Dưới đời vua Lý Thánh Tông quốc hiệu của nước ta có tên là gì

Mục lục

  • 1 Thân thế
  • 2 Cai trị
    • 2.1 Đối nội
    • 2.2 Đối ngoại
      • 2.2.1 Với Nhà Tống
      • 2.2.2 Với Chiêm Thành
  • 3 Qua đời
  • 4 Nhận định
  • 5 Lưu danh
  • 6 Gia quyến
  • 7 Xem thêm
  • 8 Chú thích
  • 9 Tham khảo

Thân thếSửa đổi

Ông tên thật là Lý Nhật Tôn (李日尊), là con trưởng của Lý Thái Tông và Linh Cảm Hoàng hậu họ Mai. Ông sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi niên hiệu Thuận Thiên thứ 14 (tức ngày 30 tháng 3 năm 1023) tại cung Long Đức vào cuối thời Lý Thái Tổ.[4][3] Tháng 5 âm lịch năm 1028, ngay sau khi lên ngôi, Lý Thái Tông sách phong Lý Nhật Tôn làm Thái tử.[3][5]

Theo sách Đại Việt sử lược, Thái tử Nhật Tôn sớm trở nên "tinh thông kinh truyện, hiểu âm luật, lại càng giỏi về võ lược".[4] Tháng 8 âm lịch năm 1033, Lý Thái Tông phong ông tước Khai Hoàng vương (開皇王) và dựng cung Long Đức làm nơi ở cho ông. Ông đã sớm được tiếp xúc với dân chúng, nên hiểu được nỗi khổ của dân và thông thạo nhiều việc.[6]

Tháng 2 âm lịch năm 1037, ông được Thái Tông phong làm Đại Nguyên soái, cùng cha đi dẹp quân nổi dậy ở Lâm Tây (Lai Châu) và giành được chiến thắng.[7]

Tháng 2 âm lịch năm 1039, Lý Thái Tông thân chinh đi đánh Nùng Tồn Phúc ở mạn tây bắc. Thái tử Nhật Tôn mới 17 tuổi được cử làm Giám quốc, coi sóc kinh thành và việc triều chính.[7]

Ngày 1 tháng 4 âm lịch năm 1040, ông lại được Lý Thái Tông giao quyền xét xử các vụ kiện tụng trong nước, lập cơ quan ở điện Quảng Vũ. Sử thần đời Lê sơ Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử ký Toàn thư chỉ trích quyết định này của Thái Tông:[8]

Chức việc của thái tử, ngoài việc thăm hỏi hầu cơm vua ra, khi ở lại giữ nước thì gọi là Giám quốc, khi đem quân đi thì gọi là Phủ quân, có thế mà thôi, chưa nghe thấy sai xử kiện bao giờ. Phàm xử kiện là việc của Hữu ty. Thái Tông sai Khai Hoàng vương làm việc đó không phải là chức phận của thái tử, lại lấy điện Quảng Vũ làm nơi Vương xử kiện là không đúng chỗ.

Mùa đông năm 1042, cư dân châu Văn (nay thuộc Lạng Sơn) làm binh biến.[9] Ngày 1 tháng 10 âm lịch năm đó, Thái Tông phong Nhật Tôn làm Đô thống Đại Nguyên soái, chỉ huy quân đội đi trấn áp. Đến ngày 1 tháng 3 âm lịch năm 1043, ông lại được cử làm Đô thống Đại Nguyên soái đi dẹp loạn ở châu Ái (nay thuộc Thanh Hóa).[9][10] Đại Việt sử lược chép rằng: "Thánh Tông... đánh dẹp giặc giã, tới đâu cũng đều đánh thắng được cả".[4]

Cuối năm 1043, Lý Thái Tông thấy Chiêm Thành đã 16 năm không chịu sang cống, bèn quyết ý chinh phạt phương Nam. Mùa xuân năm 1044, Thái Tông tự làm tướng đi đánh Chiêm Thành, giao cho Thái tử Nhật Tôn làm Lưu thủ kinh sư. Trên mặt trận, quân Việt thắng to ở sông Ngũ Bồ, giết chết chúa Chiêm là Sạ Đẩu, chiếm quốc đô Phật Thệ trong một thời gian rồi về nước [9][11]

Cai trịSửa đổi

Tháng 7 âm lịch năm 1054, thấy mình già yếu, Thái Tông cho phép Thái tử Nhật Tôn ra coi chầu nghe chính sự.[12][13] Đến ngày 1 tháng 10 âm lịch (3 tháng 11 dương lịch) năm 1054, Lý Thái Tông qua đời.[12] Lý Nhật Tôn lên nối ngôi, tức Hoàng đế Lý Thánh Tông, lấy niên hiệu đầu là Long Thụy Thái Bình. Ông lập 8 hoàng hậu, và tôn mẹ là Mai thị làm Linh Cảm Thái hậu.[4]

Trong thời gian cầm quyền, Lý Thánh Tông tự xưng là "vạn thặng"[14] và đặt 5 niên hiệu:

  • Long Thụy Thái Bình (龍瑞太平 1054 – 1058)
  • Chương Thánh Gia Khánh (彰聖嘉慶 1059 – 1065)
  • Long Chương Thiên Tự (龍彰天嗣 1066 – 1067)
  • Thiên Huống Bảo Tượng (天貺寶象 1068 – 1069)
  • Thần Vũ (神武 1069 – 1072)

