Tóm tắt nội dung tài liệu TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học Huế<br /> <br /> Tập 2, Số 2 (2014)<br /> <br /> NGUYÊN LÍ VỀ TÍNH VÕ ĐOÁN CỦA TÍN HIỆU NGÔN NGỮ<br /> VÀ HỆ QUẢ CỦA NÓ TRONG SÁNG TÁC VĂN CHƯƠNG<br /> Hoàng Tất Thắng<br /> Khoa Báo chí - Truyền thông, Trường Đại học khoa học Huế<br /> Email: <br /> TÓM TẮT<br /> Báo cáo phân tích nội dung của nguyên lí về tính võ đoán của ngôn ngữ - nguyên nhân hình<br /> thành các biến thể: biến thể cái biểu đạt và biến thể cái được biểu đạt. Từ các biến thể ấy<br /> hình thành nên các hiện tượng đồng âm, đồng nghĩa, đa nghĩa,.. Đến lượt các hiện tượng<br /> đồng âm, đồng nghĩa, đa nghĩa lại trở thành cơ chế bên trong cho các biện pháp tu từ như<br /> ẩn dụ, so sánh, nhân hóa, chơi chữ đồng âm, đồng nghĩa, nói lái,… Nói cách khác, hệ<br /> thống hình ảnh trong thơ ca – đặc trưng thẩm mý của ngôn ngữ văn chương – suy cho cùng<br /> được hình thành từ nguyên lí về tính võ đoán của ngôn ngữ.<br /> Từ khóa: Biến thể, cái biểu đạt, đồng âm, đồng nghĩa, hình ảnh.<br /> <br /> 1. TIỀN ĐỀ LÍ LUẬN<br /> 1.1. Các nhà ngôn ngữ học đại cương đã khẳng định một trong những đặc trưng cơ bản<br /> của tín hiệu ngôn ngữ là tính võ đoán. Tính võ đoán được hiểu là mối quan hệ giữa hai mặt của<br /> tín hiệu ngôn ngữ (giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt) là mối quan hệ không có lí do, không<br /> giải thích được. Chẳng hạn, về từ CÂY trong tiếng Việt, tại sao người Việt gọi tất cả các đối<br /> tượng cụ thể trong hiện thực có các đặc điểm lá, thân, rễ là cây? Rõ ràng không có lí do để giải<br /> thích. Đặc điểm của hình thức âm thanh (cách phát âm) C-Â-Y không hề biểu thị đặc điểm gì<br /> của đối tượng trong hiện thực (các cây cụ thể).<br /> Cũng cần phân biệt giữa lí do gọi tên và ý nghĩa của tên gọi. Lí do gọi tên thì không thể<br /> giải thích được, nhưng tên gọi thì luôn luôn có ý nghĩa. Ý nghĩa của tên gọi (nghĩa của từ) đã<br /> được giải thích ở trong các từ điển.<br /> Tính võ đoán của ngôn ngữ thể hiện đầy đủ nhất trong hệ thống từ đơn. Có thể nói bản<br /> chất võ đoán của ngôn ngữ luôn luôn tỉ lệ nghịch với độ dài (quy mô) của tên gọi (từ, ngữ). Độ<br /> dài của tên gọi càng lớn thì tính võ đoán càng giảm và đi đến triệt tiêu. Chẳng hạn, trong tiếng<br /> Việt, các từ ếch, ngồi, đáy, giếng đều mang tính võ đoán. Nhưng tổ hợp ếch ngồi đáy giếng với<br /> tư cách là một thành ngữ dùng để chỉ “người có tầm nhìn thiển cận, hạn hẹp” thì hoàn toàn giải<br /> thích được lí do gọi tên.<br /> Như vậy, tính võ đoán là một trong những nguyên lí cơ bản của tín hiệu ngôn ngữ.<br /> <br /> 153<br /> <br /> Nguyên lí về tính võ đoán của tín hiệu ngôn ngữ …<br /> <br /> 1.2. Nhà ngôn ngữ học vĩ đại F. de Saussure đã chỉ ra rằng hệ quả của tính võ đoán<br /> “nhiều vô kể”. Do ngôn ngữ mang tính võ đoán nên các tín hiệu ngôn ngữ luôn luôn tồn tại dưới<br /> dạng các biến thể. Tín hiệu ngôn ngữ có hai mặt: cái biểu đạt (CBĐ) và cái được biểu đạt<br /> (CĐBĐ), do đó cũng tồn tại hai loại biến thể: biến thể về CBĐ và biến thể về CĐBĐ.