sĩ số

Điền đúng dấu X vào ô trống

Điền thiếu dấu X vào ô trống

Điền sai dấu X vào ô trống

60 em

21 em = 35 %

30 em = 50%

9 em = 15%

Qua kết quả khảo sát cho thấy:

Học sinh chưa hiểu nghĩa của từ, câu văn dùng từ chưa hợp lí, sắp xếp các từ trong câu lủng củng, chưa diễn đạt được một ý trọn vẹn, chưa nắm được cấu tạo câu là phải đủ hai bộ phận chính nên câu thiếu bộ phận chính, câu sai vậy mà nhiều em vẫn cho là đúng.

     3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng viết câu trên là:

- Các em chưa hiểu cặn kẽ, sâu sắc về các thành phần chính trong câu. Do đó, các em còn nhầm sang thành phần phụ của câu dẫn đến việc viết câu thiếu chủ ngữ hoặc thiếu vị ngữ, cũng có khi thiếu cả chủ ngữ và vị ngữ.

- Đối với các thành phần phụ trong câu, các em còn mơ hồ về cách cấu tạo, vị trí và nhiệm vụ của các thành phần phụ trong câu. Cho nên, các em thường chưa biết vận dụng kiến thức phần này để đặt câu có các thành phần phụ.

Ví dụ: Các em viết : Cô giáo chữa bài.

Câu trên đã là một câu vì nó có đủ hai bộ phận chính, chủ ngữ là "cô giáo' và vị ngữ là "chữa bài". Nếu như ta thêm thành phần phụ vào câu và viết là "Sáng nay, cô giáo chữa bài tập Toán." thì câu văn sẽ hay hơn và rõ nghĩa hơn,  nó thông báo cho ta biết là cô giáo chữa bài tập Toán vào buổi sáng không phải là chiều hay ngày mai.

- Khi viết bài, các em chưa biết sắp xếp ý cho phù hợp dẫn đến bài văn diễn đạt lủng củng, cách lập luận còn yếu, lúng túng, chưa thoát ý dẫn đến câu sai. Đây là nguyên nhân chính gây ra lỗi câu sai ở nhiều em.

Vì vậy, tôi thấy rất cần phải tìm ra phương pháp đổi mới trong hướng dẫn giảng dạy để khắc phục thực trạng trên, sao cho thu hút sự chú ý của học sinh vào hoạt động học, nhằm nâng cao kết quả dạy học.

     III. Các biện pháp thực hiện:

     1. Biện pháp 1: Giúp học sinh nắm chắc về câu và các thành phần cấu tạo nên câu.

Nắm chắc về câu và các thành phần câu tạo nên câu là một việc làm rất quan trọng bởi có như vậy, học sinh mới biết cách sắp xếp các từ ngữ để diễn tả một ý trọn vẹn từ đó mới có thể tạo nên một câu hoàn chỉnh. Ngoài ra, nếu câu sử dụng dẫu có nhiều từ bao nhiêu nhưng không diễn đạt được một ý trọn vẹn thì cũng không phải là câu.

Ví dụ: Trong chuỗi từ "Đêm nay anh đứng gác ở trại" do bảy từ kết hợp lại theo một trật tự nhất định diễn tả một ý đến với người đọc rằng anh bộ đội đêm nay đang làm nhiệm vụ đứng gác ở trại. Nếu ta thử thay đổi trật tự từ của câu văn trên "Ở trại gác đứng anh đêm nay": cũng vẫn chỉ là những từ đó nhưng chúng không diễn đạt được ý gì.

Ngoài ra, môn Tiếng Việt ở Tiểu học trang bị cho học sinh những kiến thức ngữ pháp chuẩn mực, rèn luyện cho học sinh có kĩ năng vận dụng để tư duy và giao tiếp. Sản phẩm của nó là những câu văn hoàn chỉnh. Để có được điều đó, các em phải huy động bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Trong đó kĩ năng nói là rất quan trọng…

Để giúp học sinh nắm chắc những thành phần cấu tạo nên câu, theo tôi, người giáo viên cần:

- Tìm ra phương pháp dạy học dễ hiểu giúp các em hứng thú, tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng, thoải mái.

- Có những câu hỏi gợi mở nhằm kích thích óc tò mò, tư duy của các em.

- Cho học sinh tiếp xúc với nhiều kiểu câu khác nhau, tự tìm các bộ phận cấu tạo, chức năng và nhiệm vụ của các bộ phận đó trong câu.

- Trong khi học sinh làm các bài tập thực hành viết câu, giáo viên phải hướng dẫn cho các em thói quen xác định yêu cầu của đề bài hay chính là việc đi trả lời ba câu hỏi:

  + Câu cần đặt thuộc kiểu câu gì?

  + Câu cần viết đã được biết trước các yếu tố gì?

  + Cần bổ sung các yếu tố nào để hoàn thiện câu?

- Với mỗi loại bài tập cần hình thành cho HS cách khái quát để giải quyết.

Ví dụ:  Dạy phân tích thành phần câu, mô hình khái quát để giải bài tập này là:

+ Tìm nội dung thông báo chính của câu.

+ Tìm chủ đề thông báo, nội dung thông báo có liên quan tới chủ đề thông báo.

+ Xác định những từ đảm nhiệm vai trò chủ thể thông báo và nội dung thông báo có liên quan đến chủ thể thông báo. Đối chiếu những từ ấy xem chúng giữ chức năng gì?

Ví dụ:  Dạy đặt câu:

+Xác định kiểu câu, nội dung chính của câu sẽ đặt.

+ Xác định cấu trúc ngữ pháp của câu

+ Tìm từ để diễn đạt nội dung của câu và tuân theo cấu trúc ngữ pháp nhất định.

+ Diễn đạt thành câu hoàn thiện.

+ Kiểm tra và sửa chữa câu vừa đặt.

- Để HS ham thích rèn luyện viết câu và viết câu có hiệu quả thì cần cho HS thực hành viết câu với:

+ Các dạng bài khác nhau: đặt câu, điền từ, viết đoạn…

+ Các hình thức làm bài khác nhau: theo lớp, theo nhóm, theo cá nhân.

+ Các phương pháp khác nhau, cách thức thực hiện khác nhau: viết câu trong viết kịch bản để đóng kịch, thi viết câu nhanh, trò chơi tìm từ nhanh, thi ứng đáp câu đúng…

+ Đưa ra các tính huống giao tiếp đa dạng trong thực tiễn đời sống.

