Vì sao văn minh phương Đông xuất hiện sớm hơn văn minh phương Tây

SO SÁNH nền văn MINH PHƯƠNG ĐÔNG cổ đại và PHƯƠNG tây cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây  (560.51 KB, 33 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Lịch sử văn minh là trạng thái tiến bộ về cả hai mặt vật chất và tinh thần
của xã hội loài người, tức là trạng thái phát triển cao của nền văn hóa. Loài người
ra đời và đã sáng tạo ra những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần cách đây hàng
triệu năm.
Ở phương Đông (tức ở Châu Á và Đông Bắc Châu Phi), từ cuối thiên niên
kỷ IV - đầu thiên niên kỷ III trước CN, có bốn trung tâm văn minh lớn, đó là Ai
Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc. Cả 4 trung tâm này đều nằm trên lưu vực
những con sông lớn như sông Nile ở Ai Cập, sông Euphrates và sông Tigris ở
Lưỡng Hà, sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange) ở Ấn Độ, Trường Giang và
Hoàng Hà ở Trung Quốc. Nhờ sự bồi đắp của những con sông này nên đất đai ở
đây màu mỡ, rất thuận lợi cho nền nông nghiệp xuất hiện và phát triển và hơn thế
nữa là sáng tạo những thành tựu văn minh rực rỡ. Phương Đông cũng là cái nôi của
văn minh nhân loại, nơi mà lần đầu tiên con người đã biết sáng tạo ra chữ viết, văn
học, nghệ thuật và nhiều tri thức khoa học khác
Ở phương Tây xuất hiện nền văn minh Hy Lạp cổ đại. Tuy muộn hơn
phương Đông (từ thiên niên kỷ III đến thiên niên kỷ II trước CN) nhưng Hy Lạp đã
đạt được những thành tựu to lớn. Đến thế kỷ VI TCN, nhà nước La Mã bắt đầu
xuất hiện. Kế thừa và phát huy văn minh Hy Lạp, La Mã trở thành một trung tâm
văn minh lớn ở phương Tây. La Mã chinh phục Hy Lạp (thế kỷ II TCN) và tiếp đó
chinh phục các nước chịu ảnh hưởng văn hóa Hy Lạp ở phương Đông, trở thành đế
quốc rộng lớn, hùng mạnh. Văn minh La Mã vốn chịu ảnh hưởng của văn minh Hy
Lạp, vốn có cùng một phong cách, giờ đây lại hòa đồng và tiếp biến với nó, nên
người ta gọi chung hai nền văn minh này là văn minh Hy - La. Những thành tựu
rực rỡ của văn minh Hi-La cổ đại được ghi vào lịch sử nhân loại như những ánh
hào quang rực rỡ nhất. đã đặt một nền tảng khá vững chắc cho văn minh châu Âu


nói riêng và mang đến cho nền văn hóa thế giới nói chung những thành tựu bất hủ
mọi thời đại. Giá trị và tầm ảnh hưởng của văn minh phương Tây cổ trung đại
được khẳng định và thừa nhận xét cho cùng chính là những giá trị có tầm ảnh


hưởng đến thời đại ngày nay.
Nói đến văn minh Phương Đông không thể không đặt nó trong mối tương quan với
văn minh Phương Tây. Nếu chỉ nhìn văn minh Phương Đông với riêng nó sẽ thiếu
tính khách quan, cần đặt Phương Đông trong sự liên hệ với Phương Tây. Giữa 2
nền văn minh này có nhiều điểm giống và khác nhau, tìm ra những điểm ấy của
văn minh đông  tây cũng là tìm ra mấu chốt, là chìa khoá để mở ra cánh cửa đóng
kín từ lâu của thế giới cổ đại đầy bí ẩn. Với tiểu luận này, tôi xin trình bày một số
điều mình nghĩ về sự giống và khác nhau giữa các quốc gia cổ đại phương đông,
phương tây trong thế giới cổ đại.


PHẦN NỘI DUNG
1. Điều kiện hình thành nền văn minh phương Tây và phương Đông cổ
đại
1.1. Điều kiện hình thành nền văn minh phương Đông cổ đại
Loài người ra đời cách đây hàng triệu năm, và từ đó loài người đã sáng tạo ra
những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần. Nhưng mãi đến cuối thiên kỉ IV TCN,
xã hội nguyên thủy bắt đầu tan rã ở Ai Cập, nhà nước bắt đầu ra đời, từ đó loài
người mới bắt đầu bước vào thời kì văn minh.
Trong thời cổ đại, tức là từ cuối thiên kỉ IV, đầu thiên kỉ III TCN, đến những thế kỉ
trước sau CN, ở phương Đông tức là ở châu Á và ở Đông Bắc châu Phi có bốn
trung tâm văn minh lớn, đó là Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc. Có một
tình hình chung nổi bật là cả bốn trung tâm văn minh này đều nằm trên những
vùng chảy qua của những con sông lớn. Đó là sông Nin ở Ai Cập, sông Ơphrat và
sông Tigrơ ở Tây Á, sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange) ở Ấn Độ, Hoàng Hà
và Trường Giang ở Trung Quốc. Chính nhờ sự bồi đắp của những dòng sông lớn
ấy nên đất đai ở những nơi này trở nên màu mỡ, nông nghiệp có điều kiện phát
triển trong hoàn cảnh nông cụ còn thô sơ, dẫn đến sự xuất hiện sớm của nhà nước,
do đó cư dân ở đây sớm bước vào xã hội văn minh, và hơn thế nữa đã sáng tạo nên
những nền văn minh vô cùng rực rỡ.

Xã hội có giai cấp và nhà nước đã xuất hiện đầu tiên ở phương Đông, trên lưu vực
các dòng sông lớn ở châu Phi và châu Á như sông Nin ở Ai Cập, sông Ơ-phơ-rát
và Ti-gơ-rơ ở Lưỡng Hà, sông Ấn, sông Hằng ở Ấn Độ, Hoàng Hà ở Trung Quốc
v.v Ở đây có những điều kiện thiên nhiên rất thuận lợi cho đời sống của con người.
Những nơi này có nhiều đất canh tác, có mưa đều đặn theo mùa, có khí hậu nóng
ẩm (trừ Trung Quốc nhưng cũng không lạnh như ngày nay), dân cư sống tập trung
khá đông theo từng bộ lạc, trên các thềm đất cao gần sông, dễ trồng vườn, trồng
lúa và chăn nuôi.


