Vì trị của nhà thơ Hồ Xuân Hương trong nền văn học trung đại Việt Nam

Hồ Xuân Hương được mệnh danh là "Bà chúa thơ nôm" với rất nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng. Sự nghiệp văn chương của bà rất thành công nhưng cuộc đời lại không gặp nhiều may mắn. Tuy vậy bà không bi quan mà lại lấy những nỗi đau ấy để làm động lực cho các sáng tác của mình.

Vì trị của nhà thơ Hồ Xuân Hương trong nền văn học trung đại Việt Nam

Vì trị của nhà thơ Hồ Xuân Hương trong nền văn học trung đại Việt Nam

Bài viết này được đăng tại freetuts.net, không được copy dưới mọi hình thức.

Vì trị của nhà thơ Hồ Xuân Hương trong nền văn học trung đại Việt Nam

Hồ Xuân Hương sinh năm 1772 mất năm 1822. Quê quán ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Bà có tên thật là Hồ Phi Mai hay còn có nghĩa là Hoa mai bay trên hồ.

Năm lên 13 tuổi cha mất, bà theo mẹ về làng Thọ Xương gần kinh đô Thăng Long sinh sống và đi học. Vì điều kiện kinh tế quá khó khăn nên bà chỉ đi học một thời gian sau đó thì phải đi ở đợ để kiếm sống.

Thuở nhỏ, Hồ Xuân Hương đã nổi tiếng chăm chỉ, thông minh và làm thơ rất hay. Sinh ra và lớn lên trong giai đoạn xã hội phong kiến Việt Nam có nhiều biến động tiêu cực, bà đã chứng kiến được cảnh người phụ nữ bị chà đạp với tư tưởng lúc bấy giờ là “trọng nam khinh nữ”. Chính điều này đã ít nhiều ảnh hưởng lên các sáng tác của bà sau này.

Bài viết này được đăng tại [free tuts .net]

Hồ Xuân Hương rất xinh đẹp, tính tình nghệ sĩ, quen biết rất rộng rãi nhưng cuộc đời và tình duyên của bà khá lận đận và gặp nhiều bất hạnh. Bà có 2 đời chồng nhưng ngang trái thay bà đều làm vợ lẻ của hai người chồng đó.

Người chồng đầu có tên là Tổng Cóc, là một người giàu có, yêu thơ nhưng lại ăn chơi và tiêu xài rất hoang phí. Bà vợ cả của ông thì rất ghen tuông, tìm mọi cách để hãm hại nên Hồ Xuân Hương đã bỏ nhà ra đi khi đang mang thai để tránh bị vợ cả và dân làng soi mói.

Sau đó một thời gian bà đã sinh được một đứa con gái nhưng không may lại mất khi vừa mới hạ sinh. Bà lấy chồng hai là ông phủ Vĩnh Tường, cũng sống kiếp vợ lẽ và sinh cho ông một người con, éo le thay chỉ mới sống chung với nhau hơn 2 năm thì người chồng thứ hai của bà cũng mất và bà sống một mình, cô độc đến cuối cuộc đời.

2. Sự nghiệp văn học của nhà thơ Hồ Xuân Hương

Sở dĩ Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “bà chúa thơ nôm” là vì rất nhiều người thán phục cách sử dụng chữ Nôm của bà. Hai lần mất chồng và thấm thía nỗi đau của những người phụ nữ phải chịu cảnh vợ lẽ nên bà đã sáng tác ra rất nhiều bài thơ thể hiện nỗi xót xa và đồng cảm sâu sắc với số phận của những người phụ nữ lúc bấy giờ.

Hầu hết những bài thơ của bà đều được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật (tám câu bảy chữ) và thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu bảy chữ).

Một số tác phẩm thơ nôm tiêu biểu của bà là:

  • Bà Lang khóc chồng
  • Bạch Đằng giang tạm biệt
  • Bài ca theo điệu xuân đình lan
  • Bánh trôi nước
  • Cảnh làm lẽ
  • Cái quạt giấy 1, 2

Trong đó bài thơ “Bánh trôi nước” được rất nhiều thế hệ độc giả yêu thích và được đưa vào sách giáo khoa Trung học cơ sở giảng dạy. Trong bài thơ này Hồ Xuân Hương đã lấy hình tượng bánh trôi nước để biểu tượng cho số phận trọng nam khinh nữ, đa thê thiếp khiến cho người phụ nữ phải chịu biết bao nhiêu cảnh bất hạnh, đau thương đồng thời ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn trong sáng, tình nghĩa, sắt son của của người phụ nữ Việt Nam.