Đối nộiSửa đổi

Ngay sau khi lên ngôi, năm 1054, Lý Thánh Tông đã đổi tên nước từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt.[15] Quốc hiệu này kéo dài 346 năm cho tới khi nhà Hồ đổi thành Đại Ngu (1400)[16], sau đó được nhà Lê khôi phục năm 1428[17], và tồn tại đến đầu thời nhà Nguyễn.[18]

Lý Thánh Tông được sử cũ mô tả là một hoàng đế nhân đức.[19][6] Đại Việt sử lược ghi lại, trong mùa đông năm 1055, Thánh Tông từng nói với các quan hầu cận: "Ta ở trong cung sâu, sưởi là than, mặc áo hồ cừu mà còn lạnh như thế này, huống chi những kẻ ở trong tù, khốn khổ vì trói buộc, phải trái chưa phân minh mà quần áo không đủ, thân thể không có gì che, nên mỗi khi bị cơn gió lạnh khắc nghiệt thì há không chết được người vô tội hay sao! Ta vô cùng thương xót". Tiếp đó, ông sai quan Hữu ty cấp mền, chiếu trong kho cho tù nhân và yêu cầu cung cấp cho người tù hai bữa ăn đầy đủ mỗi ngày. Cùng năm đó, Thánh Tông truyền lệnh giảm một nửa tô thuế cho dân cả nước.[20]

Lý Thánh Tông còn chủ trương giảm các hình phạt trong nước. Theo Đại Việt sử lược, một trong những hành động đầu tiên của ông sau khi lên ngôi là sai đốt các công cụ tra tấn.[4] Đại Việt sử ký toàn thư cũng chép, vào tháng 6 âm lịch năm 1065, khi đang ngự ở điện Thiên Khánh để xét án, nhà vua chỉ vào Động Thiên công chúa đứng cạnh ông và tuyên bố: "Lòng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy, hiềm vì trăm họ ngu dại, làm càn phải tội, trẫm lấy làm thương lắm. Từ rày về sau tội gì cũng giảm nhẹ bớt đi".[1] Đến năm 1070, ông cho phép những người chịu hình phạt đánh roi (trượng hình) được nộp tiền để giảm tội.[21] Ngoài ra, vào năm 1067, nhà vua đã định ra chế độ lương bổng hàng năm cho quan Đô hộ phủ Sĩ sư (người đứng đầu cơ quan tư pháp cả nước) và các cai ngục: theo đó, hai Đô hộ phủ Sĩ sư Ngụy Trọng Hòa, Đặng Thể Tư mỗi người hưởng 50 quan tiền, 200 bó lúa và các loại cá muối; ngục lại mỗi người nhận 20 quan tiền và 100 bó lúa.[22][1] Chính sách này giúp nâng cao tinh thần thanh liêm của các quan hình án.[19]

Tiếp nối hai vua trước, Lý Thánh Tông rất chú trọng sản xuất nông nghiệp.[3] Tháng 10 âm lịch năm 1056, nhà vua ban bố Chiếu khuyến nông.[23] Ông cũng đi đến nhiều nơi để xem nông dân gặt lúa.[22] Khi sản xuất gặp khó khăn (như vào tháng 4 âm lịch năm 1070), nhà vua đem tiền, thóc và lụa trong kho phát cho dân nghèo.[19]

Tháng 8 âm lịch năm 1059, Lý Thánh Tông bắt đầu áp dụng kiểu mẫu triều phục cho bá quan.[24] Tại điện Thủy Tinh, ông đã ban phát mũ cánh chuồn (hay mũ phốc đầu) và hia cho quan viên; từ đây có lệ quan lại vào chầu phải đội mũ cánh chuồn và mang hia.[1][25]

Về quân sự, Lý Thánh Tông chia quân chính quy làm 8 hiệu quân, đặt tên là Ngự Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thần Điện, Phủng Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lược và Vạn Tiệp. Mỗi hiệu quân có 4 bộ gồm Tả, Hữu, Tiền và Hậu, hợp lại là 100 đội có kỵ binh, cung thủ và lính bắn đá. Còn phiên binh (quân các vùng sâu xa) thì được phiên chế thành các đội riêng.[26][25][27] Mô hình quân đội của Lý Thánh Tông đã đạt được trình độ cao đến mức một võ quan Đại Tống là Thái Diên Khánh phải áp dụng, và được Tống Thần Tông khen ngợi.[25][26]

Lý Thánh Tông còn là một tín đồ Phật giáo mộ đạo. Ông đã cho xây rất nhiều chùa tháp, trong đó có chùa Thiên Phúc, Thiên Thọ - nơi hoàng gia nhà Trần sau này thường lễ Phật. Ông còn dựng các tượng Đế Thích, Phạm Thiên bằng vàng và đúc chuông đồng lớn. Đặc biệt, trong khuôn viên chùa Súng Khánh, nhà vua sai dựng Bảo tháp Đại Thắng Tư Thiên (gọi tắt là Tháp Báo Thiên) vào năm 1056.[3] Ngôi tháp này có 12 tầng và cao 20 trượng (chừng 70m). Đây được xem là một trong An Nam tứ đại khí, tức 4 kỳ quan của Đại Việt thời Lý-Trần.[28] Lý Thánh Tông còn là một thiền sư - cư sĩ, được coi là vị Tổ thứ hai của Thiền phái Thảo Đường – một trong ba dòng thiền chính tại Đại Việt thời đó.[29] Theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn trong sách Lý Thường Kiệt: lịch-sử ngoại-giao triều Lý, các biểu hiện thương dân của Thánh Tông xuất phát từ sự thấm nhuần tinh thần từ bi của Phật pháp, chứ không phải từ động cơ tuyên truyền chính trị.[30] Bên cạnh đó, ông rất chú trọng mở mang Nho học. Mùa thu năm 1070, nhà vua đã xây dựng Văn miếu và tạc tượng thờ Chu Công, Khổng Tử cùng 4 học trò xuất sắc. Ông cũng cho vẽ tranh thờ 72 môn sinh của Khổng Tử và sai tế lễ bốn mùa.[19]