- Củng cố, tổng kết khái quát để hướng các em vào việc sử dụng câu trong giao tiếp hàng ngày sau mỗi bài dạy.

- Dạy viết câu không chỉ gói gọn trong phạm vi môn luyện từ và câu, các phân môn khác của môn Tiếng Việt mà ở tất cả các môn học. Đồng thời phối hợp rèn kĩ năng viết câu với các kĩ năng sử dụng từ.

Tóm lại: Giáo viên cần thực sự chú ý vận dụng, nghiên cứu những kiến thức ngữ pháp được phân bố trong chương trình Tiếng Việt 4 để giúp các em biết vận dụng những kiến thức đã học ở trên vào việc đặt câu, viết câu đúng chính xác. Biết tự nhận ra những câu sai của mình để sửa thành câu đúng về mặt ngữ pháp, hay về mặt nội dung.

     2. Biện pháp 2: Hệ thống những lỗi viết câu và tìm ra nguyên nhân viết câu sai của học sinh lớp 4.

     Muốn hệ thống những lỗi viết câu và tìm ra nguyên nhân viết câu sai, việc hệ thống những lỗi viết câu sai và tìm ra nguyên nhân học sinh viết câu sai đòi hỏi giáo viên phải thực sự đầu tư về kiến thức, thời gian,…Khi chấm bài cho học sinh, giáo viên cần:

+ Tổng hợp xem lỗi viết câu sai của học sinh chủ yếu là lỗi gì.

+ Giúp các em phân tích câu của mình: sai ở đâu, thiếu thành phần gì và sửa lại thế nào.

+ Tìm ra lỗi sai chung, nêu những câu này trước lớp để các em tự so sánh vào bài của mình  rồi tìm cách chữa.

Tìm hiểu các loại lỗi viết câu qua bài của học sinh, tôi thấy ngoài lỗi chính tả thường gặp (khi viết), sai ngữ âm (khi nói) còn có các câu mắc các lỗi sau đây:

     2.1. Lỗi trong câu

     2.1.1. Lỗi về cấu tạo ngữ pháp.

     a. Lỗi thiếu thành phần câu.

* Câu thiếu chủ ngữ: Qua dự giờ và trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy những đề bài đặt câu theo một chủ đề nào đó thì số học sinh đặt câu thiếu chủ ngữ hầu như không có.

Ví dụ: “Đặt 3 câu về lớp em” thì số học sinh đặt câu có chủ ngữ 60/60 đạt 100% , với những đề bài đặt câu không cho trước chủ đề thì tỉ lệ viết câu thiếu chủ ngữ có cao hơn đặc biệt trong viết đoạn văn ngắn. Câu thiếu chủ ngữ xuất hiện nhiều bởi nhiều học sinh nhầm đối tượng.

Ví dụ: Có hoa và đậu rất nhiều quả

* Câu thiếu vị ngữ: Đó là những câu chỉ có một cụm danh từ.

Ví dụ: Lâu đài cổ kính.

Tỷ lệ học sinh viết câu thiếu vị ngữ nhiều hơn những câu thiếu chủ ngữ.

Nguyên nhân chủ yếu là do học sinh nhầm tưởng những danh từ được phát triển dài là một câu, tưởng đã có nội dung thông báo trọn vẹn mặc dù ở đó mới chỉ nêu đối tượng thông báo.

* Câu thiếu cả thành phần chủ ngữ và vị ngữ

Những câu mắc lỗi sai, thiếu thành phần chủ ngữ và vị ngữ là những câu chỉ có thành phần trạng ngữ và cũng không nói được với những câu tiếp sau để tạo thành một câu mới có trạng ngữ.

Nguyên nhân của loại lỗi này là học sinh không hiểu rằng chủ ngữ không thể đứng sau quan hệ từ,  các danh từ chỉ thời gian như khi, lúc… cần phải có bộ phận bổ sung nghĩa. Mặt khác thường là bộ phận đứng sau quan hệ từ được phát triển dài khiến học sinh tưởng là nó có nội dung thông báo.

Ví dụ: Đến ngày hoa phượng nở.

Trong ba loại câu thiếu thành phần thì tỉ lệ học sinh mắc lỗi sai câu thiếu thành phần chủ ngữ, vị ngữ nhiều hơn câu mắc lỗi thiếu cả chủ ngữ, vị ngữ.

     b. Lỗi thừa thành phần câu (lỗi diễn đạt rườm rà, dài dòng):

Là loại lỗi do câu có thành phần câu lặp lại một cách không cần thiết .

Đây là loại lỗi gặp phổ biến trong thực tế viết câu của học sinh hiện nay. Loại lỗi này,  khi học sinh kiểm tra lại rất khó nhận biết, nó làm cho đoạn văn các em viết rất lủng củng.

Ví dụ: Trong nhà em có một người mà em rất yêu mến, đó là bà em rất kính yêu.

Nguyên nhân của loại lỗi này là do các em viết như nói nên câu văn không rành mạch, kỹ năng viết câu vào tình trạng kể lan man

     c. Lỗi câu khó xác định nội dung biểu đạt, không lôgic về ý:

Là những câu về cấu tạo khó xác định các bộ phận câu kết hợp với nhau theo quan hệ ngữ pháp nào, từ đó khó xác định thành phần câu.Loại câu này có thể ngắn, có thể dài, càng dài, càng lỗi, càng lủng củng. Về ý nghĩa mối quan hệ giữa các bộ phận câu cũng không rõ ràng, chính xác không lôgíc. Do đó,  các câu tối nghĩa hoặc vô nghĩa. Đây là loại lỗi thường gặp ở học sinh trung bình, trong các bài tập làm văn, ít gặp trong các bài tập đặt câu.

Nguyên nhân của loại lỗi này khá phức tạp, trước hết là học sinh không chuẩn bị cho mình một nội dung cần nói nên không phân cách được trong tư duy ra từng ý rạch ròi. Các em viết gần như trong tình trạng vô thức, nhớ từ nào, cụm từ nào là viết ngay trong bài, không tìm cách tổ chức, sắp xếp các cụm từ để biểu đạt nội dung. Đây là loại lỗi rất khó chữa, nhiều lúc phải trao đổi trực tiếp với học sinh mới biết các em muốn diễn đạt điều gì để chữa lại cho đúng. Loại lỗi câu sai này chiếm tỷ lệ lớn trong các lỗi câu, có thể thống kê các lỗi câu này như sau:

- Câu không xác định được thành phần.

