Đại hội lần thứ iii của đảng (9 – 1960) đã xác định nhiệm vụ của cách mạng miền bắc là

(HNM) - Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (năm 1951), Đảng Lao động Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến kiến quốc giành nhiều thắng lợi quan trọng. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 là đòn quyết định chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược do thực dân Pháp gây ra và được đế quốc Mỹ giúp sức. Thế nhưng đã 6 năm trôi qua, nước ta chưa được thống nhất như Hiệp định Giơnevơ (ký ngày 20-7-1954) quy định do Mỹ - Diệm phá hoại hiệp định. Vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng có nhiệm vụ quan trọng là xác định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến 10-9-1960. Tham dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức, 51 đại biểu dự khuyết thay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên cả nước.

Khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quyết tâm thống nhất đất nước của toàn Đảng, toàn dân: “Ngày nào mà chưa đuổi được đế quốc Mỹ ra khỏi miền Nam nước ta, chưa giải phóng được miền Nam khỏi ách thống trị tàn bạo của Mỹ - Diệm, thì nhân dân ta vẫn chưa thể ăn ngon, ngủ yên”.

Đại hội đã nghe Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Lê Duẩn trình bày; Báo cáo về sửa đổi Điều lệ Đảng do đồng chí Lê Đức Thọ trình bày; Báo cáo về phương hướng và nhiệm vụ Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất do đồng chí Nguyễn Duy Trinh trình bày và nhiều tham luận khác. Đại hội nhất trí thông qua nhiệm vụ và phương hướng của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), thông qua Điều lệ sửa đổi của Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết định đường lối chung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đường lối đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà. Đại hội quyết định đường lối tổ chức để tăng cường sức chiến đấu và sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới của cách mạng.

Phát biểu bế mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trước mắt chúng ta còn nhiều khó khăn. Nhưng chúng ta nhất định vượt qua mọi khó khăn. Vì chúng ta có chủ nghĩa Mác - Lênin vĩ đại dẫn đường. Vì chúng ta có cả phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh đứng đầu là Liên Xô vĩ đại, có hơn 80 đảng anh em với hơn 35 triệu đồng chí đoàn kết một lòng, có cả lực lượng dân tộc độc lập và hòa bình dân chủ thế giới to lớn giúp đỡ và ủng hộ chúng ta. Vì toàn thể cán bộ đảng viên ta đoàn kết chặt chẽ quyết tâm biến Nghị quyết Đại hội thành ý chí của toàn dân để giành thắng lợi mới”.

Thay mặt Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào cả nước hăng hái tiến lên, ai nấy đều cố gắng để trở thành những người lao động tiên tiến, những chiến sĩ tiên tiến. Người khẳng định: “Mười lăm năm trước đây, chỉ có 5.000 đảng viên và trong những điều kiện cực kỳ khó khăn mà Đảng ta đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi. Ngày nay, Đảng ta có hơn 50 vạn đồng chí, lại có những điều kiện rất thuận lợi cho nên Đảng nhất định lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công, đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà đến thắng lợi”.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng và đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội lần thứ iii của đảng (9 – 1960) đã xác định nhiệm vụ của cách mạng miền bắc là
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đại hội đổi mới và là một trong những Đại hội Đảng có những chỉ đạo chiến lược hết sức quan trọng cho cách mạng Việt Nam. (Ảnh: Tư liệu)

(Stxdd.thanhuytphcm.vn) - Trong mỗi kỳ Đại hội Đảng toàn quốc, bên cạnh công tác nhân sự còn có nhiều nội dung quan trọng khác, như kiểm điểm việc thực hiện nghị quyết nhiệm kỳ trước, kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong nhiệm kỳ, bàn phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ tới, sửa đổi Điều lệ Đảng (nếu có), thông qua cương lĩnh chính trị (nếu có)…

Trong 12 kỳ Đại hội Đảng đã qua, ở nhiều kỳ, những vấn đề đọng lại sâu đậm thường là các chỉ đạo chiến lược. Chẳng hạn, tại Đại hội lần thứ II (tháng 2-1951), Đảng ta đã ra hoạt động công khai[1] và đổi tên từ Đảng Cộng sản Đông Dương thành Đảng Lao động Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam bấy giờ là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, trừ diệt bọn phản quốc, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, thống nhất, xóa bỏ phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, tiến lên chủ nghĩa xã hội… Đại hội II đã có những định hướng quan trọng để giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp 3 năm sau đó.