<br /> Biến thể về CBĐ (công thức n/1) nghĩa là cùng một nội dung có nhiều hình thức biểu<br /> đạt khác nhau, cùng một ý nghĩa có nhiều âm thanh khác nhau, cùng một đối tượng có nhiều tên<br /> gọi khác nhau. Nói cách khác, thực chất của biến thể về cái biểu đạt chính là các hiện tượng<br /> đồng nghĩa. Sở dĩ nói là hiện tượng đồng nghĩa vì đồng nghĩa xảy ra trên các cấp độ của ngôn<br /> ngữ: cấp độ từ vựng, cấp độ cú pháp và cả cấp độ văn bản:<br /> - Ví dụ về đồng nghĩa từ vựng (các từ đồng nghĩa): hy sinh, tạ thế, băng hà, viên tịch,<br /> chết,…<br /> - Ví dụ về đồng nghĩa cú pháp (các câu đồng nghĩa): Mái tóc người cha bạc phơ và Bạc<br /> phơ mái tóc người cha.<br /> - Ví dụ về đồng nghĩa văn bản (các đoạn văn hoặc văn bản đồng nghĩa):<br /> “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn nữa. Chúng ta quyết chiến<br /> đấu đến cùng. Thế hệ này đánh chưa xong, thế hệ khác tiếp tục…”<br /> Và “Ta lại viết bài thơ lên báng súng<br /> Con lớn lên viết tiếp thay cha<br /> Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống<br /> Người hôm nay viết tiếp người hôm qua”<br /> Biến thể về CĐBĐ (công thức 1/n) nghĩa là cùng một hình thức có nhiều nội dung khác<br /> nhau, cùng một âm thanh có nhiều ý nghĩa khác nhau, cùng một tên gọi có nhiều đối tượng khác<br /> nhau. Nói cách khác, thực chất của biến thể về cái được biểu đạt chính là các hiện tượng đồng<br /> âm và đa nghĩa. Sở dĩ nói là các hiện tượng đồng âm và đa nghĩa vì chúng xảy ra trên nhiều cấp<br /> độ của ngôn ngữ: cấp độ từ vựng, cấp độ cú pháp và cả cấp độ văn bản.<br /> - Ví dụ về đồng âm từ vựng (các từ đồng âm):<br /> <br /> (cái) cày và cày (ruộng).<br /> (cái) bàn và (đã) bàn<br /> <br /> Từ anh nuôi “chỉ anh trai trong gia đình nhưng không có quan hệ huyết thống”<br /> và anh nuôi “chỉ người cán bộ cấp dưỡng trong đơn vị quân đội”.<br /> - Ví dụ về đồng âm cú pháp (các câu đồng âm):<br /> Tôi thử thách anh (với nghĩa kiếm tra năng lực) và Tôi thử thách anh (với nghĩa sự<br /> thách đố).<br /> - Ví dụ về đa nghĩa từ vựng (từ đa nghĩa):<br /> <br /> 154<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học Huế<br /> <br /> Từ ăn có các nghĩa:<br /> <br /> Tập 2, Số 2 (2014)<br /> <br /> 1. cho thức ăn vào miệng nhai, nuốt… (ăn cơm)<br /> 2. tiêu tốn (xe ăn xăng, tàu ăn than,..)<br /> 3. hưởng (làm công ăn lương)<br /> 4. lấn, chiếm (cỏ ăn lan ra sân)<br /> …….<br /> <br /> 2. ĐẶC TRƯNG THẨM MỸ CỦA NGÔN NGỮ VĂN CHƯƠNG<br /> 2.1. Các hiện tượng đồng nghĩa, đồng âm và đa nghĩa nói chung tồn tại dưới hai dạng:<br /> dạng cố định và dạng lâm thời.<br /> Dạng cố định là dạng tồn tại có sẵn, do cộng đồng người nói sáng tạo từ lâu đời, có tính<br /> truyền thống, chuẩn mực, được cộng đồng người nói cùng chấp nhận và cùng sử dụng. Theo đó,<br /> ta có đồng nghĩa cố định, đồng âm cố định, đa nghĩa cố định (đã trình bày ví dụ ở mục 1.)