Ví dụ: Quýt có hoa có quả khi quả chín nó lại có màu da cam và quả to có nhiều nước ăn ngọt lịm.

- Câu sắp xếp sai vị trí thành phần.

Ví dụ:  Em thấy rất có ích đọc câu chuyện đó

- Các câu có một bộ phận cùng giữ hai chức năng ngữ pháp khác nhau trong câu.

Ví dụ:  Em rất yêu quý những hàng phượng đã không còn xanh mướt như những ngày nào.

     2.1.2. Lỗi về nghĩa .

- Câu sai nghĩa là những câu chứa đựng nội dung không phù hợp với hiện thực khách quan, phản ánh sai hiện thực khách quan.

Ví dụ:  Con mèo nhà em như cái cặp sách.

- Câu không rõ nghĩa: Là câu thiếu thông tin. Đó là những câu đúng về mặt cấu tạo ngữ pháp, nghĩa là có đầy đủ thành phần chính, đúng về quan niệm ngữ nghĩa chung. Nhưng thật sự câu kiểu này còn thiếu thành phần phụ bổ nghĩa cho các từ trong câu, nên nghĩa câu không đầy đủ gây hụt hẫng cho người đọc.

Ví dụ:  Mùa ổi xanh lá, em trèo cây.

- Câu không có sự tương hợp về nghĩa giữa các thành phần câu, giữa các vế câu. Loại lỗi này chiếm số lượng rất lớn và đa dạng. Có thể xem loại lỗi này là loại lỗi từ vựng - ngữ pháp.

Ví dụ:  Cây cối xanh mơn mởn xào xạc trước gió

- Câu có các vế câu không tương hợp

Ví dụ:  Trồng ổi sẽ thu được rất nhiều lợi, những đường gân nổi rõ như con rắn vậy

- Câu có tác dụng quan hệ giữa các thành phần không lô gíc không tương hợp là câu có các thành phần đồng chức không đồng loại.

Ví dụ: Hàng ngày em chăm sóc cây và đi rửa ấm chén.

Nguyên nhân là do học sinh không hiểu nghĩa từ và khả năng kết hợp của chúng.

     2.1.3. Lỗi về hình thức, lỗi về dấu câu.

Lỗi về dấu câu có thể chia làm 2 loại: Lỗi không dùng dấu câu và lỗi dùng dấu câu sai.

-  Lỗi không dùng dấu câu: Là lỗi câu sai do không dùng dấu câu ở những phần cần thiết, thường học sinh mắc lỗi này do không sử dụng dấu chấm kết thúc câu và dấu phẩy ngăn cách giữa các thành phần câu. Có những bài viết các em không sử dụng một dấu câu nào. Loại lỗi này là một lỗi phổ biến.

Nguyên nhân của loại lỗi này là do học sinh đã vi phạm nguyên tắc sử dụng dấu câu. Khi đã kết thúc một ý phải đặt dấu ngắt câu. Việc không sử dụng dấu câu gây khó khăn trong giao tiếp khiến người đọc không thể nhanh chóng nắm được nội dung các em cần truyền đạt thậm chí có những trường hợp không xác định được ý muốn diễn tả.

Ví dụ:  Lớp em có bạn Thành là học sinh giỏi và cũng là người bạn của em bạn còn là người con ngoan và hiếu thảo bạn và em đã giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn bạn đã rất quý và tôn trọng em còn em cũng đối xử với bạn ấy như vậy.

- Lỗi sử dụng dấu câu sai: Là lỗi của những câu đã sử dụng dấu câu khi không cần thiết hoặc đáng lẽ phải dùng dấu câu này, lại dùng dấu câu khác. Biểu hiện của lỗi là học sinh dùng dấu chấm ngắt câu khi chưa đúng ý, dùng dấu phẩy ngăn cách các thành phần chủ ngữ và vị ngữ, ngăn cách động từ với bổ ngữ, dùng dấu phẩy ngăn cách các thành phần chủ ngữ và vị ngữ, ngăn cách động từ với bổ ngữ, dấu hai chấm ngăn cách hai vế câu khi vế nọ không có ý giải thích cho vế kia. Phổ biến nhất trong loại lỗi này là câu dùng dấu chấm tuỳ tiện khi chưa hiểu ý, cắt đôi câu ra một cách vô lý.

Ví dụ:  Em thấy hoa đỏ, mùi thơm, em rất thích loại hoa này,  nó có thể làm đẹp khu vườn nhà em.

Việc học sinh không sử dụng dấu câu hoặc sử dụng sai dấu câu là do chưa biết áp dụng dấu câu trong việc diễn đạt nội dung,  chưa nắm được cách sử dụng chúng.

     2.2. Lỗi ngoài câu:

-  Lỗi câu lạc chủ đề là lỗi do trong văn bản có những câu phá vỡ tính liên kết chủ đề của đoạn văn.

Ví dụ: Gần nhà em có một cây hoa sữa, thân cây sần sùi, gốc cây phình ra rất to, cành cây dài và rất mập mạp, lá cây xanh mơn mởn um tùm, em thích cây hoa sữa vì em thích uống sữa. Vào mùa hoa sữa nở, những bông hoa sữa nhỏ màu trắng li ti đậu thành chùm, hương hoa toả ngào ngạt.

-  Lỗi do các câu trong văn bản mâu thuẫn với nhau về nghĩa, phá vỡ tính liên kết về nghĩa của văn bản tạo ra những câu liên kết không lô gíc. Loại lỗi này học sinh ít mắc phải.

-  Lỗi lặp câu: Những câu này được xem là lặp lại vì lặp lại nhiều lần 1 từ, một ngữ, hay lặp lại một ý nghĩa nào đó trong những câu gần nhau. Đây là một sự lặp lại không cần thiết làm cho đoạn văn không phát triển được, lủng củng, tối nghĩa.

Ví dụ:  Các bạn chơi với nhau rất vui vẻ, em và An cùng lớp với các bạn, các bạn và em học với nhau rất vui vẻ.

Tóm lại, muốn sửa lỗi câu cho học sinh thì người giáo viên phải bao quát và nắm được tất các các lỗi sai mà học sinh có thể mắc phải, nguyên nhân học sinh mắc phải các lỗi đó. Có như vậy, trong bất cứ lỗi sai nào người giáo viên cũng có thể chỉ ra cho học sinh và có cách sửa phù hợp.

