Bảo ve nhan dan trong văn kiện đại hoi 12 năm 2024

Thứ nhất, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng CAND, QĐND được Đảng ta kế thừa những nội dung cơ bản của Đại hội XI và các đại hội trước đó, được đề ra tại nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Văn kiện lần này đã nêu rõ mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hoá dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Thứ hai, văn kiện Đại hội lần này đã bổ sung, phát triển tư duy mới về công tác an ninh, đó là vấn đề an ninh phi truyền thống đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với an ninh truyền thống, từ đó xác định rõ nhiệm vụ sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống, bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng.

Thứ ba, văn kiện cũng thể hiện rõ tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, đó là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa luôn gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau. Giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó QĐND, CAND là nòng cốt. Điều này xuất phát từ nội hàm của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, phản bác luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, phản động cho rằng bảo vệ Tổ quốc không bao hàm bảo vệ Đảng, Nhà nước, cố tình tách bạch, phân biệt nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước với bảo vệ độc lập, chủ quyền, lãnh thổ, vùng đất, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc.

Bảo ve nhan dan trong văn kiện đại hoi 12 năm 2024
Đại biểu Nguyễn Xuân Yêm, Giám đốc Học viện CSND.

Thứ tư, văn kiện đã thể hiện tư duy mới trong mối quan hệ giữa đảm bảo an ninh, quốc phòng với vấn đề an sinh xã hội, nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn cho thấy, khi đời sống nhân dân được nâng lên, đời sống vật chất, tinh thần người dân được cải thiện thì nhiệm vụ quốc phòng, an ninh cũng được củng cố, tăng cường và ngược lại. Do đó, trong tiến trình phát triển, nhất thiết phải gắn chặt an sinh xã hội với an ninh, quốc phòng, trong đó tập trung thực hiện những nội dung như văn kiện Đại hội đã nêu: Xây dựng, thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội; giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc; khắc phục từng bước sự mất cân đối về phát triển giữa các lĩnh vực, các vùng, miền; bảo đảm sự hài hoà về lợi ích, về quan hệ xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hoá giàu – nghèo; kịp thời kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội…

Từ sau Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX), nội dung bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta đề cập và giải quyết một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ trong các văn kiện Đại hội toàn quốc của Đảng. Vấn đề này tiếp tục được thể hiện trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, khẳng định tư duy chiến lược về bảo vệ Tổ quốc của Đảng luôn có sự phát triển mới, phù hợp với thực tiễn.

Bảo ve nhan dan trong văn kiện đại hoi 12 năm 2024
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Tiểu ban Văn kiện Đại hội XII của Đảng phát biểu tại cuộc họp tiếp thu ý kiến đóng góp của đại hội đảng bộ các cấp (Ảnh: dangcongsan.vn)

Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XII của Đảng đã đánh giá, phân tích một cách sâu sắc tình hình thế giới và trong nước những năm tới. Từ đó tiếp tục bổ sung, phát triển và chỉ rõ: “Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội”1. Như vậy, nội hàm bảo vệ Tổ quốc trong Dự thảo đã thể hiện sự sáng tạo, tư duy biện chứng của Đảng, nhất là ở những nội dung sau:

1. Về phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh cũng phải hướng tới mục đích bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Dự thảo không những đã xác định rõ mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh mà còn có sự phát triển tư duy lý luận của Đảng; trong đó nhấn mạnh: củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt. Trên cơ sở đó, tiếp tục tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Sự phát triển nhận thức của Đảng ta về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc thể hiện sâu sắc tính chỉnh thể thống nhất, tính chất toàn dân, toàn diện của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Điều đó tạo cơ sở trực tiếp cho việc đổi mới tư duy, phát triển nhận thức của Đảng ta trên các vấn đề cơ bản khác của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo cơ sở thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo đảm cho quá trình xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, theo tôi, cần cụ thể hơn việc khắc phục biểu hiện nhấn mạnh một chiều nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.