Ngoài ra bà còn nổi tiếng với rất nhiều sáng tác bằng chữ Hán, tuy nhiên hiện nay chỉ còn lại rất ít bài, tiêu biểu như:

  • Hải ốc trù
  • Nhãn phóng thanh
  • Độ Hoa Phong
  • Trạo ca thanh
  • Thuỷ vân hương

Con người Hồ Xuân Hương phóng túng, tài hoa, có cá tính mạnh mẽ, sắc sảo vì vậy phong cách nghệ thuật của bà rất sáng tạo và đặc biệt vừa thanh vừa tục, kết hợp với nét phóng túng - tiềm ẩn, đậm đà chất văn học dân gian nên thơ của bà luôn gây nguồn cảm hứng vô tận cho hậu thế từ ngôn ngữ cho đến hình tượng.

Đặc biệt, bà còn có biệt tài sử dụng điệp khúc, âm điệu, tiết tấu thích hợp với từng ý, từng hoàn cảnh với thái độ rất tự nhiên, duyên dáng và giàu khả năng gợi cảm.

Có thể nói Hồ Xuân Hương được coi là hiện tượng độc đáo " Nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ" độc đáo có một không hai trong văn học sử Việt Nam. Với tư tưởng mới mẻ cùng lối làm thơ phá cách, ngôn ngữ bình dị và sáng tạo nên các tác phẩm của bà đã đem lại nhiều ý nghĩa, giá trị và sức sống lâu bền đến hiện tại.