    3. Biện pháp 3: Chia nhóm lỗi và xác định cách chữa các lỗi đó.

Trong quá trình dạy học, giáo viên cần thường xuyên đánh giá chất lượng viết câu và khảo sát định kì vở viết các môn của học sinh để nắm được các em đang mắc lỗi về phần nào. Từ đó xác định nguyên nhân và có biện pháp khắc phục kịp thời.

Trong đề tài này, tôi chỉ phân tích một số lỗi thường có trong bài làm của học sinh và bước đầu đề xuất cách chữa các loại lỗi câu đó:

     a. Lỗi về cấu tạo ngữ pháp:

* Câu thiếu thành phần:

-  Câu thiếu chủ ngữ

            Ví dụ: Long lanh như thủy tinh.

           Cách chữa:

Cách 1: Thêm chủ ngữ cho câu:

                  Đôi mắt long lanh như thủy tinh.

Cách 2: Chuyển vị ngữ thành bổ ngữ.

Đôi mắt chú sáng long lanh như thủy tinh.

-  Câu thiếu vị ngữ:

Ví dụ: Đôi mắt hiền hậu với đôi lông mày cong cong.

Học sinh đã nhầm tưởng câu trên đã có giá trị thông báo trong khi đó nó chỉ nêu đối tượng thông báo, chưa có nội dung thông báo.

Cách chữa:

Cách 1: Thêm vị ngữ cho câu:

Đôi mắt hiền hậu với đôi lông mày cong cong trông rất đẹp.

Cách 2: Chuyển định ngữ thành vị ngữ:

  Đôi mắt cô thật hiền hậu dưới cặp lông mày cong cong.

Ví dụ: Chú mèo này, chú mèo Tam Thể.

Mô hình cấu tạo trên là CN- P - (VN).

Ở đây, học sinh nhầm tưởng "chú mèo Tam Thể "là VN trong khi đó thực chất nó chỉ là phần phụ giải thích rõ hơn cho "chú mèo này".

Cách chữa: Biến phần phụ chú giải thành VN bằng  cách thêm động từ "là".

   Cách 1: Chú mèo này/ là mèo Tam Thể.

                      CN                            VN

 Cách 2: Thêm VN cho câu

        Chú mèo này,một chú mèo Tam Thể /có bộ lông rất đẹp.

                   CN                P                                        VN

-  Câu thiếu cả chủ ngữ và vị ngữ.

Ví dụ: Khi mùa hè đến. (Hoa phượng nở đỏ rực khắp sân trường)

Câu trên chỉ có một trạng ngữ nên thiếu nòng cốt câu.

Cách chữa:

Cách 1: Bỏ quan hệ từ"khi". Câu mới sẽ là: Mùa hè đến.

Cách 2: Thêm chủ ngữ, vị ngữ để tạo câu mới.

  Khi mùa hè đến, ve kêu râm ran suốt ngày.

Cách 3: Khi mùa hè đến, hoa phượng nở đỏ rực khắp sân trường.

* Câu thừa thành phần:

Ví dụ: Câu chuyện ấy tác giả khuyên chúng ta phải có tấm lòng nhân hậu.

Học sinh đã viết thừa từ "tác giả" hoặc cụm từ: "câu chuyện ấy".

Cả hai thành phần này đều có thể làm chủ ngữ của" khuyên chúng ta phải có tấm lòng nhân hậu " nhưng lại không hợp với nhau về ý nghĩa.

Cách chữa :

Cách 1: Bỏ từ "tác giả"

Câu chuyên ấy khuyên chúng ta phải có tấm lòng nhân hậu.

Cách 2: Bỏ cụm danh từ  "câu chuyện ấy"

Tác giả muốn khuyên chúng ta phải có tấm lòng nhân hậu.

Cách 3: Biến" câu chuyện ấy " thành trạng ngữ bằng cách thêm từ "qua".

 Qua câu chuyên ấy, tác giả khuyên chúng ta phải có tấm lòng nhân hậu.

Cách 4: Biến" tác giả " thành định ngữ của " câu chuyện ấy ".

Câu chuyện ấy của tác giả muốn khuyên chúng ta phải có tấm lòng nhân hậu.

* Câu không phân định rõ thành phần

Ví dụ: Kỷ niệm về chú gấu bông bố đã tặng sinh nhật.

Chúng ta không thể xác định được các thành phần chủ ngữ, vị ngữ của câu trên.

Cách chữa: Thay đổi vị trí từ, cụm từ và thêm động từ "là".

Chú gấu bông là món quà kỉ niệm bố em đã tặng nhân ngày sinh nhật.

Ví dụ: Cây bàng hàng ngày em thường ngồi ôn bài.

Câu trên sai do học sinh sắp xếp các thành phần chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ không hợp lí. Điều này làm cho câu khó hiểu, vô nghĩa và không rõ các thành phần ngữ pháp.

Cách chữa: Sắp xếp lại các thành phần.

Hàng ngày, em thường ngồi ôn bài dưới gốc cây bàng này.

     b. Lỗi dùng từ:

Ví dụ: Mặt mẹ ướt sũng mồ hôi.

Câu này không có sự tương hợp giữa chủ ngữ và vị ngữ bởi không nói'' khuôn mặt mẹ ướt sũng,vì "ướt sũng" chỉ nói tới cái ướt của những vật có thấm nước như quần, áo, chăn.

Cách chữa: Giáo viên giúp học sinh hiểu nghiã từ "ướt sũng", cách dùng từ cho phù hợp. Từ đó học sinh sẽ thay vị ngữ  bằng từ khác phù hợp.(Ví dụ: lấm tấm, ròng ròng,…)

  Mặt mẹ lấm tấm mồ hôi.

  Hay : Mặt mẹ ròng ròng mồ hôi.

- Câu không rõ nghĩa:

Ví dụ:  Hàng năm em về quê.

Ví dụ:  Mùa ổi xanh lá, em trèo cây.

Cách chữa:  Giáo viên giúp học sinh  đặt câu hỏi" hàng năm em về quê để làm gì?, Em trèo cây để làm gì?. Từ đó học sinh sẽ tìm ra thành phần phụ bổ nghĩa cho các từ trong câu giúp người đọc hiểu đầy đủ nghĩa của câu.

Ví dụ:  Hàng năm em về quê.thăm ông bà ngoại.

Ví dụ:  Mùa ổi xanh lá, em trèo cây hái những quả chín vàng.