Khoảng 3500 năm đến 2000 năm trước công nguyên, cư dân ở Tây Á, Ai Cập và
cư dân ở lưu vực các sông còn lại đã sinh sống trên đồng bằng ở ven các con sông.
Họ sống bằng nghê nông là chủ yếu và biết trồng mỗi năm hai vụ. Đồng bằng ven
sông đã bù đắp rất nhiều cho con người. Vào mùa mưa hàng năm, nước sông dâng
cao, phủ lên các chân ruộng thấp một lớp phù sa màu mỡ và làm cho đất rất mềm,
dễ làm với cả những chiếc cày bằng gỗ.
Cư dân phương Đông sống bằng nghề nông là chủ yếu nên trước tiên họ phải lo
đến công tác thuỷ lợi. Họ đã biết đào các hệ thống kênh, lập hệ thống gầu để múc
nước ở chân ruộng thấp và đưa nước lên chân ruộng cao những khi cần. Ngoài ra,
họ còn biết đắp đê để ngăn lũ nhờ thế con người có thể thu hoạch lúa ổn định hằng
năm. Công việc trị thuỷ khiến moi người gắn bó và ràng buộc với nhau trong tổ
chức công xã.
1.2. Điều kiện hình thành nền văn minh phương Tây cổ đại
1.2.1. Hi Lạp cổ đại
Hi Lạp cổ đại nằm ở phái Nam bán đảo Balkans, giống như cái đinh ba của thần
biển từ đất liền vươn ra địa Trung Hải. Thế kỉ IX TCN, người Hi Lạp gọi tên nước
mình là Hellad hay Ellad dựa theo tên tộc người của họ. Qua phiên âm từ Trung
Quốc, ta gọi là Hi Lạp.
Đất đai Hi Lạp cổ đại bao gồm Hi Lạp ngày nay, các đảo trong biển Aegean tới
phía Tây Tiểu Á, và phía Bắc của Bắc Hải, nhưng vùng quan trọng nhất là vùng

lục địa Hi Lạp ở phía Nam Balkans. Lục địa Hi Lạp gồm 3 phần: miền Bắc là vùng
đồng bằng rộng lớn và quan trọng nhất Hi Lạp; miền Trung ngăn cách với phía bắc
bởi đèo Thermopil hiểm trở, nơi đây có 2 đồng bằng lớn là Attique và Beotie trù
phú với thành thị Athens nổi tiếng; miền Nam là bán đảo Peloponesus như hình
bàn tay bốn ngón xòe ra Địa Trung Hải  đây là nơi xuất hiện nhà nước thành bang
đầu tiên của Hi Lạp  nhà nước Sparta.


Mặc dù có nhiều đồng bằng rộng lớn nhưng nhìn chung đất đai Hi Lạp không phì
nhiêu lắm, chủ yếu trồng nho, ô liu và phát triển các nghề thủ công, còn lương thực
chính là lúa mì phần lớn được nhập từ Ai Cập.
Địa hình Hi Lạp tương đối trở ngại về giao thông đường bộ nhưng có sự thuận lợi
tuyệt vời với con đường giao thông trên biển, bờ biển có nhiều cảng, vịnh, thuận
lợi cho tàu bè hoạt động. Từ đây, người Hi Lạp dễ dàng tới vùng Tiểu Á, Bắc Hải
để giao thương.
Nằm giữa vùng tiếp giáp giữa 3 châu, Hi Lạp sớm tiếp thu những thành tựu của
nền văn minh phương Đông cổ đại và tạo ra một nền văn minh Hi Lạp cổ đại độc
đáo và rực rỡ, với những thành tựu tuyệt vời đóng góp cho sự phát triển của văn
minh phương Tây nói riêng và văn minh nhân loại nói chung.
1.2.2. La Mã cổ đại
Nơi phát sinh quốc gia La Mã cổ đại là bán đảo Ý  một dải đất dài và hẹp như
chiếc hia duỗi thẳng xuống Địa Trung Hải với diện tích lớn gấp 5 lần bán đảo Hi
Lạp. Phía Bắc có dãy núi Apels như một bức tường thành tự nhiên ngăn cách bán
đảo với lục địa châu Âu; ba phía Đông, Tây, Nam đều có biển bao bọc. Dãy núi
Apennines như một chiếc xương sống chạy dọc bán đảo từ Tây Bắc xuống Đông
Nam.
Khác với Hi Lạp, điều kiện tự nhiên của La Mã tương đối thuận lợi hơn. Nơi đây
có nhiều đồng bằng rộng lớn, màu mỡ và phì nhiêu: đồng bằng sông Pô (miền
Bắc), đồng bằng sông Tibrơ (miền Trung), các đồng bằng trên đảo Xixin. Ở miền
Nam còn có nhiều đồng cỏ rộng lớn thuận tiện cho việc phát triển nghề nông và

chăn nuôi gia súc. Ở phía Tây và Nam, bờ biển có nhiều cảng, tàu bè ra vào dễ
dàng, thuận lợi cho giao thông và buôn bán.
Tóm lại