Vì trị của nhà thơ Hồ Xuân Hương trong nền văn học trung đại Việt Nam

Vì trị của nhà thơ Hồ Xuân Hương trong nền văn học trung đại Việt Nam

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. Văn học Việt Nam thời trung đại- Thơ Hồ Xuân Hương Văn bản Hồ Xuân Hương viết trong chữ Nôm, một hệ thống chữ viết do giới nho sĩ Việt Nam phát minh ra để biểu thị cho hệ thống âm thanh ngôn ngữ mình qua cách viết chữ đẹp “phương nam”, nguyên bản. Từ khoảng thế kỉ thứ 10 vào cho tới thế kỉ 20, chữ viết này là kho tàng trữ các tác phẩm văn học, chính trị, triết học cũng như tôn giáo và các cách thức chữa trị y học. Trong hai mươi bốn năm các vua Tây Sơn mà Hồ Xuân Hương đã sống qua, chữ Nôm, thay vì chữ Hán, đã trở thành ngôn ngữ chính thức của triều đình(Quả thực, có một số bằng chứng rằng cô là chị em họ với vua Nguyễn Huệ và thuộc hàng họ hàng tương đương; Hoàng Xuân Hãn). Nhưng chữ Nôm, trong khi quả thực là ngôn ngữ của nhân dân, dẫu sao đi chăng nữa việc làm chủ nó cũng khó gấp đôi chữ Hán, vì chữ Nôm thường lấy chữ Hán rồi gắn thêm vào chúng giá trị ngữ âm tiếng Việt, do vậy làm tăng
  2. gấp đôi tổng số kí tự cho bất kì cách diễn đạt nào. Ngày nay, trong số 76 triệu người Việt Nam, có lẽ chỉ còn vài chục người có thể đọc được gia sản thừa kế 1000 năm này trong chữ Nôm, mặc cho sự kiện là nó gần như bao giờ cũng hiển hiện trước mắt mọi người –khắc trên những lối cổng, in trong lịch năm các nhà hàng, và khắc trong mồ mả gia tiên vẫn còn đó trên các cánh đồng lúa. Dẫu sao đi chăng nữa, chữ Nôm đã chết đi cùng với triều đình hoàng gia và tầng lớp nho sĩ, nhường đường cho chữ quốc-ngữ, "chữ quốc gia," do Alexandre de Rhodes đưa vào hồi thế kỉ thứ 17 và dùng bảng chữ Latin, dễ học hơn nhiều so với chữ Nôm và làm cho quảng đại quần chúng người Việt dễ đọc và viết. Không còn văn bản học thuật, xác định về thơ của Hồ Xuân Hương. Quả vậy, thơ của bà đã không được in ra mãi nhiều thập kỉ sau cái chết của bà với lần xuất bản khắc gỗ chữ Nôm vào năm 1909, tiếp theo đó vào năm 1914 qua lần biên tập khắc gỗ Quốc âm Thi Tuyển trong chữ Nôm với việc phiên chuyển quốc- ngữ trực tiếp phía dưới. Các học giả vẫn còn bất đồng về chính số lượng bài thơ mà có thể cho là của bà, một số người giới hạn
  3. quãng 25 bài, số khác lại nói là 148 bài. Nhiều tài liệu gốc sau đây có nhiều biến thể bởi vì chữ Nôm chưa bao giờ thực sự được chuẩn hoá. Điều còn hơn nữa, là các bài thơ của Hồ Xuân Hương đã được sao chép bằng tay, lại được thêm những biến thể văn bản mới. Việc làm phức tạp văn bản còn thêm nữa, vì thời bản viết của bà là theo cách phát âm miền bắc, bản thân tiếng Việt đã trải qua sự dịch chuyển về âm thanh và nghĩa. Tôi đã cố gắng tìm ra những phiên bản đáng tin cậy nhất, thường dựa vào cuốn cuối của Maurice Durand's L'Oeuvre de la poétesse vietnamienne Hồ Xuân Hương(Paris: Adrien- Maisonneuve, 1968, từ Tuyển tập văn bản và tư liệu về Đông Dương, Textes Nụm No.2.), một công trình lớn không may còn lại không đầy đủ vào lúc mất của Durand. Vào tháng hai 1999 tôi đã tới Hà Nội bàn bạc và thảo luận với các học giả để tìm ra và xác minh nguyên bản chữ Nôm của những bài thơ sau đây. Nhờ có sự giúp đỡ của Giáo sư Đào Thái Tôn và Nguyễn Quang Hồng tại Viện Hán-Nôm, và công trình xuất sắc của Ngô Thanh Nhàn, nhà ngôn ngữ học tính toán tại Courant
  4. Institute of Mathematical Sciences của đại học New York University, đây là lần đầu tiên mà chữ Nôm được in ra với kiểu di chuyển được, một bước chủ chốt đầu tiên hướng tới việc tìm lại gia sản văn học Việt Nam trong chữ Nôm. Cuốn sách này, một tuyển tập khá lớn đầu tiên về thơ của Hồ Xuân Hương, gần như chắc chắn còn chứa những sai sót không thể tránh khỏi về nguồn gốc lai lịch cũng như các sai sót thuần tuý do tôi phạm phải, như một người ngoại quốc, mặc dầu là nhà thơ, đang bơi trong giòng nước quá đầu mình dù được sự khuyến khích của tiếng reo hò của những người Việt Nam đứng trên bờ xa. 48 bài thơ trong cuốn sách này đại diện cho phần lớn thơ hiện còn của Hồ Xuân Hương. Một số bài thơ khác không được đưa vào đây bởi vì chúng dường như lặp lại, hay gần như chắc chắn là những bài thơ của các nhà thơ khác (như Bà Huyện Thanh-Quan, một người phụ nữ có thơ đôi khi cũng được gán cho Hồ Xuân Hương), hay bởi vì chúng dường như không thể phục hồi được trong tiếng Anh, cho dù có chú thích hỗ trợ.


Page 2

YOMEDIA

Hồ Xuân Hương viết trong chữ Nôm, một hệ thống chữ viết do giới nho sĩ Việt Nam phát minh ra để biểu thị cho hệ thống âm thanh ngôn ngữ mình qua cách viết chữ đẹp “phương nam”, nguyên bản.

09-02-2011 285 33

Download

Vì trị của nhà thơ Hồ Xuân Hương trong nền văn học trung đại Việt Nam

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.