2. Về xây dựng lực lượng quốc phòng, an ninh.

Dự thảo tiếp tục khẳng định lực lượng quốc phòng, an ninh là “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị ...”, và để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh: “phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”2. Điểm này, theo chúng tôi cần bổ sung: “tiếp tục hoàn thiện các chiến lược quốc phòng, an ninh và hệ thống cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới. Đồng thời, chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh”. Như vậy, định hướng về xây dựng lực lượng quốc phòng, an ninh nêu trên sẽ thể hiện quan điểm đúng đắn, nhất quán của Đảng ta tiếp tục đổi mới lĩnh vực quốc phòng, an ninh.

Dự thảo đặc biệt nhấn mạnh đến chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang, làm cho lực lượng vũ trang thật sự là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân, có số lượng hợp lý, có sức chiến đấu cao; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Theo chúng tôi, để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cần xác định rõ những nội dung cơ bản về xây dựng lực lượng quốc phòng, an ninh là: xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng quan trọng; vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, nhằm đảm bảo cho Quân đội và Công an hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Để đáp ứng yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, thiết nghĩ, cần nhấn mạnh hơn vấn đề tăng cường nguồn lực cho quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, bảo đảm cho Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Như vậy, Dự thảo văn kiện trình Đại hội XII của Đảng cần xác định rõ: phải tích cực chủ động chuẩn bị lực lượng và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, đủ khả năng bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia trong mọi tình huống.

3. Tăng cường quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận.

Trong tình hình mới, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hết sức quan trọng, cần thiết; đồng thời, thể hiện tư tưởng nhất quán của Đảng ta trong suốt tiến trình cách mạng. Xây dựng là một yếu tố của bảo vệ, tạo cơ sở, nền tảng về mọi mặt cho bảo vệ; ngược lại, bảo vệ tốt sẽ tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho xây dựng. Muốn vậy, phải xác định rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Các nhiệm vụ này phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng, tác động và thúc đẩy lẫn nhau. Do vậy, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh cũng có nghĩa là tập trung phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng “thế trận lòng dân”, như Dự thảo đã chỉ ra: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược quy hoạch… Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh. Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc…”3. Tuy nhiên, để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc với nội dung phát triển mới, rộng lớn hơn, toàn diện hơn thì việc bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cũng đòi hỏi phải có một hệ thống kiến thức tương xứng, nhằm phổ cập cho các đối tượng có sự hiểu biết về quốc phòng, an ninh, về hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, nhất là âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ nội bộ. Đồng thời, phải giáo dục, bồi dưỡng, phổ biến để kiến thức về quốc phòng, an ninh luôn thường trực trong mỗi tổ chức, cá nhân, trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Ngoài ra, theo chúng tôi, ở phần này cần bổ sung và tiếp tục nhấn mạnh: “xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh”, “giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, tạo sự đồng thuận trong nhân dân làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc” mà Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã khẳng định.

4. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng xác định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”4. Theo đó, cần nhấn mạnh vấn đề tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm mới không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam, tăng cường quan hệ máu thịt giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. So với Văn kiện Đại hội XI, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII nêu rõ: “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân”; “Tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc”. Để thực hiện được điều đó, Dự thảo cần làm rõ hơn các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể sau:

Một là, phải hoàn thiện thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc trong củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc. Hai là, cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách, phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước. Ba là, nhanh chóng khắc phục những hạn chế, bảo đảm tác dụng, hiệu quả thực chất hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.

Ngoài ra, Dự thảo còn nêu định hướng xây dựng các giai tầng trong xã hội; trong đó có những điểm mới so với Đại hội XI, như: tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo, sống tốt đời, đẹp đạo,... để góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, những quan điểm, chủ trương, định hướng mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng có sự bổ sung, phát triển toàn diện, sâu sắc hơn các đại hội trước của Đảng. Văn kiện đã chỉ ra quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp hết sức đúng đắn, khoa học, phù hợp với tình hình quốc tế và điều kiện thực tiễn của nước ta; phù hợp với ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.

Đại tá, PGS, TS. TRẦN NAM CHUÂN ____________

1 - ĐCSVN - Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng (Tài liệu sử dụng tại đại hội đảng bộ cấp huyện, cấp tỉnh và tương đương), tháng 4-2015, tr. 54.