Văn minh phương Tây cổ đại mà nền tảng là 2 nền văn minh của Hi Lạp và La Mã
đã hình thành và phát triển trên cơ sở điều kiện tự nhiên của những cư dân gốc du
mục. Khác với các quốc gia cổ đại phương Đông, nền văn minh chủ yếu được hình
thành trên những khu vực gần các con sông lớn, thuận lợi cho sự phát triển nông
nghiệp, văn minh phương Tây cổ đại hình thành và phát triển trên những khu vực
điều kiện tự nhiên tương đối khắc nghiệt và phức tạp hơn. Điều kiện tự nhiên đó
tuy khó khăn cho sự phát triển của nông nghiệp, nhưng bù lại nền văn minh
phương Tây có được sự trợ giúp tuyệt vời của biển đảo. Những con đường giao
thương trên biển, hải cảng, tàu bè không chỉ tạo điều kiện phát triển trong mối
quốc gia mà còn thúc đẩy sự giao lưu, buôn bán giữa các nước, mang những thành
tựu văn hóa, văn minh phương Tây truyền bá khắp nơi trên thế giới. Sự phát triển
về kinh tế, đặc biệt là kinh tế thương nghiệp hàng hải đã tạo ra một nền kinh tế
giàu mạnh cho các quốc gia phương Tây cổ đại, đặc biệt là sự phát triển cực thịnh
của chế độ chiếm nô. Phương thức sản xuất chiếm nô thời bấy giờ đạt đến mức
hoàn chỉnh và cao nhất của nó trong xã hội phương Tây cổ đại. Chính sự phát triển
của chế độ chiếm nô đã tạo điều kiện cho sự sáng tạo ra những giá trị vật chất và
tinh thần của nền văn minh phương Tây. Sự giàu mạnh về kinh tế cùng với những
con đường giao thông trên biển là những nguyên nhân quan trọng đã thúc đẩy quá
trình bành trướng của các quốc gia được mệnh danh là đế quốc cổ đại: Hi Lạp và
La Mã.
Như vậy, điều kiện tự nhiên của Hi Lạp và La Mã không chỉ là nền tảng, cơ sở tạo
ra nền văn minh phương Tây cổ đại với nhiều thành tựu rực rỡ mà điều kiện tự
nhiên cũng là một yếu tố cực kỳ quan trọng đã mang nền văn minh phương Tây cổ
đại truyền bá khắp thế giới dù bằng nhiều con đường khác nhau: hòa bình hoặc
chiến tranh.

2. So sánh nền văn minh phương đông cổ đại và phương tây cổ đại về kinh tế
Các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây có sự giống và khác nhau về các


đặc điểm kinh tế.
- Kinh tế của họ phát triển đến thời cổ đại đều đã kinh qua nền sản xuất nguyên
thuỷ, công xã thị tộc. Hay nói cách khác sự tan rã của nền kinh tế nguyên thuỷ là
tiền đề để hình thành nền kinh tế cổ đại ở cả các quốc gia phương đông và phương
tây.Vì đều trải qua nền sản xuất nguyên thuỷ nên họ đều có những điểm giống
nhau, đều trải qua mô hình sản xuất công xã thị tộc, công xã nông thôn, đều có nền
kinh tế đi lên từ nông nghiệp
-Kinh tế của họ phát triển đều dựa vào điều kiện tự nhiên, phát huy thế mạnh mà tự
nhiên ban tặng cũng như hạn chế đến mức tối đa các khó khăn từ điều kiện tự
nhiên gây ra với kinh tế: ở phương đông là tận dụng lương mưa và đất phù sa để
phát triển nông nghiệp, hạn chế hậu quả do lũ lụt gây ra, ở phương tây là phát huy
thế mạnh về hàng hải và thủ công nghiệp, hạn chế khó khăn do thiếu hụt lương
thực gây ra(ở phương tây, đất đai không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp nên
phải dựa vào thương nghiệp để mua lương thực cho những năm mất mùa)
- Ở cả các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây các ngành kinh tế nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp đều đã có đủ sự khác nhau chỉ ở chỗ họ
lấy nghành kinh tế nào là mũi nhọn để phát triển mà thôi.
Ở phương Đông đặc trưng kinh tế của họ là nền kinh tế nông nghiệp mang tính
chất tự cấp,tự túc.Kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp có tồn tại nhưng
không có điều kiện phát triển, được coi như nghề phụ trong những lúc nông
nhàn.Trái lại các quốc gia cổ đại phương tây nền kinh tế chủ yếu của họ là thủ
công nghiệp và thương nghiệp.Đây là nơi hình thành và phát triển nền kinh tế hàng
hoá cổ đại.Sau đây ta sẽ đi rõ vào chi tiết từng ngành sản xuất để thấy rõ hơn sự
khác biệt trên
2.1.Trong nông nghiệp:
2.1.1.Ở các quốc gia cổ đại phương đông: nông nghiệp trồng lúa nước là ngành

kinh tế chủ yếu, là cơ sở kinh tế của tất cả các quốc gia cổ đại phương đông. Bên


cạnh việc lấy nghề nông làm gốc, cư dân phương đông thời cổ đã biết chăn nuôi
gia súc như: bò, cừu, lợn , và biết trồng các loại ngũ cốc khác nhau như: ngô, lúa
mạch, kê, vừng và các loại cây ăn quả khác. Chính vì các nghành nông nghiệp phát
triển theo hướng tự túc, tự cấp như vậy nên kinh tế hàng hoá không phát triển, nhu
cầu trao đổi buôn bán hàng hoá ít. Lối sản xuất này của họ đã gần như bóp nghẹt
kinh tế công thương nghiệp và tạo ra sự trì trệ tương đối nhưng vì 3 trong 4 quốc
gia cổ đại phương đông nằm biệt lập với thế giới bên ngoài nên nền kinh tế tự túc,
tự cấp là phù hợp với điều kiện phát triển của họ. Chỉ có Lưỡng Hà nằm ở nơi địa
hình bằng phẳng nên phát triển hơi khác về kinh tế họ phát triển công thương
nghiệp và là một trung tâm thương nghiệp lớn trong thế giới cổ đại họ có nhiều nét
giống các quốc gia cổ đại phương tây nhưng về bản chất họ vẫn lấy nghề nông làm
gốc điều này thể hiện rất rõ qua bộ luật Hammurabi bộ luật thành văn đầu tiên của
thế giới bộ luật này chủ yếu bảo vệ nông nghiệp và quan hệ sản xuất nông nghiệp.
1.2:Ở các quốc gia cổ đại phương tây nền kinh tế nông nghiệp không phát triển
như các quốc gia cổ đaị phương đông. Nền nông nghiệp của họ chủ yếu gắn với thị
trường và phục vụ nhu cầu của thị trường. Cây trồng chính của họ không phải là
cây lúa nước họ chủ yếu trồng lúa mì và các cây công nghiệp lâu năm như nho, ô
liu Như vậy ta có thể thấy nền nông nghiệp của họ không chỉ để phục vụ nhu cầu
cá nhân mà còn phục vụ nhu cầu của thị trường. Từ đó ta có thể thấy rõ sự phát
triển của yếu tố thị trường trong sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là sự khác nhau
cơ bản của sản xuất nông nghiệp phương đông và phương tây.
2.2. Trong thủ công nghiệp
2.1.2:Ở các quốc gia phương đông họ đã biết làm nhiều nghề thủ công với những
dấu ấn riêng ở mỗi quốc gia như: đồ gốm sứ ở Trung Quốc, Lưỡng Hà, dệt ở Trung
Quốc, làm giấy ở Ai Cập nhưng kinh tế thủ công nghiệp ở đây vẫn bị cho là nền
kinh tế bổ trợ cho nông nghiệp. Vì vậy độ chuyên môn hoá trong sản xuất thủ công
nghiệp chưa cao. Ở nhiều nơi nghề thủ công chỉ được coi như nghề phụ là việc



