Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) đã cam kết 22,8 tỉ USD từ nguồn lực riêng của mình trong năm 2021 để giúp Châu Á và Thái Bình Dương ...
Thỏa thuận bán cho tỷ phú Elon Musk với giá 44 tỷ USD cũng chấm dứt hoạt động của Twitter với tư cách công ty đại chúng từ khi phát ...
Toyota Motor đã thông báo với các nhà cung cấp linh kiện lớn, hãng dự định giảm sản lượng toàn cầu xuống còn khoảng 700.000 xe cho tháng 5 tới, ... (TBTCO) - “Điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu tối huệ quốc (MFN) đối với mặt hàng thép, trước mắt có thể tạo áp lực cho doanh nghiệp sản xuất thép trong nước, nhưng đây cũng là động lực để doanh nghiệp nỗ lực hơn nữa trong việc giảm giá thành, nâng cao năng lực cạnh tranh và gia tăng xuất khẩu sản phẩm, tận dụng cơ hội từ các FTA…”- Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam Nghiêm Xuân Đa bày tỏ quan điểm đồng thuận với Nghị định 101/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 122/2016/NĐ-CP và Nghị định số 57/2020/NĐ-CP nhằm góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát vừa được Chính phủ ban hành.
PV: Nghị định 101/2021/NĐ-CP được ban hành có nội dung giảm thuế suất thuế nhập khẩu MFN của một số sản phẩm thép xây dựng, thép tấm từ 5% đến 10% sau ngày 30/12/2021 nhằm góp phần giảm giá thép trong nước, thúc đẩy sản xuất, kiểm soát lạm phát… Ông bình luận như thế nào về chủ trương này? Ông Nghiêm Xuân Đa: Đầu năm 2021, chúng tôi đã được nghiên cứu và góp ý vào dự thảo Nghị định 101/2021/NĐ-CP và đã có văn bản báo cáo Bộ Tài chính và Chính phủ.
Đến nay, Nghị định 101/2021/NĐ-CP được ban hành quy định giảm 5% - 10% với thép xây dựng và thép tôn mạ. Với nhận thức xét trên góc độ cân nhắc chung xuất phát từ lợi ích quốc gia, cân bằng hài hòa lợi ích giữa các mặt hàng chủ lực của các quốc gia khác, Hiệp hội Thép Việt Nam và các doanh nghiệp (DN) sản xuất thép cũng ủng hộ chủ trương này của Chính phủ và cơ quan quản lý nhà nước. Với việc giảm thuế MFN thực sự DN sản xuất thép sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức trong thời gian tới. Nhưng chúng tôi xác định ở khía cạnh khó khăn thì đây sẽ là động lực, nhân tố thúc đẩy DN thép cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ hiện đại, xây dựng và điều chỉnh chiến lược kinh doanh, tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả, giảm chi phí sản xuất, phát triển các chuỗi giá trị, phát triển nguồn nguyên liệu trong nước để sản phẩm trong nước có thể cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. PV: Xin ông có thể phân tích cụ thể hơn về việc khi thuế MFN giảm thì lực nhập khẩu thép vào Việt Nam sẽ tăng tạo ra sức ép như thế nào đến sản xuất trong nước và giá thép liệu có giảm nhiệt? Ông Nghiêm Xuân Đa: Về nguyên tắc chung khi cắt giảm thuế nhập khẩu rõ ràng sẽ tạo điều kiện cho sản phẩm thép nhập khẩu dễ dàng vào Việt Nam hơn và sẽ tạo nên áp lực cạnh tranh cho các sản phẩm thép trong nước do đó các DN trong nước buộc phải cải tiến để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
Cụ thể, đối với mặt hàng thép xây dựng công suất của Việt Nam là 18 triệu tấn, năm 2020, Việt Nam sản xuất 12 triệu tấn. Riêng thép xây dựng nếu có cơ chế tốt thì Việt Nam có khả năng xuất khẩu. Đối với thép tôn mạ, công suất 9,6 triệu tấn, sản xuất năm 2020 là 4,6 triệu tấn. Như vậy, 2 mặt hàng vừa điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu MFN hiện nay có nguồn cung trong nước đã đáp ứng hoàn toàn được nhu cầu thị trường nội địa. Các doanh nghiệp thép Việt Nam cũng đã nỗ lực để phát triển thương hiệu sản phẩm thép Việt Nam xuất khẩu ra thị trường khu vực và thế giới nhằm phát huy hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Sau khi đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước, Việt Nam cũng đã đẩy mạnh xuất khẩu. Việt Nam đã ký 15 FTA với các quốc gia, trong đó đều tuân thủ các quy tắc thương mại, thì mặt hàng thép xuất khẩu cũng đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng và xuất xứ hàng hóa để gia tăng xuất khẩu. Quý III/2021, thép xây dựng nhu cầu thấp, tiêu thụ nội địa giảm mạnh, ngành thép đã phải cố gắng duy trì sản xuất và tìm cách xuất khẩu, hạn chế sức ép dư cung. Tuy nhiên, giá thép trên thị trường đứng ở mức cao còn có nguyên nhân nguyên liệu đầu vào sản xuất thép trên thế giới đang ở chu kỳ giá cao cộng hưởng hoạt động của nhiều ngành kinh tế đang có dấu hiệu hồi phục sau dịch Covid-19. PV: Bước vào sân chơi quốc tế sẽ xảy ra 2 tình huống: nếu nhà nước mãi bảo hộ sẽ khiến DN “không lớn”, nhưng nếu mở rộng cửa, giảm thuế nhập khẩu thì DN chịu áp lực cạnh tranh của hàng ngoại nhập, buộc phải thích ứng, phát triển. Vậy ngành thép Việt Nam đã có giải pháp nào để đứng vững phát triển, thưa ông? Ông Nghiêm Xuân Đa: Hiện nay, Việt Nam đã tham gia 15 FTA điều này vừa tạo ra cơ hội gia tăng xuất khẩu cũng như đòi hỏi các ngành sản xuất phải thích ứng để phát triển… Nghị định 101/2021/NĐ-CP đã được ban hành, ngành thép ủng hộ, tuân thủ và sẽ triển khai có hiệu quả trong thời gian tới. Chúng tôi xác định đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội đòi hỏi DN sản xuất thép không ngừng đổi mới công nghệ, giảm chi phí giá thành nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hậu Covid-19 hiện nay. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng kiến nghị Chính phủ, đề nghị các bộ, ngành liên quan chủ trì xây dựng và sớm ban hành tiêu chuẩn quốc gia đối với các sản phẩm tôn mạ, tôn phủ màu. Đồng thời, hướng dẫn quy trình tham gia của các bên như cơ quan nhà nước, hiệp hội, DN để có tiêu chuẩn quốc gia phù hợp với xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay. Quy chuẩn Việt Nam cũng cần thích ứng với tiêu chuẩn của các quốc gia khác để sản phẩm Việt Nam có thể đẩy mạnh, bán ra thị trường nước ngoài. Điều quan trọng nữa là đối với ngành thép việc đầu tư sản xuất, kinh doanh được thực hiện theo chiến lược dài hơi, nên rất mong muốn những thay đối về mặt chính sách của Nhà nước (ví dụ như chính sách thuế xuất nhập khẩu) đến ngành thép được thực hiện có lộ trình, để DN sản xuất thép có thời gian điều chỉnh kế hoạch và thích ứng. PV: Xin cảm ơn ông!
Điều chỉnh mức thuế suất thuế xuất khẩu phôi thép và thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với một số mặt hàng thép là một trong những nội dung chính của dự thảo Nghị định. Bộ Tài chính cho biết giá thép xây dựng trong nước liên tục tăng mạnh trong thời gian qua có nguyên nhân chủ yếu là giá nguyên liệu sản xuất thép tăng cao trong khi ngành thép phụ thuộc phần lớn vào nguyên liệu nhập khẩu. Việc giá thép tăng cao đã ảnh hưởng lớn đến tiến độ và giải ngân cũng như chi phí dự phòng của các dự án, đực biệt là các dự án đầu tư công. Bên cạnh đó, giá thép tăng cũng ảnh hưởng đến chi phí đầu vào của nhiều doanh nghành sản xuất. Để góp phần hạ giá mặt bằng hàng thép xây dựng, thúc đẩy các doanh nghiệp giảm chi phí, đặc biệt trong bối cảnh giá nguyên liệu tăng cao, qua ra soát biểu thuế nhập khẩu MFN và biểu thuế xuất khẩu, tại dự thảo xin ý kiến các bộ, ngành địa phương và Hiệp hội thép Việt Nam (VSA), Bộ Tài chính đã đưa ra các đề xuất về thuế xuất khẩu và nhập khẩu. Cụ thể, Bộ Tài chính đề xuất điều chỉnh tăng thuế suất xuất khẩu mặt hàng phôi thép từ 0% lên thành 5%; giảm thuế suất nhập khẩu MFN của một số sản phẩm thép như thép cốt bê