Dưới thời Lý Thánh Tông, xã hội Đại Việt tương đối ổn định.[26] Bên cạnh đó, một số cuộc binh biến đã xảy ra tại động Sa Đãng (1061), năm huyện Ái Châu và Giang Long (1061), động Sa Ma - nay thuộc Hòa Bình (tháng 10 âm lịch năm 1064) và châu Mang Quán - Lạng Sơn (tháng 7 âm lịch năm 1065). Lý Thánh Tông đã tự mình cầm quân đánh bại các cuộc nổi dậy này.[31] Lý Thánh Tông có người vợ thứ là Nguyên phi Ỷ Lan cũng nổi tiếng có tài trị nước. Nhà vua muộn con, không có thái tử giám quốc như các đời trước khi đi chinh chiến nhưng việc chính sự được yên ổn nhờ tay Nguyên phi Ỷ Lan.

Đối ngoạiSửa đổi

Với Nhà TốngSửa đổi

Sau các cuộc quấy phá của Nùng Trí Cao vào Trung Hoa, quan hệ Đại Tống – Đại Việt trở nên căng thẳng. Tri châu Ung là Tiêu Chú đã thuyết phục hoàng đế Tống chuẩn bị tấn công Đại Việt. Lý Thánh Tông đã nắm được tình hình này, và thoạt tiên ông chọn cách ứng xử mềm dẻo.[32] Tháng 4 âm lịch[23] năm 1057, ông sai Mai Nguyên Thanh mang thú lạ sang dâng cống cho nhà Tống, và bảo rằng đây là "kỳ lân". Nghe lời khuyên của Tư Mã Quang, Hoàng đế Tống Nhân Tông từ chối không nhận. Sau đó Tiêu Chú lại cho quân khiêu khích dọc theo biên giới.[32]

Tháng 3 âm lịch năm 1059, Lý Thánh Tông sai quân tướng từ miền đông bắc đánh phá đất Tống.[32] Về sự kiện này, Toàn thư chỉ chép quan quân "đánh Khâm Châu nước Tống, khoe binh uy rồi về, vì ghét nhà Tống phản phúc".[1] Nhưng học giả Hoàng Xuân Hãn viện dẫn các sách sử của Tống cho biết quân Đại Việt đã chiếm các động Cổ Vạn, Tư Lẩm và Chiêm Lăng, giết quan Tống là Lý Duy Tân, đồng thời bắt giữ nhiều quân, dân và vật nuôi. Tống Nhân Tông và các quan lộ Quảng Tây phải ra dụ cấm Tiêu Chú gây sự với Đại Việt, rồi Thánh Tông mới rút quân về.[1][32]

Cũng vào năm 1059, một số quân, dân Đại Việt đã lánh sang châu Tây Bình của Tống. Họ được chỉ huy quân sự Tây Bình là Vi Huệ Chính bao che. Thánh Tông sai Châu mục Lạng Châu là Thân Thiệu Thái mang quân sang bắt lại. Từ động Giáp (Đại Việt), Thân Thiệu Thái tiến quân vào huyện Như Ngao (Tây Bình) và giao chiến với quân Tống do Tống Sĩ Nghiêu chỉ huy. Sau trận đánh này, Thân Thiệu Thái rút quân về nước; Tống Sĩ Nghiêu phản công đánh vào động Giáp nhưng bị quân Đại Việt đập tan.[32] Đến năm 1060, Thánh Tông lại sai Thân Thiệu Thái tấn công đất Tống, giết chết Tống Sĩ Nghiêu cùng 4 tướng thuộc hạ. Quân Tống ở Tây Bình chống cự không nổi. Từ châu Tây Bình, quân Đại Việt tiến tới châu Ung và tấn công trại Vĩnh Bình. Quân Tống lại thua; quân Đại Việt bắt được Chỉ huy sứ Dương Bảo Tài cùng nhiều quân dân. Vua Tống sai Thị lang Bộ lại Dư Tĩnh tung quân lộ Quảng Nam Tây phản kích nhưng không thành công.[1][32]

Sau các trận đánh trên biên giới, nhà Tống sa thải các quan lại hiếu chiến như Tiêu Cố, Tiêu Chú, đồng thời cử Dư Tĩnh sang điều đình với Đại Việt. Lý Thánh Tông cử Phí Gia Hậu đi hòa đàm, đối đãi với Dư Tĩnh rất hậu nhưng cương quyết không trả Dương Bảo Tài và quân dân bị bắt.[24][1][32]

Với Chiêm ThànhSửa đổi

Sau khi bị Lý Thái Tông đánh bại trong chiến dịch Nam chinh năm 1044, nước Chiêm Thành một mặt cống nạp lễ vật, thú lạ cho nhà Lý, nhưng mặt khác họ ngấm ngầm thao luyện binh sĩ và thắt chặt quan hệ với nhà Tống, chờ thời cơ báo thù Đại Việt. Năm 1065, vua Chiêm là Chế Củ (Rudravarman III) đình chỉ việc cống nạp cho nhà Lý, sau đó năm 1068 quân Chiêm kéo sang quấy nhiễu biên giới.[33][34][26] Tháng 2 âm lịch năm 1069, Lý Thánh Tông quyết định mở chiến dịch đánh Chiêm. Ông thân chinh cầm quân tấn công, đánh tan quân Chiêm Thành và bắt được Chế Củ.[35]