làm thêm trong lúc nông nhàn. Điều này càng cho thấy rõ tính chất tự cấp, tự túc
trong nền nông nghiệp của các quốc gia cổ đại phương đông.
2.1.2. Trong khi đó các quốc gia cổ đại phương tây lại có nền sản xuất thủ công
nghiệp hoàn toàn khác các mặt hàng thủ công nổi tiếng của họ là rượu nho dầu ô
liu và các sản phẩm như vũ khí và đồ gỗ. Nền thủ công nghiệp của họ cũng gắn
liền với nhu cầu của thị trường. Nhưng cái khác biệt lớn nhất của họ so với các
quốc gia phương đông là thủ công nghiệp của họ đã tách rời khỏi nông nghiệp để
trở thành một nền sản xuất độc lập. Đây là bước tiến lớn của họ, nhờ vậy mà năng
xuất lao động tăng lên không ngừng và cũng thể hiện nền thủ công nghiệp đã được
chuyên môn hoá, đem lại năng xuất cao hơn
2.3. Trong thương nghiệp
2.3.1:Ở các quốc gia cổ đại phương đông nền kinh tế của họ mang tính tự cấp, tự
túc là chủ yếu nên nền thương nghiệp chưa phát triển, buôn bán trao đổi chủ yếu
dưới hình thức vật đổi lấy vật, tiền tệ đã xuất hiện nhưng chưa phổ biến. Nước có
nền kinh tế thương nghiệp phát triển nhất phương đông là Lưỡng Hà cổ đại.
2.3.2:Trong khi nền kinh tế thủ công nghiệp ở phương đông không phát triển được
do nền kinh tế mang chất tự cấp, tự túc thì nền thương nghiệp ở phương tây đã có
sự phát triển mạnh mẽ đặc biệt là giao thương bằng đường biển. Các thuyền buôn
của họ đã nối liền 3 châu lục Á, Phi, Âu và đem về vô số tài sản cho lái buôn.
Tóm lại
Vậy tại sao lại có sự khác nhau về kinh tế giữa các quốc gia phương đông và
phương tây như vậy? đó là do giữa phương đông và phương tây có sự khác nhau về
điều kiện tự nhiên. Ở buổi đầu của văn minh nhân loại con người phải sống phụ
thuộc vào tự nhiên chứ chưa có ý muốn cũng như khả năng để chinh phục nó. Lao
động là quá trình thúc đẩy sự tiến hoá của con người. Ở thời cổ đại con người còn
ở một trình độ sản xuất chưa cao. Nền kinh tế nông nghiệp phương đông phát triển
trên cơ sở trị thuỷ các dòng sông lớn, đất đai ở đây được phù sa các sông lớn như



sông Nin ở Ai Cập, Sông Tigơrơ và Ơphơrát ở Lưỡng Hà, Sông Ấn và sông Hằng
ở Ấn Độ, Sông Hoàng Hà và Trường Giang ở Trung Quốc. Chính các con sông
này đã tạo nên các đồng bằng phì nhiêu, các vụ mùa bội thu và quan trọng nhất là
tạo ra các nhà nước cổ đại phương đông. Không một quốc gia phương đông cổ đại
nào mà lại không có một dòng sông lớn chảy qua. Nhờ lớp đất phù sa có nơi dày
tới vài mét nên nông nghiệp phương đông vẫn phát triển dù thời kì đó công cụ lao
động của họ chủ yếu là gỗ, đá và đồng đỏ họ có thể canh tác mà không cần công cụ
bằng sắt. Một yếu tố tự nhiên khác làm cho sự phân hoá đông  tây là khí hậu và
địa hình. Như ta đã biết một quốc gia muốn phát triển kinh tế thì phải dựa vào điều
kiện khí hậu và địa hình. Ví dụ ở nước ta cũng như đa số các quốc gia phương
đông nền kinh tế nông nghiệp lúa nước phát triển do nó hình thành trên cơ sở các
đồng bằng rộng lớn có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Sở dĩ 2 yếu tố này đi với nhau vì
nó bổ xung lẫn nhau vì có những nơi như ở La Mã cổ đại có các đồng bằng khá lớn
như đồng bằng Pô và đồng bằng Tibrơ nhưng nền kinh tế nông nghiệp không dữ
vai trò chủ đạo vì khí hậu ở đây là khí hậu Địa Trung Hải tuy có nhiều nét giống
với khí hậu nhiệt đới nhưng lượng mưa hàng năm ít hơn nhiều, còn ở một số vùng
như ở Trung Phi và một số vùng núi cao ở nước ta lượng mưa trong năm khá cao
nhưng do địa hình gồ ghề không có các đồng bằng châu thổ rộng lớn nên không có
điều kiện phát triển nhà nước.
Theo như những gì nãy giờ ta phân tích về sự quan trọng của sông ngòi, địa hình,
khí hậu làm nền tảng cho nền nông nghiệp phương đông thì những điều kiện đó
không có đủ như ở các quốc gia phương tây. Vậy cơ sở tự nhiên để hình thành các
quốc gia cổ đại phương tây là gì? Như đã nói từ đầu nền kinh tế các quốc gia cổ đại
phương tây là nền kinh tế dựa trên sản xuất thủ công nghiệp và thương nghiệp,
nông nghiệp chỉ là thứ yếu, là nguyên liệu cho thủ công nghiệp và thương nghiệp
vì thế các quốc gia cổ đại phương tây không cần các điều kiện như ở phương đông.
Nhưng họ cũng là con người, cũng phải tuân theo các quy luật nhất định nhà nước