- Câu không có sự tương hợp về nghĩa giữa các thành phần câu, giữa các vế câu.

Ví dụ:  Mỗi bữa em cho nó ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều.( Lúc nào emcũng cho nó nhiều thức ăn ngon)

Câu trên chúng ta thấy trạng ngữ và vế câu không tương hợp nhau, có sự mâu thuẫn giữa'' mỗi bữa'' với "sáng, trưa, chiều"

Cách chữa:   

Cách 1- Sửa trạng ngữ:

  Mỗi ngày em cho nó ăn ba bữa: sáng, trưa, chiều.

Cách 2- Kết hợp câu sau nó để tạo thành câu phù hợp.

  Mỗi bữa sáng, trưa, chiều em đều cho nó ăn nhiều thức ăn ngon.

    c. Lỗi về hình thức, lỗi về dấu câu.

Ví dụ:  Cái miệng nó có 6 chiếc răng nhọn gia đình em đặt tên cho nó là Tiểu Hổ cái đuôicủa nó dài hai mươi centimet con chuột nào thấy bóng Tiểu Hổ cũng sợ.

Cách chữa: Dùng dấu chấm câu tách các bộ phận có ý nghĩa trọn vẹn thành các câu (kết hợp với viết hoa chữ cái đầu câu).

Cái miệng nó có 6 chiếc răng nhọn để bắt chuột. Cái đuôi của nó dài hai mươi centimet. Gia đình em đặt tên cho nó là Tiểu Hổ. Con chuột nào thấy bóng Tiểu Hổ cũng sợ.

Ví dụ:  Nhân dịp kỉ niệm ngày Thành lập Đoàn 26- 3. Trường em tổ chức tham quan VinKe - Thủy Cung.

Cách chữa: Thay dấu chấm bằng dấu phảy, từ "Trường" không còn là đầu câu nên không viết hoa.

Nhân dịp kỉ niệm ngày Thành lập Đoàn 26- 3, trường em tổ chức tham quan VinKe - Thủy Cung.

d. Lỗi lặp câu:

Ví dụ:  Ở lớp, Lan là người học giỏi gần nhất lớp.

Cách chữa: Lan là người học giỏi gần nhất lớp em.

Hoặc: Ở lớp, Lan là người học giỏi gần thứ nhất.

Tóm lại, các lỗi sai khi viết câu trong Tiếng Việt là vô cùng đa dạng, việc phân loại rõ các loại lỗi sai và cách chữa với từng loại lỗi sai đó sẽ giúp học sinh không lúng túng khi đặt câu và có thể viết những câu đúng, hoặc cũng biết cách xác định lỗi sai của mình và cách sửa các câu sai đó.

     4. Biện pháp 4: Thực hiện đa dạng các hình thức chữa câu sai cho học sinh

Sau khi hệ thống những lỗi viết câu, tìm ra nguyên nhân viết câu sai của học sinh lớp 4 và thiết lập cách sửa các câu sai đó, tôi đã tiến hành phân tích và tiến hành chữa câu sai cho học sinh để nâng cao chất lượng viết câu cho học sinh của mình.

Tôi luôn tiến hành sửa lỗi câu một cách tỉ mỉ, cẩn thận. Khi hướng dẫn học sinh sửa lỗi câu tôi luôn:

+ Đưa ra các câu có lỗi sai điển hình.

+ Chỉ ra lỗi sai.

+ Xác định nguyên nhân dẫn đến lỗi sai

+ Đối chiếu câu đã sửa với câu sai, rút ra các lưu ý khi viết câu.

Cụ thể việc hướng dẫn sửa lỗi câu như sau:

- Giáo viên gọi học sinh đọc câu (đoạn văn) mắc lỗi của mình (của bạn) lên.

- Em có nhận xét gì về cách dùng từ (diễn đạt nội dung,…) ?

- Câu văn (đoạn văn) của em (của bạn) đã được chưa ? Sai ở đâu ?

- Em có thể sửa như thế nào ?

- Em hãy nhận xét câu đã được sửa và câu chưa sửa ?

Tôi lưu ý sử dụng nhiều cách để sửa lỗi câu cho học sinh:

* Sửa lỗi viết câu trên cơ sở chữa những câu chung.

Để giúp các em nhận ra những lỗi sai của mình và nhanh chóng tiếp thu được cái đúng tôi luôn theo sát giúp đỡ đến từng cá nhân yếu kém, bởi lẽ đây là những học sinh có khả năng nhận thức yếu và chậm tiến. Việc tiếp thu bài của những em này ở trên lớp gặp khó khăn, những kiến thức đối với các em còn mơ hồ, đọng lại trong đầu không được nhiều. Mà thời gian đối với mỗi giáo viên có hạn, với thời gian trên lớp giáo viên phải phân bố sao cho đều tất cả các môn học.

Vậy vấn đề đặt ra là làm sao để thực sự làm tốt biện pháp này, theo tôi chúng ta có thể sửa chữa lỗi câu của học sinh trên toàn lớp. Giáo viên cần lấy các ví dụ lỗi câu sai chung mà các em thường hay mắc, sau đó cho học sinh phân tích từng câu đó xem sai ở đâu, thiếu thành phần gì, có bị đảo lộn từ không… Biện pháp sửa chữa những lỗi câu đó như thế nào, giáo viên cho học sinh sửa lại những câu đó sao cho đúng và hay. Do vậy sẽ hạn chế được những lỗi sai về câu đó trong các bài tập làm văn sau.

Đặc biệt, giáo viên cần quan tâm đến các em học sinh yếu kém bằng nhiều hình thức như động viên, khuyến khích, quan tâm thường xuyên liên tục trong tất cả các môn học. Khi chấm bài của học sinh, giáo viên cần nhận xét rõ ràng từng sai sót để các em thấy được lỗi của mình.

- Giáo viên đọc mẫu một đoạn văn hay, một bài văn tốt về nội dung và bố cục, có sự sáng tạo; dùng từ và sắp xếp ý có sự liên kết. Giáo viên hỏi, hướng tìm ra cách dùng từ, diễn đạt ý hay để học sinh học tập.

* Sửa lỗi viết câu thông qua thảo luận nhóm.