tông, thép góc, khuôn, hình và nhóm sắt thép không hợp kim cán phẳng. Về vấn đề này, Bộ Công Thương đã đề nghị không điều chỉnh tăng thuế xuất khẩu đối với mặt hàng phôi thép. Bộ Công Thương cho rằng việc tăng giá phôi thép thời gian qua chủ yếu do giá nguyên liệu đầu vào trên thị trường thế giới tăng cao và sản xuất phôi thép trong nước phần lớn phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, đặc biệt là quặng sắt và thép phế liệu. Cùng quan điểm với Bộ Công Thương, VSA và nhiều doanh nghiệp sản xuất như Công ty Hòa Phát, Công ty Formosa, Gang thép Nghi Sơn cũng đã có công văn đề nghị duy trì chính sách hiện hành liên quan đến xuất khẩu thép, không tăng thuế xuất đối với phôi thép. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thì cho rằng nguồn cung phôi thép trong nước không thiếu và việc tăng thuế xuất khẩu không chắc có thể làm giảm giá phôi thép trong nước. Do đó, theo VCCI, việc tăng thuế xuất khẩu khó tác động đến giá thành thép thành phẩm như mục tiêu ban đầu. Đối với mặt hàng thép xây dựng như thép cốt bê tông, thép góc, khuôn, hình và nhóm sắt thép không hợp kim cán phẳng, Bộ công Thương, các bộ, ngành và UBND các tỉnh, thành phố đều cơ bản nhất trí phương án giảm thuế suất theo đề xuất của Bộ Tài chính. Trong khi đó, VSA và một số doanh nghiệp sản xuất thép lại đề nghị không giảm thuế nhập khẩu MFN đối với các sản phẩm thép xây dựng trên. Từ ý kiến của các bộ, ngành, địa phương và các hiệp hội, doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã đưa ra các phương án theo từng mặt hàng thép để trình Chính phủ. Trong đó, đối với mặt hàng phôi thép, Bộ Tài chính đã đưa ra 2 phương án. Phương án 1 là chưa tăng thuế suất thuế xuất khẩu mặt hàng phôi thép. Bộ Tài chính cho biết việc thực hiện theo phương án này sẽ không ảnh hưởng đến hoạt động ngành thép hiện nay. Tuy nhiên phương án này sẽ không khuyến khích doanh nghiệp giữ lại nguồn thép để sử dụng trong nước, doanh nghiệp vẫn có thể khai thác nguồn điện với chi phí thấp trong sản xuất phôi thép. Phương án 2 là tăng thuế suất thuế xuất khẩu mặt hàng phôi thép từ 0% lên 5% như phương án đã xin ý kiến. Về phương án này, Bộ Tài chính cho biết việc tăng thuế xuất khẩu phôi thép tuy góp phần tăng thu ngân sách nhà nước nhưng trong bối cảnh hiện nay sẽ ảnh hưởng môi trường đầu tư kinh doanh trong nước, hoạt động của doanh nghiệp thuộc ngành thép, làm tăng hàng tồn kho, dư thửa công năng sản xuất và không phù hợp với chủ trương hiện nay. Bộ Tài chính cũng cho biết hiện nay, năng lực sản xuất phôi thép đã vượt quá nhu cầu, các doanh nghiệp phải xuất khẩu sản phẩm để tránh dư thừa công suất, gây lãng phí nguồn lực và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp nước ngoài cũng đã đầu tư sản xuất phôi thép như Công ty Formosa nên có thể ảnh hưởng đến môi trường đầu tư. Còn đối với mặt hàng thép xây dựng, Bộ Tài chính đề xuất điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế nhập khẩu MFN đối với thép cốt bê tông từ 20% xuống 15%; giảm xuống 15% xuống 10% đối với thép góc, khuôn, hình; giảm từ mức 20% và 25% xuống 15% đối với nhóm sắt thép không hợp kim cán phẳng. Theo Bộ Tài chính, việc điều chỉnh theo phương án đề xuất sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước đầu tư, đổi mới công nghệ để giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh đối với các sản phẩm thép nhập khẩu, góp phần bình ổn giá thị trường sắt thép trong nước. Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng cho biết thêm việc thực hiện theo phương án này dự kiến giảm thu ngân sách nhà nước không lớn do dây là những loại thép mà trong nước đã sản xuất được và cơ bản đáp ứng được nhu cầu. |