chỉ hình thành khi kinh tế đạt đến một mức nào đó khi mà quan hệ công xã thị tộc
bị giải thể vì sự tư hữu trong tư liệu sản xuất. Các quốc gia phương tây không cần
các điêu kiện như phương đông vì họ dựa trên thủ công nghiệp và thương nghiệp.
Hi Lạp và La Mã đều là các quốc gia nằm trên các bán đảo lớn ăn ra biển, có nhiều
vũng, vịnh kín gió thuận lợi cho phát triển hàng hải. Hơn nữa 2 bán đảo Bancăng
và Italia đều nằm trong vùng biển Địa Trung Hải vùng biển này 3 mặt là 3 châu lục
Á, Phi, Âu bao bọc nên tương đối yên bình, ít bão lớn. Vì thế từ thời cổ đại khi kĩ
thuật đóng tàu chưa phát triển hoàn thiện người ta vẫn có thể vượt biển để buôn
bán. Đất đai và khí hậu ở đây tuy không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp lúa
nước nhưng bù lại khí hậu và đất đai ở đây lại thuận lợi cho việc trồng một số cây
công nghiệp lâu năm như nho, ôliu. Đây là nguyên liệu để sản xuất rượu nho và
dầu ôliu 2 mặt hàng có thể cho là đặc sản của các quốc gia cổ đại phương tây.
Hơn nữa đất đai của họ không thích hợp với sản xuất nông nghiệp nên để có nguồn
lương thực đáp ứng nhu cầu họ phải tiến hành trao đổi, buôn bán với các quốc gia
dồi dào lương thực ở phương đông như Ai Cập, Lưỡng Hà đây cũng là những thị
trường tiêu thụ rộng lớn của họ.
3. So sánh nền văn minh phương đông cổ đại và phương tây cổ đại về chính trị - xã
hội
Cũng giống như về kinh tế, về chính trị - xã hội cổ đại phương đông và xã hội cổ
đại phương tây có những nét giống và khác nhau nhất định.
3.1. Giống nhau: Do cùng trải qua xã hội nguyên thuỷ trước khi hình thành các
quốc gia cổ đại của mình nên giữa các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây
cũng có những nét giống nhau.
- Cơ sở của việc hình thành nhà nước là sự phân chia giai cấp và sự tư hữu về tư
liệu sản xuất nên xã hội cổ đại phương đông và phương tây đều chia làm 2 tầng lớp
là tầng lớp thống trị bao gồm tăng lữ, quý tộc ở phương đông và chủ nô ở phương
tây, tầng lớp bị trị là những nông dân công xã, dân tự do và nô lệ.


- Sự hình thành và phát triển của các quốc gia cổ đại dựa trên cơ sở sự bóc lột của

tầng lớp thống trị với tầng lớp bị trị
- Kế tiếp xã hội cổ đại là xã hội chiếm nô, cả các quốc gia phương đông và phương
tây đều như vậy nhưng do điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh kinh tế mà các quốc gia
cổ đại phương đông không phát triển chế độ chiếm nô đến điển hình và thành thục
như ở các quốc gia cổ đại phương tây.
3.2. Khác nhau:
3.2.1: Về chính trị
- Sự khác nhau đầu tiên và rất rõ ràng giữa các quốc gia cổ đại phương đông và các
quốc gia cổ đại phương tây là ở thể chế nhà nước, trong khi các quốc gia cổ đại
phương đông theo chế độ tập quyền chuyên chế thì ở phương tây thể chế nhà nước
của họ là chế độ dân chủ chủ nô. Đây là 2 hình thức nhà nước cơ bản mà dựa vào
nó các quốc gia phong kiến, hiện đại dùng để tổ chức bộ máy nhà nước. Ở các
quốc gia phương đông vua có quyền lực tuyệt đối. Tên của các ông vua được gọi
theo cá cách khác nhau ở Ai Cập gọi vua là Pharaông, ở Lưỡng Hà gọi là Patêxi
hay Enxi Vua được coi là con của thần hay thượng đế nói chung vua các quốc gia
phương đông có quyền lực vô hạn. Trái với các quốc gia phương đông các quốc
gia phương tây cổ đại theo chế độ dân chủ chủ nô. Hội đồng nhân dân giữ vai trò
quyết định, vua được chọn chỉ nhằm tổ chức nhà nước quyền lực của vua bị giới
hạn bởi các cơ quan như viện nguyên lão, đại hội công dân hay thậm chí bởi
một ông vua khác(chế độ của thành bang Xpác)
- Sự khác nhau giữa các quốc gia phương đông và phương tây còn ở thời điểm ra
đời của nhà nước cổ đại các quốc gia cổ đại phương đông là những nhà nước đầu
tiên của nhân loại theo một số tài liệu như Lịch sử thế giới cổ trung đại do
Nghiêm Đình Vỳ chủ biên hay Lịch sử thế giới cổ đại của Chiêm Tế thì các quốc
gia cổ đại phương đông hình thành từ khoảng thiên niên kỉ IV  III TCN, tức là khi
nhà nước của họ thành lập thì con người còn đang ở thời kì đá- đồng và dĩ nhiên


chưa có sự xuất hiện của công cụ bằng sắt. Thậm chí người Ai Cập mới chỉ biết
đến công cụ bằng đá và gỗ(Lịch sử thế giới cổ trung đại). Trong khi đó các quốc