Giáo viên có thể cho hai em đổi chéo vở để tìm ra lỗi sai. Với hình thức này, tôi cho học sinh tạo thành nhóm đôi theo năng lực hoặc đôi bạn cùng tiến. Các em đổi vở, đọc bài của bạn, phát hiện lỗi, nêu lỗi và hướng sửa, trao đổi xem bạn có đồng ý với cách sửa như vậy không , ngoài ra còn có thể phát hiện thêm một số lỗi giáo viên bỏ sót. Sau đó cùng trao đổi, kiểm tra và chữa lỗi với bạn        

* Chấm bài và chữa bài trực tiếp với từng học sinh

Do đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh Tiểu học thích khám phá những sự vật, hiện tượng cụ thể, sinh động. Các em rất xúc động khi được thầy cô chỉ dẫn để tìm ra những đặc điểm mới của đối tượng. Chính tình cảm đó đã tác động không nhỏ vào việc giúp HS liên tưởng, tưởng tượng sáng tạo để có được những hình ảnh đẹp, những câu văn hay.

* Chữa lỗi viết câu sai cho học sinh trong tất cả các môn học.

Muốn thực hiện được điều này thì việc trước tiên giáo viên phải sửa cho học sinh lỗi câu qua những câu trả lời miệng hàng ngày, trước những câu hỏi do giáo viên hay do người khác đặt ra. Câu trả lời của học sinh phải thật sự đầy đủ, rõ nghĩa. Nếu như các em trả lời chưa đúng, chưa đủ, chúng ta cần phải sửa chữa lỗi ngay cho các em từ lời ăn tiếng nói. Khi chấm bài kiểm tra tất cả các môn học ta cũng phải lưu ý cách sửa câu cho các em.

Có thể nói, việc áp dụng nhiều hình thức chữa lỗi viết câu cho học sinh có những tác dụng rất lớn, giúp học sinh nắm vững lỗi sai cũng như cách sửa câu của mình. Không những thế, tùy từng đối tượng học sinh lại có những cách chữa bài riêng để việc chữa thực sự có tác dụng tốt nhất.

     5. Biện pháp 5 : Thực hành từ ngữ - làm giàu vốn từ cho học sinh trong các tiết Tiếng Việt.

    Chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 4 được xây dựng theo quan điểm đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt trong các giờ luyện từ và câu học sinh đều được trực tiếp phân tích ngữ liệu, rút ra bài học. Hơn nữa việc làm giàu vốn từ cho HS cũng được chú trọng qua các bài Mở rộng vốn từ theo chủ điểm, chủ đề. Tuy nhiên để rèn kĩ năng dùng từ cho HS thì phải chú trọng trong các giờ thực hành luyện tập. Qua những giờ này sẽ hạn chế được việc sử dụng từ sai ngữ pháp của các em.

     Có 3 dạng bài tập từ ngữ cho học sinh:

     1. Các bài tập dạy nghĩa từ

Để tăng vốn từ cho học sinh Tiểu học phải cung cấp những từ mới do đó công việc đầu tiên là làm cho HS hiểu nghĩa từ và biết giải nghĩa phù hợp với đối tượng HS. Một số biện pháp giải nghĩa:

- Giải nghĩa bằng trực quan chủ yếu sử dụng ở các lớp đầu cấp. Tương ứng với biện pháp này là các bài tập giải nghĩa từ như: “Nhìn vào hình vẽ chỉ xem đâu là đỉnh núi, sườn núi, chân núi”…

- Giải nghĩa bằng ngữ cảnh là để cho từ xuất hiện trong một nhóm từ, một câu, một bài để làm rõ nghĩa của từ. Nghĩa của từ được bộc lộ nhờ ngữ cảnh.

Ví dụ: Để giải nghĩa từ “náo nức” giáo viên đưa ra câu “Chúng em náo nức đón tết” Hoặc “ Hàng năm, cứ vào cuối thu, khi lá ngoài đường rụng nhiều, lòng tôi lại náo nức những kỉ niệm mơn man của buổi tựu trường.”

- Giải nghĩa bằng cách so sánh đối chiếu với từ khác. Có thể xây dựng bài tập giải nghĩa theo kiểu “Thám hiểm, vdu lịch có gì khác nhau ?”.

- Giải nghĩa bằng định nghĩa là biện pháp giải nghĩa bằng cách nêu nội dung bằng một định nghĩa. VD: “Tổ Quốc là đất nước mình”. Đây là biện pháp giải nghĩa từ phổ biến nhất, làm cơ sở cho rất nhiều bài tập dạy nghĩa khác nhau.

+ Bài tập cho sẵn cả nội dung (nghĩa từ) và tên gọi (từ) chỉ yêu cầu HS phát hiện ra sự tương ứng giữa chúng (bài tập nối cột).

+ Bài tập cho sẵn nội dung từ yêu cầu tìm tên gọi (Điền từ vào chỗ trống).

+ Bài tập cho sẵn từ, yêu cầu HS xác lập nội dung tương ứng. VD: “Tổ quốc là gì?”.

     2.  Các bài tập hệ thống hóa vốn từ

- Đưa ra bài tập liên tưởng theo một dấu hiệu ngữ nghĩa nào đó.

Ví dụ: “Tìm những từ cùng nghĩa với từ dũng cảm trong các từ dưới đây”

- Đưa ra các bài tập liên tưởng theo các lớp từ vựng. VD: “Tìm từ cùng nghĩa, tìm từ trái nghĩa”.

- Bài tập tìm các từ có cùng cấu tạo. VD: “ Tìm từ ghép có tiếng hải với nghĩa là biển”

      3 . Các bài tập sử dụng từ

     Các bài tập này sẽ rèn cho HS kĩ năng dùng từ bởi lẽ để làm được các bài tập này học sinh phải vận dụng các quan hệ ngôn ngữ, quan hệ liên tưởng để lựa chọn và kết hợp từ. Các bài tập sử dụng từ sẽ giúp HS nắm nghĩa và khả năng kết hợp của từ do đó hạn chế được dùng từ sai nghĩa, sai ngữ pháp.

a. Các bài tập điền từ (Kiểu bài này được sử dụng nhiều.)

- Cho trước các từ, yêu cầu học sinh tìm trong số các từ đã cho những từ thích hợp để điền vào chỗ trống trong đoạn, bài cho sẵn.

- Không cho trước các từ, để HS tự tìm trong vốn từ của mình mà điền vào.

Khi hướng dẫn làm bài tập này, giáo viên thao tác:

+ Hướng dẫn HS nắm nghĩa các từ đã cho.

+ Xem xét kĩ đoạn văn có chỗ trống (đã viết lên bảng phụ).