Về cuộc chiến năm 1069, Đại Việt Sử ký Toàn thư có ghi nhận:[35]

Mùa xuân, tháng 2, vua thân đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua nước ấy là Chế Củ và dân chúng 5 vạn người. Trận này vua đánh Chiêm Thành mãi không được, đem quân về đến châu Cư Liên, nghe tin Nguyên phi giúp việc nội trị, lòng dân cảm hóa hòa hợp. Trong cõi vững vàng, tôn sùng Phật giáo, dân gọi là bà Quan Âm, vua nói: "Nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì hay sao?". Bèn quay lại đánh nữa, thắng được.Mùa hạ, tháng 6 đem quân về. Mùa thu, tháng 7, vua từ Chiêm Thành về đến nơi, dâng tù ở Thái Miếu, đổi niên hiệu là Thần Vũ năm thứ 1.

Sách Đại Việt sử lược không nhắc đến thành tích của Nguyên phi Ỷ Lan, nhưng mô tả chi tiết hơn về những chặn đường chinh phạt của Lý Thánh Tông với những chiến thắng ở cửa biển Nhật Lệ, sông Tu Mao và chiếm đóng quốc đô Phật Thệ:[36]

Mùa xuân, tháng 2, ngày Mậu Tuất vua xuống chiếu thân chinh đến nước Chiêm Thành. Ngày Đinh Vị [Mùi] vua thề ở nơi Long Trì... Ngày Ất Sửu sai bọn Hoàng Tiệp trong hàng Đại Liêu Ban đánh cửa biển Nhật Lệ thắng lợi... Ngày Bính Tý đóng quân ở Thị Lợi Bì Nại, có cái hiện tượng là hai con chim đều bay theo thuyền vua như thể dẫn đường vậy. Đại quân tiến lên trước đóng ở bờ sông Tu Mao thấy tướng Chiêm Thành là Bố Bì Dà La đang bày trận ở bờ sông. Quan quân xông ra đánh, chém Bố Bì Dà La, quân Chiêm chết vô số. Chúa Chiêm Thành là Đệ Củ nghe quân bị thua bèn dắt vợ con ban đêm lẫn trốn. Đêm ấy, quan quân kéo rốc vào thành Phật Thệ, đến bến Đồng La, dân ở thành Phật Thệ xin hàng.Mùa hạ, tháng 4 Nguyên soái Nguyễn Thường Kiệt [tức Lý Thường Kiệt] bắt được Đệ Củ ở biên giới Chân Lạp. Mùa hạ, tháng 5 vua ngự tiệc cùng quần thần ở ngôi điện của vua Chiêm Thành, vua lại thân hành múa thuẫn và đánh cầu ở nơi thềm điện ấy,...

Sau chiến thắng, Lý Thường Kiệt giải Chế Củ đem về Thăng Long, được Lý Thánh Tông phong làm Thiên tử nghĩa nam vì công lao này.[34][35] Vua Chiêm xin dâng đất ba châu là Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính để chuộc tội. Thánh Tông lấy 3 châu ấy và tha cho Chế Củ về nước.[35][37][38] Những châu ấy nay ở địa hạt các huyện Quảng Ninh, Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hòa, Lệ Thủy (tỉnh Quảng Bình) và huyện Bến Hải (tỉnh Quảng Trị). Trong số tù binh Chiêm Thành bị bắt về Đại Việt có một thiền sư người Tống là Thảo Đường, sau này là Quốc sư của triều đình Lý Thánh Tông và là Tổ khai sáng Thiền phái Thảo Đường - một trong 3 thiền phái của Phật giáo Đại Việt thời Lý.[39][40]

Thắng lợi của Lý Thánh Tông tại Chiêm Thành đã làm cho các lân bang phải kiêng dè Đại Việt. Cuối năm 1069, Hoàng đế Thánh Tông cử Quách Sĩ An làm Chánh sứ, Đào Tông Nguyên làm Phó sứ sang báo cho người Tống về việc đánh bại Chiêm Thành, bắt sống vua Chiêm. Tống Thần Tông trong bụng không thích, song đành thừa nhận Chiêm Thành là chư hầu của Đại Việt. Chính quyền Tống cũng nghiêm cấm các tướng ở biên giới khiêu khích, gây hấn với Đại Việt. Còn ở phía Nam, Chân Lạp và Chiêm Thành lần lượt sai sứ sang dâng lễ cống vào các năm 1069, 1071.[36][34]

Quốc hiệu nhà Lý

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào năm 1054, sau khi lên ngôi, vua Lý Thánh Tông đặt ra quốc hiệu là ĐẠI VIỆT (建國號曰大越)(1), và từ đó về sau được các triều đại Trần, Hậu Lê, Lê Trung Hưng, chúa Trịnh – Nguyễn vẫn sử dụng lại quốc hiệu này (quốc hiệu Đại Việt chỉ bị gián đoạn khi nhà Hồ cải quốc hiệu là Đại Ngu và chấm dứt vào thời nhà Nguyễn với quốc hiệu mới là Việt Nam). Hầu như mọi sử gia, học giả trong và ngoài nước Việt Nam từ xưa đến nay đều tin tưởng không chút hoài nghi là quốc hiệu ĐẠI VIỆT do vua Lý Thánh Tông lần đầu tiên đặt ra. Tuy nhiên, trong bài viết “Nhận thức mới về quốc hiệu nhà Đinh”(2), chúng tôi đã gợi ý, nhận định như sau: Sự xuất hiện quốc hiệu ĐẠI VIỆT trên viên gạch thời Đinh ở Hoa Lư đã là bằng chứng quan trọng để phủ nhận định kiến xưa nay về quốc hiệu ĐẠI VIỆT do Lý Thánh Tông đặt ra. Sự thật là nhà Lý chỉ dùng lại tên nước cũ từ thời Đinh – Tiền Lê mà thôi.