gia cổ đại phương tây bước vào quá trình hình thành nhà nước muộn hơn nhiều
theo một số tài liệu thì đó là vào khoảng thế kỉ VIII- VII TCN. Đây cũng là sự khác
nhau về chính trị giữa các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây.
- Điểm khác nhau tiếp theo về chính trị giữa các quốc gia cổ đại phương đông và
phương tây là: các quốc gia cổ đại phương đông tồn tại một cách khá cách biệt với
thế giới bên ngoài nên họ tồn tại và phát triển một cách khá độc lập liên tục mà
không chịu ảnh hưởng của nền văn minh nào khác từ bên ngoài nếu bị xâm lược thì
thường giành lại độc lập sau đó. Trong khi đó chính trị, xã hội của các quốc gia cổ
đại phương tây chịu ảnh hưởng khá lớn từ các lực lượng bên ngoài. Họ thường
phải chịu những cuộc xâm lược của các bộ tộc khác tiêu biểu là cuộc xâm lược của
người Giecmanh cuộc xâm lược này đã làm sụp đổ đế chế La Mã đồng thời cũng
chấm dứt lịch sử cổ đại châu Âu mở ra thời kì phong kiến.
- Về mặt tổ chức nhà nước thì các quốc gia cổ đại phương đông lãnh thổ của họ
thường khá rộng lớn và là một nhà nước thống nhất ví dụ như Ai Cập, Trung Quốc,
Lưỡng Hà. Lịch sử Ấn Độ, Ai Cập, Trung Quốc cũng có một số thời kì bị chia cắt
nhưng các vùng chia cắt thường không khác nhau lắm về chính trị, xã hội, hơn nữa
thì chúng thường được nhanh chóng thống nhất trở lại. Nhưng ở các quốc gia cổ
đại phương tây đặc biệt là ở Hi Lạp cổ đại, nhà nước của họ tồn tại dưới hình thức
thành bang tức là trên lãnh thổ đó tồn tại nhiều tiểu quốc nhỏ với chế độ tổ chức
nhà nước khác nhau giữa các thành bang không có sự giống nhau ví dụ: thành bang
Aten là thành bang có hình thức hội đồng 500 và hội đồng công dân đứng đầu là 10
nhà chiến lược kiệt xuất được bầu chọn, ở Xpác cũng có hội đồng nhân dân nhưng
chủ chốt lại là ở 2 vua và 5 quan giám sát. Ở Rôma thời kì đế chế tuy lãnh thổ mở
rộng nhưng về bản chất vẫn không có sự quản lý chặt chẽ thành một khối như ở
các quốc gia cổ đại phương đông.


3.2.2: Sự khác nhau về xã hội:
- Theo quy luật khách quan của lịch sử thì tiếp theo xã hội cổ đại sẽ là xã hội chiếm
nô nhưng do một số nguyên nhân về điều kiện tự nhiên và xã hội nên ở phương

đông tồn tại một cách dai dẳng chế độ công xã nông thôn 1 hình thức tổ chức xã
hội mà trong đó duy trì nền kinh tế tự nhiên và nhiều tàn dư của công xã nguyên
thuỷ. Vì vậy nên xã hội chiếm nô ở phương đông không phát triển đến mức thành
thục, điển hình như ở các quốc gia phương tây nơi số lượng nô lệ đông gấp hàng
chục lần chủ nô và bình dân.
- Điều khác nhau tiếp theo giữa các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây là
về lực lượng chính lao động để làm ra của cải vật chất. Ở các quốc gia phương tây
với nền kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển, lực lượng chính làm
ra của cải vật chất là những người nô lệ, một thứ công cụ biết nói, còn ở các
quốc gia cổ đại phương đông với nền kinh tế nông nghiệp phát triển thì vai trò này
thuộc về những nông dân công xã. Lực lượng lao động chính khác nhau cũng cho
thấy sự khác nhau về bản chất xã hội giữa các quốc gia cổ đại phương đông và các
quốc gia cổ đại phương tây.
- Do sự khác biệt trong lực lượng sản xuất chính giữa xã hội cổ đại phương đông
và xã hội cổ đại phương tây nên mâu thuẫn xã hội giữa các quốc gia cổ đại phương
đông và phương tây cũng khác nhau. Ở xã hội cổ đại phương đông dó là mâu thuẫn
giữa 2 giai tầng chính là giai cấp thống trị( vua, quan, quý tộc) và giai cấp bị
trị( nông dân công xã, nô và thợ thủ công). Ở các quốc gia cổ đại phương tây thì có
vẻ phức tạp hơn vì ngoài 2 giai cấp đối kháng là chủ nô và nô lệ thì lại có thêm một
tầng lớp không bóc lột ai nhưng cũng không bị ai bóc lột, họ là những người dân tự
do nghèo, Mác đã gọi họ là tầng lớp vô sản ăn bám họ sống nhờ vào phúc lợi xã
hội mà không cần phải lao động gì. Đó cũng là sự khác biệt giữa các quốc gia cổ
đại phương đông và các quốc gia đại phương tây.
- Trong cơ cấu xã hội của các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây cũng có


sự khác nhau. Trong xã hội cổ đại phương đông nông dân công xã chiếm phần lớn
dân số trong khi đó số lượng nô lệ của các quốc gia cổ đại phương tây cao gấp
hàng chục lần số lượng chủ nô và bình dân.
- Một đặc điểm khác của xã hội cổ đại phương đông và phương tây là: do hình thức

thành bang phát triển nên tỉ lệ dân thành thị của họ rất cao, thành thị là trung tâm
của thành bang, là nơi tập trung của cư dân. Trái lại ở các quốc gia phương tây tỉ lệ
dân nông thôn lại cao hơn thành thị điều này nói lên sự khác biệt về kinh tế xã hội
giữa các quốc gia cổ đại phương đông và các quốc gia phương tây cổ đại đồng thời
nó cũng rất có ảnh hưởng với xã hội các quốc gia này trong những giai đoạn phát
triển sau.
3.3. Giải thích sự giống và khác nhau về chính trị, xã hội giữa các quốc gia cổ đại
phương đông và phương tây.
3. 3.1. Giải thích sự giống nhau về chính trị, xã hội
-Có sự giống nhau giống nhau giữa các quốc gia cổ đại phương đông và phương
tây vì các quốc gia này đều hình thành trên cơ sở tuân theo quy luật khách quan tất
yếu của lịch sử đó là kế tiếp xã hội nguyên thuỷ cổ đại là xã hội chiếm nô với 2
giai cấp cơ bản: Giai cấp thống trị chủ nô và giai cấp bị trị nô lệ(Lịch sử thế giới
cổ trung đại- Nghiêm Đình Vỳ chủ biên).
-Như ta đều biết nhà nước ra đời khi xã hội ẩn chứa nhiều mâu thuẫn, khi mà sự tư
hữu về tư liệu sản xuất đã đạt tới một mức độ nhất định. Nhà nước cổ đại có vai trò
quản lý, điều hoà mâu thuẫn đó nhưng chủ yếu là thay mặt tầng lớp trên trong xã
hội để trấn áp, bóc lột nhân dân. Vì thế về bản chất nhà nước là một cơ quan bóc
lột nhân dân không phân biệt sự khác nhau về kinh tế, chính trị, xã hội
-Do cùng ra đời vào thời cổ đại nên xét cho cùng tổ chức chính trị, xã hội có một
số điểm giống nhau nhất định như tính sơ khai, tính bóc lột nguyên thuỷ
3.3.2. Giải thích sự khác nhau về chính trị, xã hội
- Nguyên nhân hình thành chế độ tập quyền chuyên chế ở phương đông và nền dân