<br /> Vì là sản phẩm của tập thể, mang tính truyền thống, chuẩn mực, nên dạng cố định được<br /> sử dụng rộng rãi trong các phong cách ngôn ngữ (đa phong cách), không mang sắc thái tu từ<br /> biểu cảm. Vì vậy, trong sáng tác văn chương, các hiện tượng đồng nghĩa cố định, đồng âm cố<br /> định và đa nghĩa cố định thường ít được các nhà thơ, nhà văn chú ý tập trung khai thác.<br /> Dạng lâm thời là dạng tồn tại gắn liền với từng văn cảnh cụ thể, gắn liền với sự sáng tạo<br /> của từng cá nhân người nói. Theo đó, ta có các hiện tượng đồng nghĩa lâm thời, đa nghĩa lâm<br /> thời và đồng âm lâm thời. Dạng lâm thời được hình thành để biểu thị những trạng thái cảm xúc,<br /> tâm trạng, thái độ hoặc sự đánh giá chủ quan của người nói đối với đối tượng được nói tới trong<br /> một văn cảnh cụ thể.<br /> Chẳng hạn, để biểu thị sự xót thương trước cái chết đầy oan uổng của một người con gái<br /> trẻ, đẹp,.. Nguyễn Du đã dùng hình ảnh “Nửa chừng xuân, thoắt gãy cành thiên hương”. Đây là<br /> hình ảnh ẩn dụ dựa trên cơ sở đồng nghĩa lâm thời.<br /> Như vậy, dạng lâm thời tồn tại chủ yếu trên cơ sở các hình ảnh, trong từng văn cảnh cụ<br /> thể, gắn liền với cảm xúc thẩm mĩ của từng cá nhân. Văn cảnh thay đổi, ý nghĩa của hình ảnh sẽ<br /> thay đổi. Sự tồn tại các hình ảnh gắn liền với tư duy liên tưởng. Hình ảnh và tư duy liên tưởng là<br /> hai mặt của quá trình sáng tạo và tiếp nhận ngôn ngữ văn chương. Hình ảnh, hình tượng là một<br /> trong những đặc trưng thẩm mỹ của ngôn ngữ văn chương. Tư duy liên tưởng (tư duy hình<br /> tượng) là bản chất của tư duy nghệ thuật, là cơ sở cho quá trình sáng tạo và tiếp nhận ngôn ngữ<br /> văn chương.<br /> Dạng lâm thời là dạng tồn tại “một đi không trở lại”. Những hình ảnh ẩn dụ, so sánh,..<br /> lâm thời ta gặp trong một bài thơ sẽ không bao giờ xuất hiện trong bài thơ khác của cùng nhà<br /> thơ hoặc của nhà thơ khác, như hình ảnh biểu thị sự xót thương trước cái chết đầy oan uổng của<br /> một người con gái trẻ đẹp trong Truyện Kiều của Nguyễn Du chẳng hạn. Nếu có thì hình ảnh đó<br /> <br /> 155<br /> <br /> Nguyên lí về tính võ đoán của tín hiệu ngôn ngữ …<br /> <br /> đã được dùng để biểu thị một cảm xúc khác, tâm trạng khác, thái độ khác trong một hoàn cảnh<br /> khác,…<br /> Do đặc trưng của dạng lâm thời là giàu chất liên tưởng, giàu chất biểu cảm nên trong<br /> sáng tác văn chương, các nhà thơ, nhà văn thường rất chú trọng khai thác đồng nghĩa lâm thời,<br /> đa nghĩa lâm thời và đồng âm lâm thời.<br /> 2.2. Hiện tượng đồng nghĩa lâm thời thể hiện trong ngôn ngữ giao tiếp nói chung, ngôn<br /> ngữ văn chương nói riêng thông qua các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, đồng<br /> nghĩa kép,… Bản chất của đồng nghĩa là có thể thay thế, nhưng đồng nghĩa lâm thời chỉ có thể<br /> thay thế trong một văn cảnh cụ thể nhất định.<br /> So sánh tu từ thể hiện cơ chế đồng nghĩa lâm thời ở chỗ, trong văn cảnh cụ thể, người<br /> nói lâm thời đối chiếu hai đối tượng có nét tương đồng (có một đặc điểm nào đó giống nhau)<br /> nhằm để biểu hiện một cách hình tượng thuộc tính bên trong của một đối tượng. Vì giữa đối<br /> tượng so sánh (B) và đối tượng được so sánh (A) có một thuộc tính nào đó tương đồng nên,<br /> trong một văn cảnh cụ thể, B được dùng để thay thế cho A.