Bài viết này sẽ tiếp tục mở rộng và đi sâu hơn vào vấn đề này để xác định một lần nữa về quốc hiệu ĐẠI VIỆT không phải do Lý Thánh Tông đặt ra lần đầu tiên trong lịch sử.

i liệu khảo cổ, thư tịch liên quan đến quốc hiệu ĐẠI VIỆT thời Lý

Hai tài liệu sử – địa thuộc hàng sớm nhất là Đại Việt sử lược(3) và An Nam chí lược(4) (khoảng đời Trần), thật đáng ngạc nhiên, lại không hề ghi chép gì về sự kiện trọng đại vào năm 1054, Lý Thánh Tông đặt ra quốc hiệu ĐẠI VIỆT. Quốc hiệu “Đại (Cù) Việt” của Đinh Tiên Hoàng cũng không thấy nhắc đến. Sẽ có người cho là do tính chất “sơ lược” của tác phẩm nên các soạn giả đã bỏ qua. Luận điểm này không thuyết phục vì sự kiện quan trọng là đặt quốc hiệu mới của nước nhà đối với sử gia là không thể xem thường rồi bỏ qua được và trong một tác phẩm sử – địa dù là sơ lược lại càng phải chú trọng nêu ra, bằng chứng là quốc hiệu “Vạn Xuân” của Lý Bí, Nam Việt đế đã được Đại Việt sử lược ghi nhận. Ngay cả sách Việt điện u linh(5) chuyên chép các thần linh nhưng khi viết về Lý Nam Đế vẫn không quên ghi nhận quốc hiệu “Vạn Xuân”. Chỉ có thể giải thích hợp lý là thời Đinh và Lý thật sự không chính thức đặt ra quốc hiệu mới nên các soạn giả đã không ghi nhận. Sau đây là các bằng cứ chứng minh lý giải này: Trong văn khắc bia đá đời Lý có 1 tấm bia đã khắc quốc hiệu ĐẠI VIỆT đó là bia Đại Việt quốc đương gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (大越國當家第四帝崇善延齡塔 碑)(6)do Nguyễn Công Bật soạn, niên đại Thiên Phù Duệ Vũ 2 (1121), tuy nhiên cũng khoảng đời Lý, lại có tấm bia không khắc quốc hiệu ĐẠI VIỆT mà lại là Cự Việt (巨越), đó là ở bia Cự Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi minh tự (鉅 越 國 太 尉 李 公 石 碑 銘 序)(7), khuyết danh, niên đại khoảng năm 1159 và văn khắc chuông đồng Thiên Phúc tự hồng chung minh văn (天福 寺洪鐘銘文), cũng viết tên nước là Cự Việt (巨越) ở đoạn văn: Thiền sư Đạo Hạnh đi lạc quyên trong nước Cự Việt (道行禪師化 緣巨越國)(8). Quốc hiệu Cự Việt chưa từng được ghi nhận trong các tài liệu sử học xưa nay, vậy tại sao lại là Cự Việt? Chữ Hán cự 鉅 và 巨 là hai chữ đồng âm, đồng nghĩa: lớn. Chữ đại 大 có nghĩa là lớn, nên có thể dùng 鉅 và 巨 (lớn) để viết thay. Nhưng, liệu ĐẠI VIỆT, nếu đúng là một quốc hiệu chính thức được đặt ra vào ban bố vào đời vua Lý Thánh Tông và các đời vua Lý sau vẫn sử dụng có được phép viết khác chữ, dù là chữ đồng nghĩa hoặc là biện pháp kỵ húy hay không? Chắc chắn là không vì đó là khi quân phạm thượng. Theo ý tôi, sự xuất hiện cách viết khác nhau về quốc hiệu như trên chỉ chứng tỏ, thật ra vào đời Lý, không có một quốc hiệu chính thức do vua ban bố thi hành. Vua Lý Thái Tổ trong Chiếu dời đô (遷都詔) (9) đã gọi tên nước là VIỆT trong Việt bang (越邦) và theo Văn hiến thông khảo (文獻通考) đời Nguyên do Mã Đoan Lâm biên soạn đã dẫn tài liệu đời Tống là Quế Hải ngu hành chí, (桂海虞 衡志) do Phạm Thành Đại (1126-1193) biên soạn và sau đến Tục tư trị thông giám (續資治通鑑)(10) cũng đã ghi nhận nhà Lý từng sử dụng ấn “Nam Việt quốc ấn” (南越國印) trên văn thư ngoại giao Tống – Việt. Tuy sử Việt không nói đến ấn này, nhưng nguồn tài liệu ở trên có thể tin cậy vì bằng chứng là An Nam chí lược từng xác nhận vua Tống đã truy phong cho Lý Công Uẩn là Nam Việt vương và cuối đời Lý, bài Chiếu nhường ngôi (禪位 詔)) của Lý Chiêu Hoàng cũng đã từng gọi nước ta là Nam Việt quốc (南越國). Những tên gọi nước vào đời Lý như Việt, Đại Việt, Cự Việt, Nam Việt đã cho thấy tên gọi nước phổ biến nhất chỉ là VIỆT và các chữ ở đầu như Đại, Cự, Nam chẳng qua là tiếng thậm xưng (lớn) hay từ chỉ vị trí (phương Nam) mà thôi. Không chỉ ở đời Lý, tên nước gọi là VIỆT mà trước đó vào đời Đinh – Tiền Lê cũng vậy, bằng chứng là những viên gạch thời Đinh – Tiền Lê ở Hoa Lư co dấu ấn nổi Đại Việt quốc quân thành chuyên (大越国軍城塼)(11)và theo Đại Việt sử lược, vua Đinh Tiên Hoàng phong cho thái tử Đinh Liễn là “Nam Việt vương”, vương hiệu này đã được Đinh Liễn cho khắc vào cột kinh Phật bằng đá ở Hoa Lư(12) và qua đời Tiền Lê(13)cũng thế, nhà Tống phong cho Lê Hoàn là Nam Việt vương(14). Rõ ràng tên nước thời Đinh, Tiền Lê là VIỆT và chữ Đại hay Nam chỉ là phụ thêm. Sự xuất hiện hai chữ ĐẠI VIỆT trên gạch thời Đinh(15), trước hết là bằng chứng phủ nhận quốc hiệu “Đại (Cù) Việt” thời Đinh do Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép(16) và cũng phủ nhận luôn thông tin do Đại Việt sử ký toàn thư khẳng định về Lý Thánh Tông đặt quốc hiệu là Đại Việt.