chủ chủ nô ở phương tây. Do ở phương đông nền kinh tế nông nghiệp tự túc, tự
cấp phát trỉển còn ở phương tây có nền kinh tế hàng hoá, công thương nghiệp phát
triển nên yêu cầu về chính trị, xã hội khác nhau. Ở phương đông với nền kinh tế
nông nghiệp thì thuỷ lợi là vấn đề hàng đầu, nhưng trị thuỷ phải có sự góp sức của
nhiều người vì thế chế độ tập quyền chuyên chế giúp vua có khả năng trong điều

hành các công việc chung dễ dàng hơn. Ngoài ra các vị vua phương đông thường
mượn thần quyền để tăng uy tín của mình. Trái lại ở phương tây họ hình thành các
quốc gia cổ đại muộn hơn nên có thể tiếp thu thành tựu phương đông. Trong các
quốc gia phương đông cổ đại Lưỡng Hà là nước dân chủ hơn cả cộng thêm với
việc thương nghiệp ở đây phát triển nên theo tôi các quốc gia phương tây đã học
tập và hoàn thiện chế độ ở Lưỡng Hà và lập ra các nhà nước dân chủ chủ nô nhằm
hạn chế sự chuyên quyền của vua đồng thời tạo tính dân chủ trong xã hội. Hơn nữa
nền kinh tế công thương nghiệp của họ không cần có một vị vua chuyên quyền để
cai trị, nền kinh tế công thương coi trọng sự công bằng hơn nữa họ muốn không
chỉ có địa vị kinh tế mà còn có địa vị xã hội nên đó cũng có thể là lý do hình thành
nhà nước dân chủ chủ nô ở các quốc gia cổ đạu phương tây.
- Nguyên nhân nhà nước chiếm hữu nô lệ phương tây phát triển một cách thuần
thục và điển hình trong khi ở các quốc gia phương đông thì không: do ở phương
tây, kinh tế công thương nghiệp phát triển mạnh mẽ lực lượng dân tự do không đáp
ứng kịp từ đó nảy sinh nhu cầu cần một lực lượng chính chuyên môn hoá sản xuất,
phục vụ cho nhu cầu công thương nghiệp hơn nữa giữa các quốc gia cổ đại phương
tây thường sảy ra chiến tranh để cướp đoạt nô lệ, của cải vì thế số lượng bình dân
giảm nhưng số lượng nô lệ lại tăng vì thế bóc lột bình dân như ở các nước phương
đông không không còn phù hợp. Vì thế theo em ban đầu nô lệ ở phương tây cũng
mang tính gia trưởng như ở phương đông nhưng sau đó do nhu cầu phát triển kinh
tế công thương nghiệp nên xã hội chiếm nô ở đây ngày càng phát triển tới mức
thành thục và điển hình.


- Nguyên nhân của sự chênh lệch về thời gian hình thành giữa các quốc gia cổ đại
phương đông và phương tây: do ở phương đông có điều kiện tự nhiên thuận lợi khí
hậu phù hợp, đất phù sa màu mỡ rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp nhưng
cũng phải lo làm thuỷ lợi phòng lũ lụt nên từ rất sớm các công xã nông thôn đã hợp
nhất thành các liên minh bộ lạc lớn rồi từ đó hình thành các quốc gia cổ đại vì thế
ngay cả khi loài người còn đang ở thời kì đá - đồng, khi mà công cụ bằng sắt chưa

xuất hiện thì họ vẫn có thể thành lập các nhà nước cổ đại. Trái lại, ở phương tây
đất canh tác không màu mỡ bằng, khí hậu không phù hợp để canh tác nông nghiệp
vì thế chỉ khi công cụ bằng sắt ra đời từ khoảng giữa TNK I TCN thì các quốc gia
cổ đại phương tây mới hình thành. Ở đây ta lại có thắc mắc tại sao các quốc gia
phương tây phát triển công thương nghiệp lại cần sự phát triển nông nghiệp ở thời
đồ sắt lý do rất đơn giản vì nông nghiệp là cơ sở của mọi ngành kinh tế, là hình
thức kinh tế giúp con người tồn tại, không ở đâu là không cần nông nghiệp phát
triển kể cả các quốc gia phương tây vì nông nghiệp là cơ sở để duy trì sự tồn tại
của xã hội
- Nguyên nhân sự khác nhau về giai cấp đối kháng giữa các quốc gia cổ đại
phương đông và phương tây:lý do sự khác nhau đó đến từ thể chế chính trị, xã hội.
Ở các quốc gia phương đông cổ đại hình thức chính trị xã hội chủ yếu của họ là
hình thức tập quyền chuyên chế vì thế mâu thuẫn giai cấp chủ yếu sảy ra giữa nông
dân công xã và quý tộc, quan lại trong khi đó ở các quốc gia cổ đại phương tây nền
dân chủ chủ nô phát triển mâu thuẫn chủ yếu là giữa chủ nô và nô lệ nhưng trong
xã hội cổ đại phương tây lại có sự phức tạp hơn phương đông ở chỗ ngoài hai giai
cấp đối kháng chủ yếu là chủ nô và nô lệ còn xuất hiện giai cấp bình dân họ không
bị bóc lột như nô lệ nhưng cũng không bóc lột trực tiếp đối với nô lệ họ sống nhờ
vào phúc lợi xã hội (giai cấp vô sản ăn bám) . Giai cấp này hình thành trên cơ sở sự
phát triển của chế độ chiếm nô khi của cải trong xã hội đã tích luỹ 1 lượng của cải
đủ nuôi sống cả xã hội. Họ sống nhờ vào chính quyền chiếm nô nên có quan hệ lệ