<br /> Chẳng hạn, trong câu thơ: Quê hương là đường đi học/ con về rợp bướm vàng bay, nhà<br /> thơ Đỗ Trung Quân đã đối chiếu hai hình ảnh quê hương = đường đi học. Thông qua tư duy liên<br /> tưởng về các thuộc tính của “con đường làng, ngày ngày trẻ thơ cắp sách đến trường”, người<br /> tiếp nhận phát hiện ra thuộc tính mà nhà thơ dùng để định nghĩa quê hương là “sự thân thuộc”.<br /> Như vậy, hai hình ảnh quê hương và chùm khế ngọt đã có sự tương đồng (đồng nghĩa) ở thuộc<br /> tính này, vì vậy, chùm khế ngọt được dùng để “thay thế” cho quê hương, nói về quê hương.<br /> Ẩn dụ tu từ thể hiện cơ chế đồng nghĩa lâm thời ở chỗ, trong một văn cảnh cụ thể, người<br /> nói lâm thời mượn tên gọi của đối tượng này (B) để biểu thị đối tượng kia (A) trên cơ sở so sánh<br /> ngầm, thừa nhận ngầm một thuộc tính tương đồng(đồng nghĩa) nào đó giữa hai đối tượng.<br /> Chẳng hạn, hình ảnh “ngọn lửa lòng” trong hai câu thơ: Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ<br /> sẵn/ Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng (Bằng Việt) là hình ảnh ẩn dụ gợi sự liên tưởng đến<br /> thuộc tính “sự ấm áp”. Sự ấm áp của bếp lửa, ngọn lửa tự nhiên sưởi ấm bao đêm lạnh giá đã<br /> được liên tưởng tương đồng với sự ấm áp ở tấm lòng người mẹ - một ngọn lửa lòng nhóm niềm<br /> yêu thương khoai sắn ngọt bùi / nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.<br /> Cũng như ẩn dụ, nhân hóa cũng được tạo lập dựa trên cơ sở so sánh hai đối tượng có<br /> nét tương đồng (đồng nghĩa) nào đó trong một văn cảnh cụ thể. Hình ảnh nhân hóa trong câu<br /> thơ của Trần Đăng Khoa: Chị tre chải tóc bên ao/ Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương, được<br /> tạo lập trên cơ sở so sánh hai đối tượng “ người thiếu nữ ngồi chải tóc bên ao và khóm tre xanh<br /> rủ những cành lá xuống bờ ao”. Chính nét tương đồng giữa hai đối tượng này đã tạo nên sự liên<br /> tưởng thú vị và hình ảnh thế giới tự nhiên (khóm tre) đã trở nên sinh động, tươi trẻ, có hồn, đậm<br /> chất trữ tình.<br /> Đồng nghĩa lâm thời cũng được thể hiện thông qua biện pháp đồng nghĩa kép và biến<br /> thể cùng nghĩa. Khác với so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, đồng nghĩa kép và biến thể cùng nghĩa được<br /> 156<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học Huế<br /> <br /> Tập 2, Số 2 (2014)<br /> <br /> tạo lập ở chỗ, trong một văn cảnh cụ thể, các từ ngữ xuất hiện đều cùng có những nét nghĩa vừa<br /> giống nhau, vừa khác nhau. Qua đó, các đặc điểm, tính chất của đối tượng được miêu tả càng<br /> phong phú hơn, sâu sắc hơn.<br /> Chẳng hạn, câu thơ của nhà thơ Tố Hữu viết về Bác Hồ: Người là Cha, là Bác, là Anh /<br /> Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ, là một biện pháp đồng nghĩa kép và biến thể cùng nghĩa.