Dưới đời vua Lý Thánh Tông quốc hiệu của nước ta có tên là gì

Tóm lại, với các bằng chứng thư tịch, di vật khảo cổ thì từ đời Đinh, Tiền Lê đến đời Lý đã xác định một sự thật lịch sử: Chỉ có tên gọi nước phổ biến là VIỆT và đứng trước chữ VIỆT có thể tùy ý dùng các chữ như Đại, Cự, Nam. Thông tin từ Đại Việt sử ký toàn thư khẳng định vua Lý Thánh Tông lần đầu tiên đặt ra quốc hiệu ĐẠI VIỆT là một ngộ nhận và sự ngộ nhận này có nhiều khả năng do tin tưởng vào thư tịch Trung Hoa. Tài liệu cổ Trung Hoa liên quan đến quốc hiệu ĐẠI VIỆT đời vua Lý Thánh Tông, sớm nhất hiện biết là sách Mộng Khê bút đàm (夢溪筆談)(17) do Thẩm Quát biên soạn khoảng 1088, đây là tài liệu cùng thời Lý Thánh Tông, sách có đoạn: “Đến Nhật Tôn (tức Lý Thánh Tông), bèn tiếm xưng là “Pháp Thiên Ứng Vận Sùng Nhân Chí Đạo Khánh Thành Long Tường Anh Vũ Duệ Văn Tôn Đức Thánh Thần Hoàng Đế”, tôn (Lý) Công Uẩn là “Thái Tổ Thần Vũ Hoàng Đế”, quốc hiệu là Đại Việt. (至日尊, 乃僭稱 法天應運崇 仁至道慶成龍祥英武睿文尊德聖 神皇帝,尊公蘊為太祖神武皇帝, 國號大越). Sau đó đến bộ Tống sử (宋史)18, sách này được Thoát Thoát vâng lệnh vua Nguyên biên soạn lại vào khoảng năm 1343 cũng ghi chép đại ý như vậy: Nhật Tôn (Lý Thánh Tông) tự xưng Đế ở nước này, tiếm xưng là Pháp Thiên Ứng Vận Sùng Nhân Chí Đạo Khánh Thành Long Tường Anh Vũ Duệ Văn Tôn Đức Thánh Thần Hoàng Đế, tôn (Lý) Công Uẩn làm “Thái Tổ Thần Vũ Hoàng Đế”, quốc hiệu là Đại Việt 日 尊自帝其國 , 僭稱法天應運崇仁 至道慶成龍祥英武睿文尊德聖神 皇帝,尊公蘊爲太祖神武皇帝, 國 號大越). Hai thông tin trên đã xác định dữ kiện lịch sử: Bắt đầu từ Lý Thánh Tông mới tự xưng đế chứ trước đó Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông không xưng đế và thời điểm này trong nước có hay đang dùng quốc hiệu là ĐẠI VIỆT chứ không xác định quốc hiệu mới đặt ra. Các sử gia của bộ Đại Việt sử ký toàn thư, chắc chắn đã tham khảo các tài liệu trên và tự suy diễn bằng đoạn văn: “Đặt quốc hiệu là Đại Việt (建國號曰大越)”, cách dùng chữ kiến (建) nghĩa là dựng lên, đặt ra như muốn khẳng định là Lý Thánh Tông lần đầu tiên đặt ra quốc hiệu ĐẠI VIỆT. Nhưng, như trên đã luận chứng, trước Đại Việt sử ký toàn thư, sách Đại Việt sử lược và An Nam chí lược đều không nhắc đến sự kiện Lý Thánh Tông đặt ra quốc hiệu ĐẠI VIỆT và quan trọng nhất, sự phát hiện gạch Hoa Lư vào thế kỷ X có dấu ấn ĐẠI VIỆT đã chứng minh đời Lý Thánh Tông thật ra cũng chỉ dùng lại tên gọi nước cũ là ĐẠI VIỆT mà thôi và không thể có điều nghịch lý rằng, Lý Thánh Tông lấy tên nước cũ của nhà Đinh rồi ban bố thành một quốc hiệu mới!