Tại Đại hội lần thứ III (tháng 9-1960), Đảng ta đã xác định nhiệm vụ cách mạng là tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh... Đại hội đã nêu rõ, hai nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, song hai nhiệm vụ đó trước mắt đều có một mục tiêu chung là thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc…

Một kỳ Đại hội khác cũng đã để lại dấu ấn hết sức quan trọng trong tiến trình cách mạng Việt Nam, là Đại hội lần thứ VI (tháng 12-1986), được coi là đại hội đổi mới. Đại hội đã thẳng thắn nêu nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại của đất nước trong thời gian trước, trong đó nhấn mạnh Đảng đã có “những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”, đặc biệt là bệnh chủ quan duy ý chí, lạc hậu về nhận thức lý luận.Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, Đại hội đề ra đường lối đổi mới.Đó là đổi mới cơ cấu kinh tế; thực hiện ba chương trình kinh tế bao gồm chương trình lương thực - thực phẩm, chương trình hàng tiêu dùng, chương trình hàng xuất khẩu;xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế.

Hay sau đó, Đại hội VII (tháng 6-1991) được nhớ đến nhiều bởi Đảng ta đã đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với 5 bài học kinh nghiệm hết sức sâu sắc, đồng thời xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường; trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, cần nắm vững 7 phương hướng cơ bản. Đến Đại hội XI (tháng 1-2011), điều cũng được nhớ tới nhiều là Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó đặc biệt nhấn mạnh mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc… Trong suốt nhiệm kỳ này, công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực đã được thực hiện quyết liệt và đạt được những kết quả rất tích cực, được dư luận đánh giá rất cao.

Lần này, Đại hội XIII của Đảng đã định ra nhiều vấn đề rất quan trọng và có ý nghĩa, mang tính định hướng cho sự phát triển của đất nước cho nhiều năm sau, điều mà các Đại hội trước ít nhắc tới. Chẳng hạn, dự thảo Báo cáo chính trị của Đại hội đã nêu những định hướng phát triển đất nước có tầm nhìn rất xa, chứ không chỉ của nhiệm kỳ tới; trong đó, xác định đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, Việt Nam sẽlà nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, Việt Nam sẽtrở thành nước phát triển, thu nhập cao. Đây rõ ràng là những định hướng có tính lộ trình, đồng thời là những mục tiêu quan trọng để toàn Đảng, toàn dân phấn đấu. Suy cho cùng, đây chính là những bước mang tính nền tảng của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa ở nước ta.

Hay dự thảo Báo cáo chính trị cũng nhiều lần nhắc đến vấn đề “phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, trong đó đề cập yếu tố “hạnh phúc” như là một mục tiêu quan trọng của sự phát triển. Nội hàm của “hạnh phúc” theo Đại hội XIII rộng hơn và khác hơn so với nội hàm của “hạnh phúc” theo Đại hội XII, bởi ở 5 năm trước, hạnh phúc chỉ dừng lại ở hạnh phúc của cá nhân, hạnh phúc của gia đình mà chưa nâng thành hạnh phúc của xã hội, của đất nước và được đề cập không nhiều lần như ở Đại hội XIII. Đây thực sự là mục tiêu mang tính nhân văn sâu sắc.

Như vậy, Đại hội Đảng là một sinh hoạt chính trị rất quan trọng của Đảng, bàn rất nhiều vấn đề trọng yếu của đất nước, tức là sẽ tác động trực tiếp đến gần như tất cả người dân. Nhìn lại các kỳ Đại hội Đảng, nhiều quyết sách quan trọng mang tính quyết định đến sự phát triển của đất nước, đến việc nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân đã được thông qua tại Đại hội. Và với những gì đã được chuẩn bị, Đại hội XIII cũng sẽ tiếp tục là Đại hội thảo luận và quyết định những nội dung mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân ta, đất nước ta!

Vân Tâm

------------------

[1] Tháng 11-1945, do tình hình chính trị của đất nước bấy giờ, Đảng ta đã tuyên bố tự giải tán và rút vào hoạt động bí mật.

Tin liên quan