<br /> Bởi lẽ, trong văn cảnh này, các từ Người, Cha, Bác, Anh đều cùng nói về một đối tượng, đó là<br /> chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Vấn đề ở chỗ là vì sao trong văn cảnh<br /> cụ thể này, tác giả lại dùng đến bồn từ khác nhau (Người, Cha, Bác, Anh) để cùng biểu thị một<br /> đối tượng? Rõ ràng, tác giả đã lâm thời sử dụng các từ này để khắc họa chân dung vị lãnh tụ.<br /> Bằng khả năng tư duy liên tưởng, người đọc hình dung được bức chân dung vị lãnh tụ vừa cao<br /> cả, vĩ đại, vừa gần gũi, thân thiết với mọi nhà. Bằng nghệ thuật ngôn từ, nhà thơ đã phác họa<br /> một cách đầy đủ bức chân dung vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, đồng thời bày tỏ tình cảm và<br /> lòng biết ơn vô hạn của tác giả cũng như nhân dân Việt Nam đối với công lao trời biển của<br /> người.<br /> 2.3. Hiện tượng đồng âm lâm thời thể hiện ở chỗ, trong một văn cảnh cụ thể, do người<br /> nói sử dụng từ ngữ một cách khéo léo làm cho từ ngữ ấy được hiểu theo nghĩa nước đôi. Nói<br /> cách khác, trong văn cảnh cụ thể đó, một từ được xét trong những mối quan hệ khác nhau sẽ<br /> hiểu theo nghĩa khác nhau. Hiện tượng đồng âm lâm thời tồn tại phổ biến trong các hình thức<br /> chơi chữ, câu đối, ca dao,…<br /> Chẳng hạn, trong bài ca dao Bà già đi chợ Cầu Đông/ Bói xem một quẻ lấy chồng lợi<br /> chăng/ Thầy bói gieo quẻ bói rằng/Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn, từ “lợi” đã được hiểu<br /> theo hai nghĩa khác nhau. Nói cách khác, người đọc đã liên tưởng đến một từ “lợi” đồng âm thứ<br /> hai cùng tồn tại ở vị trí từ “lợi” thứ nhất. Nếu xét trong văn cảnh /Bà già đi chợ Cầu Đông/ Bói<br /> xem một quẻ lấy chồng lợi chăng/ Thầy bói gieo quẻ bói rằng/Lợi thì có lợi/, thì từ “lợi” được<br /> hiểu là “lợi ích”. Nhưng nếu xét trong văn cảnh/ Thầy bói gieo quẻ bói rằng/Lợi thì có lợi<br /> nhưng răng chẳng còn/ thì từ “lợi” lại được hiểu là “chỗ cắm răng”.<br /> Tương tự, trong cặp câu đối Kiến đậu cành cam bò quấn quýt/ Ngựa về làng Bưởi chạy<br /> lanh chanh, các tiếng “quýt, chanh” tồn tại các cặp đồng âm. Bởi vì, nếu xét trong quan hệ cả<br /> câu Kiến đậu cành cam bò quấn quýt, tiếng “quýt” là yếu tố cấu tạo từ quấn quýt. Nhưng nếu<br /> xét trong quan hệ giữa quýt và cam thì “quýt” lại là một từ gọi tên một loài cây ăn trái cùng họ<br /> với cam. “Chanh” trong câu Ngựa về làng bưởi chạy lanh chanh cũng vậy.<br /> 2.4. Hiện tượng đa nghĩa lâm thời thể hiện ở chỗ, trong văn cảnh cụ thể, các từ ngữ<br /> được sử dụng đồng thời được hiểu theo nhiều nghĩa – nghĩa trực tiếp và nghĩa gián tiếp. Khác<br /> với đồng nghĩa lâm thời như trong ẩn dụ (có nghĩa đen và nghĩa bóng) bao giờ cũng chỉ hiểu<br /> theo nghĩa bóng, đa nghĩa lâm thời luôn luôn được hiểu theo cả hai nghĩa – nghĩa trực tiếp và<br /> nghĩa gián tiếp.<br /> <br /> 157<br /> <br /> Page 2
YOMEDIA
Bài viết tập trung phân tích nội dung của nguyên lí về tính võ đoán của ngôn ngữ - nguyên nhân hình thành các biến thể: biến thể cái biểu đạt và biến thể cái được biểu đạt. Từ các biến thể ấy hình thành nên các hiện tượng đồng âm, đồng nghĩa, đa nghĩa... 15-05-2018 665 10 Download Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved. |