Kết luận

Kể từ khi Đại Việt sử ký toàn thư khẳng định về sự kiện vua Lý Thánh Tông vào năm 1054 đã đặt ra quốc hiệu ĐẠI VIỆT là từ đó về sau, mọi sử gia, học giả trong và ngoài nước cho đến nhà biên soạn sách giáo khoa, nhà giáo đều tin tưởng không chút hoài nghi rằng đó là một sự thật lịch sử và vẫn mặc nhiên lưu truyền, giảng dạy phổ biến cho các thế hệ sau. Thế nhưng, qua tìm hiểu và khảo chứng từ thư tịch cổ Việt-Hoa và các chứng tích khảo cổ, chúng tôi phát hiện ra một sự thật lịch sử khác, có giá trị khoa học đã chứng minh thông tin của Đại Việt sử ký toàn thư về quốc hiệu đời Lý là một sự ngộ nhận vì đã suy diễn lệch lạc từ thư tịch Trung Hoa: Vào khoảng đời Đinh, dù Đinh Bộ Lĩnh sau khi thống nhất đất nước, xưng đế nhưng vẫn không đặt ra quốc hiệu mới là Đại (Cù) Việt mà chỉ dùng tên gọi nước cũ, phổ biến (sớm nhất có thể bắt đầu từ Lí Bí với đế hiệu Nam Việt đế) là VIỆT như Đại VIỆT và Nam VIỆT. Tiếp sau đến nhà Tiền Lê, tên nước cũng thường gọi là Đại VIỆT, Nam VIỆT. Khi nhà Lý khởi nghiệp, từ đời Lý Thái Tổ đến Lý Chiêu Hoàng, trong nước vẫn thường xưng tên nước là VIỆT, Đại VIỆT, Cự VIỆT, Nam VIỆT. Sự thật là vua Lý Thánh Tông chưa từng đặt quốc hiệu mới là ĐẠI VIỆT vào năm 1054 như Đại Việt sử ký toàn thư đã từng ghi chép.

CHÚ THÍCH

  1. Viện Khoa học Xã hội, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội,
  2. Đinh Văn Tuấn, “Nhận thức mới về Quốc hiệu nhà Đinh”, Tạp chí Xưa&Nay số 368,
  3. 越史略, nguồn: Ctext
  4. Lê Tắc, An Nam chí lược, Trần Kinh Hòa (dịch), Nxb. Lao Động – Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây. 2009.
  5. Việt điện u linh, Tổng tập văn học Việt Nam, tập 3b, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội,
  6. Phạm Thị Thùy Vinh, “Về tư liệu văn khắc Hán Nôm thời Lý”, Tạp chí Hán Nôm, số 6 (121).
  7. Trịnh Khắc Mạnh, “Bước đầu tìm hiểu những giá trị của văn bia Việt Nam đối với việc nghiên cứu tư tưởng chính trị xã hội nước ta thời phong kiến”, Tạp chí Hán Nôm số 2-1998
  8. Nguyễn Hữu Vinh (dịch và giới thiệu), Thích Thiện Niệm (đính chính), “Thiền sư Từ Đạo Hạnh và văn khắc chuông chùa Thiên Phúc”, nguồn: com
  9. Đại Việt sử ký toàn thư (sđd).
  10. 文獻通考,nguồn: Ctext
  11. 續資治通鑑, nguồn: Google
  12. Đại Việt sử ký toàn thư (sđd)
  13. Nguyễn Văn Đoàn, “Khai quật di tích cố đô Hoa Lư năm 2009 – 2010: Kết quả và vấn đề”, Tạp chí Khảo cổ học số3/2010.
  14. Hà Văn Tấn, “Từ một cột kinh Phật năm 973 vừa phát hiện ở Hoa Lư”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 76, 1965. Theo dấu các văn hóa cổ, Nxb. Khoa học Xã hội,
  15. Ở truyện Sóc Thiên Vương (Tỳ sa môn vương) ở sách Lĩnh Nam chích quái (tục biên) đã dẫn Thiền uyển tập anh để ghi nhận tên nước thời vua Lê Đại Hành gọi là “Cự Việt quốc” (巨越國) (theo “Lĩnh Nam chích quái bình giải”, nguồn: https://trandinhhoanh.wordpress. com/2010/07/03/linh-nam-chich- quai-truy%E1%BB%87n-soc-thien- v%C6%B0%C6%A1ng/, do Nguyễn Hữu Vinh, Trần Đình Hoành biên soạn). Trong sách này có Lời hậu bạt (bạt cuối sách) – Lĩnh Nam chích quái liệt truyện quyển 3 (tục loại) của Đoàn Vĩnh Phúc, ghi năm hoàn thành là đầu năm Quang Bảo (1554), trong khi bản Thiền uyển tập anh xưa nhất còn lại là bản Vĩnh Thịnh thứ 11(1715) không có Cự Việt quốc, có lẽ đã được nhuận sắc lại. Vậy thời Tiền Lê đã từng gọi tên nước là “Cự Việt” có đúng hay không cần phải tìm thêm chứng cứ khác.
  16. An Nam chí lược (sđd).
  17. Cho đến nay chưa có nhà khảo cổ, sử học trong và ngoài nước nào đã phủ nhận một cách thuyết phục về xuất xứ, thời đại ra đời của gạch Đại Việt quốc quân thành chuyên ở Hoa Lư… Cũng có người cho gạch này xuất xứ từ nước Đại Việt của Lưu Nham. Dưới đời nhà Đường – Hậu Lương, Lưu Nham mưu đồ lập quốc, xưng đế ở Phiên Ngu (Quảng Châu) và đặt quốc hiệu là “Đại Việt” vào năm 917 nhưng vào năm 918, lại đổi quốc hiệu là Đại Hán, sử sách còn gọi là Nam Hán. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi này, có thể gạch Đại Việt quốc quân thành chuyên được sản xuất ở Quảng Châu nhưng sau đó nhà Đinh (khởi nghiệp từ năm 968) đã sử dụng (mua lại gạch cũ ở Quảng Châu hay dùng lại số gạch đã nhập từ trước) gạch Đại Việt này để xây thành Hoa Lư? Nhưng ý kiến này không thuyết phục vì cho đến nay giới khảo cổ học Quảng Châu, Trung Quốc chưa thấy phát hiện, công bố gạch Đại Việt quốc quân thành chuyên ở Quảng Châu, mà lẽ ra phải có rất nhiều từ lòng đất. Dĩ nhiên, gạch Đại Việt quốc quân thành chuyên được sản xuất tại Hoa Lư nước Đại Việt thời nhà Đinh là hợp lý hơn.
  18. Xem Nhận thức mới về Quốc hiệu nhà Đinh (đã dẫn).
  19. 夢溪筆談, “Tứ khố toàn thư”, nguồn: Ctext
  20. 宋史, “Tứ khố toàn thư”, nguồn: Ctext