+ HS đọc lần lượt từng câu của đoạn văn cho sẵn, dừng lại ở chỗ trống, cân nhắc xem có thể điền từ nào cho câu văn đúng nghĩa, phù hợp với từng đoạn.

+ HS đọc lại toàn đoạn để kiểm tra, thấy nghĩa của câu, của bài đều thích hợp thì bài tập đã được làm đúng.

        b. Bài tập tạo từ

Bài tập này nhằm giúp cho HS biết kết hợp từ:

- Bài tập cho sẵn hai dãy yếu tố, yêu cầu HS chọn từng yếu tố của dãy này ghép với một hoặc một số yếu tố của dãy kia cho thích hợp.

Ví dụ: Ghép các từ cũi, chuồng, tàu vào trước các từ sau: … ngựa, … lợn, … chó.

- Bài tập yêu cầu HS tự tìm thêm từ mới có khả năng kết hợp với từ đã cho.

Ví dụ: Tìm từ đặt trước hoặc sau từ dũng cảm để tạo thành những cụm từ có nghĩa.

Biện pháp làm bài tập này là giáo viên cho HS thử ghép mỗi từ ở dãy này với từng từ ở dãy kia, đọc lên rồi vận dụng kinh nghiệm nói năng của mình để xem xét những cách nào chấp nhận được để nối cho đúng.

- Bài tập dùng từ đặt câu

Với một hoặc một số từ cho trước yêu cầu học sinh tự đặt câu.

Ví dụ: Đặt ba câu với các từ sau: khai giảng, dạy bảo, gọn gàng.

Khi đặt câu HS sẽ thể hiện sự hiểu biết của mình về nghĩa của từ, cách thức kết hợp với nhau.

Với các từ trên tôi sẽ cho các em hiểu nghĩa của từ  bằng cách cho các em nhớ lại  ngày khai giảng  bằng hình ảnh, sau đó mới đặt câu.

- Bài tập chữa lỗi dùng từ

 Là bài tập đưa ra những câu dùng từ sai, yêu cầu HS nhận ra và sửa chữa. Dạng bài tập này không nhiều tuy nhiên trên thực tế có thể sử dụng bài tập này ở bất kỳ lúc nào thấy cần thiết. Ở đâu có hoạt động nói năng của HS ở đó có thể sử dụng kiểu bài tập này. Những lỗi dùng từ cần lấy trong chính thực tế nói, viết của HS. Giáo viên cũng có thể đưa ra những lỗi dự tính HS dễ mắc phải. Nhiệm vụ của HS là phát hiện và tự chữa những lỗi này.

Tóm lại, sự đa dạng của cac dạng bài tập sẽ gây sự hứng thú, làm giàu vốn từ cho học sinh. Với một vốn từ phong phú, các em sẽ có nhiều lựa chọn trong việc diễn đạt ý, có như vậy các em sẽ không lúng túng trong việc dùng từ đặt câu, sẽ có được các câu văn hay và tiến tới là các đoạn văn hay.

     6. Biện pháp 6: Tích cực sáng tạo thực hiện thông tư 22.     

Nhằm thực hiện tốt thông tư 22, tôi đã chú ý tới các việc:

- Tăng cường các năng lực cần thiết để thực hiện cách đánh giá mới của Thông tư: khả năng quan sát quá trình học tập của học sinh, nghiên cứu, tìm hiểu các năng lực, phẩm chất mà học sinh cần được hình thành, phát triển qua quá trình học tập, rèn luyện.

- Lựa chọn lời nhận xét đánh giá học sinh chính xác, hợp lí giúp các em thấy được mặt mạnh để phát huy hay những thiếu hụt về kiến thức, năng lực, phẩm chất của mình để khắc phục sao cho các em luôn có hứng thú học tập.

- Giúp đỡ, hỗ trợ học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức. Từng bước hình thành phẩm chất, năng lực cần thiết cho việc hình thành nhân cách và các giá trị sống của các em: tự tin, tự trọng, giao tiếp, hợp tác, chia sẻ, đề xuất và giải quyết vấn đề.

- Giúp các em biết tự đánh giá mình và nhận xét đánh giá bạn.

- Phối hợp với ban đại diện cha mẹ học sinh có những phần thưởng ý nghĩa kèm theo (vở, truyện, bút…) để động viên, khuyến khích các em sau mỗi đợt thi đua trong tuần, trong tháng giúp các em tự tin, chủ động, sáng tạo hơn trong cuộc sống.

- Tác động đến cha mẹ học sinh, hướng dẫn họ cùng tham gia đánh giá các em thông qua sổ liên lạc giữa kì hay cuối mỗi kì, tạo ra một cơ chế hoạt động chặt chẽ trong việc thực hiện nguyên lí giáo dục: Nhà trường - Gia đình - Xã hội.

Bằng những việc làm trên, Thông tư 22 thực sự phát huy những lợi thế lớn, giúp học sinh nhận ra mình thiếu hụt những gì so với chuẩn kiến thức, kỹ năng hay yêu cầu, mục tiêu bài học để cả giáo viên và học sinh cùng điều chỉnh hoạt động dạy và học.                                                                                                     .

PHẦN III: KẾT LUẬN

I. Kết quả thực hiện có so sánh đối chứng

      Sau một thời gian tìm hiểu nguyên nhân và áp dụng những biện pháp về việc sửa lỗi câu cho học sinh lớp 4. Để biết được kết quả bước đầu cả những phương pháp mình thực nghiệm thực tế, tôi đã cho học sinh của lớp mình làm  bài Tập làm văn với đề bài như sau:

Em hãy tả một cây bóng mát.

Yêu cầu của bài văn phải đảm bảo các nội dung:

1. Mở bài:

- Giới thiệu cây mình tả (cây gì, trồng ở đâu, có gì đặc biệt…)

- Cây được tả đã để lại cho em ấn tượng, tình cảm gì?

2. Thân bài:

- Tả bao quát: Hình dáng, kích thước....

- Tả chi tiết: gốc, thân, cành, hoa,.. các giai đoạn phát triển,...

3. Kết bài:

- Ích lợi của cây/ kỉ niệm gắn bó

- Tình cảm của em với cây

Văn tả cây cối yêu cầu phải đảm bảo tính chính xác, trung thực của từng chi tiết, đúng trình tự từ bao quát đến chi tiết.

Sau khi chấm bài có kết quả như sau:

Tổng số học sinh

Số học sinh có kỹ năng viết câu đúng

Số học sinh viết thiếu bộ phận câu, diễn đạt chưa thoát ý, chưa lưu loát.

60 em

49 em = 81,7%

11 em = 19,3%

Đối chiếu với kết quả điều tra thực trạng, tôi thấy chất lượng viết câu tăng lên rõ rệt, cụ thể là:

Lần

Sĩ số

Số học sinh có kỹ năng viết câu đúng .

Số học sinh viết thiếu bộ phận câu, diễn đạt chưa thoát ý, chưa lưu loát .

Lần 1

60 em

19 em = 31,7%

41 em = 68,3%

Lần 2

60 em

48 em = 80%

12 em = 20%

     Kết quả trên cho thấy, số lượng các em viết đúng và hay về câu văn vẫn còn hạn chế nhưng những biện pháp sửa lỗi đã phần nào đã giúp các em học sinh lớp 4A4 nhìn nhận ra lỗi câu của mình để có biện pháp sửa chữa hợp lý.

II. Kết luận và đề nghị sau quá trình thực hiện.

  1. Kết quả đánh giá về sáng kiến kinh nghiệm:

Trong thời đại ngày nay, khi xã hội càng phát triển càng đòi hỏi con người khả năng giao tiếp tốt hơn trong mọi hoàn cảnh, mọi môi trường. Trong hoạt động giao tiếp, câu được coi là đơn vị trung tâm và từ là yếu tố không thể thiếu để tạo câu. Vì vậy, sửa lỗi câu cho học sinh là một việc làm thường xuyên và liên tục trong dạy học. Và cũng là để thực hiện nhiệm vụ “giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt”, để “nói và viết Tiếng Việt sao cho đúng, cho hay”. Chính vì tầm quan trọng như vậy nên tôi rất trăn trở về đề tài “Một số biện pháp khắc phục lỗi sai khi viết câu văn cho học sinh lớp 4 ở trường Tiểu học" để tìm ra nguyên nhân và đề ra những giải pháp có hiệu quả phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy.

Ở đề tài này tôi đã tìm hiểu các lỗi về từ, về câu mà học sinh lớp 4 thường mắc phải. Trên các ngữ liệu từ sai, câu sai đã thống kê tôi phân loại và tìm hiểu nguyên nhân,  mạnh dạn đề xuất một số biện pháp để chữa lỗi và hạn chế lỗi sai về dùng từ, viết câu cho học sinh lớp 4.

Đối với học sinh trung bình các em đã xác định đúng yêu cầu đề, biết viết câu văn đúng ngữ pháp, viết đoạn văn bài văn  tương đối hình ảnh. Với học sinh có lực học tốt hơn, các em đã biết quan sát thực tế một cách chi tiết, biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong khi làm bài. Vì vậy bài viết của các em đã có nhiều sáng tạo và chuyển biến rõ rệt so với đầu năm.

Tôi đã rút cho mình những bài học kinh nghiệm:

1. Giáo viên phải thực sự tâm huyết với nghề, đầu tư nhiều thời gian nghiên cứu cho mỗi bài giảng, có kế hoạch và phương pháp giảng dạy theo từng đối tượng học sinh. Sử dụng phương pháp dạy học thích hợp, tạo ra những giờ dạy gây hứng thú học tập cho học sinh để đạt kết quả cao trong học tập.

2. Linh hoạt sử dụng các hình thức dạy học nhằm thay đổi không khí học tập cho học sinh như thảo luận theo nhóm, cá nhân hoặc có thể làm việc cả lớp để phát huy tốt hiệu quả giờ dạy.

3. Tổ chức các hoạt động ngoại khoá để học sinh bộc lộ mình. Sử dụng triệt để các thiết bị dạy học phục vụ tốt cho việc giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh.

4. Nhận xét, đánh giá học sinh kịp thời, chính xác, khuyến khích học sinh tự đánh giá mình, đánh giá bạn.

5. Phối kết hợp với phụ huynh để thống nhất biện pháp giáo dục nhằm nâng cao chất lượng học tập cho các em

6. Giáo viên phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn, nghiên cứu sâu về các vấn đề: Bồi dưỡng kiến thức về mở rộng vốn từ, cách sử dụng các từ loại, luyện kĩ năng diễn đạt, bồi dưỡng về phương pháp và cách lựa chọn hình thức dạy học cho giáo viên,... để dạy cho học sinh kĩ năng làm tốt các bài Luyện từ và câu nói riêng, môn Tiếng Việt nói chung.

    2. Đề xuất – kiến nghị:

     2.1 . Đối v ới phụ huynh học sinh:

- Cần trang bị cho con em mình đầy đủ dụng cụ học tập, sách giáo khoa, vở bài tập, sách nâng cao, …

- Động viên, khích lệ các con kịp thời, đúng lúc để kích thích các em có nhiều cố gắng vươn lên trong học tập.

     2. 2. Đối  với học sinh:

- Các em cần quan tâm, xác định được tầm quan trọng của môn này.

- Cần chăm chỉ tự giác học tập, phải chuẩn bị bài ở nhà đầy đủ, đọc bài và tự tìm hiểu nội dung bài trước khi đến lớp.

     2.3. Đối với giáo viên:

- Nắm chắc kiến thức về câu và các thành phần cấu tạo nên câu.

- Lựa chọn phương pháp hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh.

- Đặc biệt phải tâm huyết với nghề, có trách nhiệm với việc học của học sinh và bài dạy của mình. Động viên, gần gũi giúp đỡ học sinh.

- Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin để mở mang hiểu biết về kiến thức cũng như kĩ năng giảng dạy.

    2.4 . Đối với nhà trường và các cấp quản lý:

- Quan tâm xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp. Triển khai các chuyên đề, đồng thời nhân rộng kinh nghiệm để đồng nghiệp cùng học hỏi, áp dụng vào giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng dạy - học.

Trên đây là những kinh nghiệm cũng như sự đóng góp của bản thân tôi về một số biện pháp khắc phục lỗi sai khi viết câu cho học sinh lớp 4. Trong thời gian qua, bản thân tôi đã tìm hiểu và vận dụng vào thực tế giảng dạy qua đó sự hứng thú của học sinh đã được nâng lên. Các em đã thực sự phấn khởi, tự tin trong các tiết Tiếng Việt. Đối với tôi, việc áp dụng phương pháp dạy học này đã góp phần không nhỏ trong việc phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình học tập tại trường.