1. Tiểu sử vua Lý Thánh Tông, vị vua tài năng

Tên thật của vua Lý Thánh Tông chính là Lý Nhật Tôn. Ông sinh ngày 30/03/1023 ngay tại cung Long Đức, vào đúng thời điểm cuối thời của vua Lý Thái Tổ.

Lý Thánh Tông hay Lý Nhật Tôn chính là kết quả của cuộc hôn nhân giữa vua Lý Thái Tông và vị hoàng hậu mang họ Mai, gọi là Linh Cảm Hoàng hậu hay Kim Thiên Hoàng hậu. Là con trai trưởng nên sau khi vua Lý Thái Tông lên ngôi hoàng đế vào năm 1028 đã quyết định sắc phong Lý Nhật Tôn là Thái tử.

Dựa trên ghi chép của cuốn sách Đại Việt sử lược (hay còn gọi là cuốn Việt sử lược) thì vị thái tử Lý Nhật Tôn thời điểm đó đã bộc lộ tư chất thông minh từ rất sớm. Ông đã sớm trở nên là một người “tinh thông kinh truyện, am hiểu âm luật, lại càng giỏi về võ lược”.

Dưới đời vua Lý Thánh Tông quốc hiệu của nước ta có tên là gì
Vua Lý Thánh Tông

Năm 1033, Thái tử Lý Nhật Tôn được vua cha là Lý Thái Tông phong tước làm Khai Hoàng Vương và ban cho ông cung Long Đức làm nơi ở. Chính điều này đã tạo cơ hội cho Thái tử Nhật Tôn có điều kiện tiếp xúc với cuộc sống của nhân dân từ rất sớm. Do vậy mà Thái tử Lý Nhật Tôn đã sớm thấu hiểu được những nỗi khổ của dân chúng cũng như những điều bất hạnh mà người dân đã phải trải qua.

Chính vì thế mà từ sâu bên trong vị Thái tử này đã có một tấm lòng vị tha, nhân hậu và thương dân. Đây được xem là nền tảng cũng như tiền đề cho những chính sách cai trị của vua Lý Thánh Tông sau này cũng như sự rèn luyện của ông với việc thông thạo nhiều thứ để trở thành một hoàng đế anh minh và có tài, có đức.

Đến năm 1037, vua Lý Thái Tông quyết định phong Thái tử Nhật Tôn giữ chức Đại Nguyên Soái, cùng với vua cha dẫn quân dẹp loạn ở Lâm Tây (nay là Lai Châu). Trận chiến này đã ghi dấu ấn thắng lợi của hai cha con cũng như chiến thắng năm 15 tuổi của Thái tử Lý Nhật Tôn. Năm Thái tử Nhật Tôn 17 tuổi, tức là năm 1039, ông đã được vua Lý Thái Tông giao cho trọng trách Giám quốc, tức là trông coi các công việc triều chính. bản thân vua Lý Thái tông đã đích thân dẫn quân đi đánh Nùng Tồn Phúc ở phía mạn vùng Tây Bắc.

Dưới đời vua Lý Thánh Tông quốc hiệu của nước ta có tên là gì
Tiểu sử vua Lý Thánh Tông

Năm 1042, lúc ấy là vào mùa đông, nhân dân ở Châu Văn (ngày nay chính là Lạng Sơn) làm binh biến, Thái tử Nhật Tôn đã được vua Lý Thái Tông phong làm Đô đốc Đại Nguyên Soái, dẫn quân đi dẹp loạn. Đến năm 1043, Nhật Tôn lại trở thành người cầm quân đi trấn áp ở Châu Ái (nay là Thanh Hóa). Về thành tích binh nghiệp của Thái tử Nhật Tôn thì sử sách Đại Việt sử lược có ghi chép là: “Thánh Tông đánh dẹp giặc giã, tới đâu cũng đều đánh thắng được cả.” Điều này đã cho thấy được tài cầm quân của Lý Thánh Tông cũng không tầm thường một chút nào. Mặc dù tuổi còn rất trẻ, thế nhưng, sự am hiểu cũng như tài năng của Lý Thánh Tông là điều mà ai cũng phải công nhận.