thuộc vào giai cấp trên, nhưng họ vẫn là dân nghèo nên cũng có những mâu thuẫn
nhất định với giai cấp trên.
- Nguyên nhân lãnh thổ của các quốc gia phương đông cổ đại lại rộng lớn và
thường xuyên ở tình trạng thống nhất hơn các quốc gia phương tây: Do ở phương
đông có nhu cầu chung sức trị thuỷ các dòng sông lớn nên các tiểu quốc thường có
xu hướng hợp nhất với nhau vì thế các quốc gia phương đông cổ đại thường có
lãnh thổ rộng lớn và thống nhất lãnh thổ hơn các quốc gia phương tây cổ đại(trừ đế

chế Rôma). Còn ở các quốc gia cổ đại phương tây tiêu biểu là Hi Lạp các quốc gia
thường mang tính chất thành bang diện tích nhỏ và không có sự thống nhất về lãnh
thổ là do không có nhu cầu trị thuỷ các dòng sông lớn, sự phát triển của kinh tế
công thương nghiệp không đòi hỏi nhu cầu thống nhất lãnh thổ nhưng về cơ bản
vẫn là do bị địa hình chia cắt bởi núi cao, sông dài. Chính sự chia cắt về tự nhiên
và việc các thành bang không thống nhất với nhau đã khiến lãnh thổ Hi Lạp cổ đại
chưa từng có 1 vương triều thống nhất có chăng chỉ là một số thành bang mạnh
vươn lên làm minh chủ một thời gian rồi sau này lại trở về cục diện ban đầu.
=> Sự khác biệt chủ yếu giữa các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây là về
xã hội kinh tế, chính trị, điều kiện tự nhiên giống nhau đến mấy cũng không rõ
ràng bằng nhà nước đó dựa vào nô lệ hay nông dân công xã là lực lượng chính lao
động để làm ra của cải vật chất. Theo tôi đó là cái thước đo xem nhà nước cổ đại
này thuộc các quốc gia cổ đại phương đông hay phương tây
4. So sánh nền văn minh phương đông cổ đại và phương tây cổ đại về nghệ thuật
Bên cạnh các thành tựu khác như văn học, toán học, vật lý, y học, . ko thể ko kể
đến nghệ thuật Kiến trúc và điêu khắc của văn minh phương tây và phương đông
cổ đại Nói đến nghệ thuật là nói tới cái đẹp. Thông qua sự phát triển của nghệ thuật
chúng ta có thể hiểu được ngoài nhu cầu vật chất con người còn có nhu cầu hưởng
thụ về tinh thần, ngoài ra, thông qua nghệ thuật chúng ta còn có thể thấy được sự
phát triển của khoa học kỹ thuật và sức sáng tạo kỳ diệu của con người qua từng


giai đoạn lịch sử
4.1.Phương đông
Ktruc cổ của các nước phương Đông có đặc điểm là thường gắn với tôn giáo,
người pđ rất trọng tâm linh nên họ thường tập trung của cải, sức lực để xây dựng
các đền tháp đồ sộ để mời các vị thần về, cầu mong các thần phù hộ. Do đó, ở
Phương Đông nhiều công trình mang tính chất tôn giáo đã ra đời và dựng lên ở hầu
khắp các nước một tấm thảm nghệ thuật vô cùng đa dạng và huyền bí . Từ những
tác phẩm nhỏ bé và tinh xảo tới những công trình khổng lồ , vừa mang nét thiêng

liêng phồn thịnh của nền mỹ thuật Ấn Độ lại có những tác phẩm mang vẻ đẹp tinh
vi óng chuốt của phong cách siêu quán Trung Hoa .
Có thể nói, trong quá trình phát triển văn minh, người Phương Đông nói chung và
người Ai Cập cổ đại nói riêng đã tạo ra những di sản văn hóa cực kỳ quý báu và đồ
sộ trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là kiến trúc Ai Cập cổ đại đã đạt tới một trình
độ rất cao. Kiến trúc Ai Cập cổ đại chủ yếu là các đền đài tôn giáo với các cấu trúc
khổng lồ và sự thần bí của không gian, được xác định bởi các bờ tường dày và dốc
với ít lỗ mở. Các công trình kiến trúc tiêu biểu là cung điện, đền miếu và đặc biệt
là Kim tự tháp. Nói đến Ai Cập người ta nghĩ ngay đến những Kim tự tháp đứng
sừng sững giữa sa mạc mênh mông. Chúng như những tấm bia khổng lồ ghi lại
một thời đại huy hoàng trong lịch sử kiến trúc nhân loại, thể hiện được sức sáng
tạo kỳ diệu của những người xây dựng nên nó. Bằng bàn tay và khối óc của mình,
người dân Ai Cập cổ đại đã để lại cho nền văn minh nhân loại những giá trị nghệ
thuật kiến trúc vô giá.
Bên cạnh những giá trị về mặt kiến trúc, Nghệ thuật điêu khắc của Ai Cập cũng có
nhiều thành tựu lớn, thành tựu đó biểu hiện ở hai mặt: tượng và phù điêu. độc đáo
nhất trong lĩnh vực điêu khắc của Ai Cập cổ đại là tượng Xphanh khổng lồ: gọi là
nhân sư, là những bức tượng mình sư tử, đầu người hoặc dê. Đây là một quái vật


huyền thoại của người Ai Cập, thể hiện sức sáng tạo kỳ diệu của người dân Ai cập
cổ xưa.
Ngoài những công trình lớn nêu trên, mỹ thuật Ai Cập Cổ đại còn đạt tới trình độ
hoàn hảo, trong các tranh tượng vừa và nhỏ, theo phong cách tả thực rất tinh vi và
đặc sắc trong đó kết hợp chặt chẽ giữa điêu khắc và hội họa . Các tác phẩm tiêu
biểu như : Tượng đá vôi màu ; Viên thư lại ngồi ,tượng gỗ Cheikh e Beled là tượng
gỗ vào loai đẹp và cổ nhất Ai Cập còn lưu lại đến ngày nay. Phù điêu đá vôi
Tigrane Pacha . tượng đồng Reine Karomama . Đặc biệt bức phù điêu tuyệt đẹp
trên đá tô màu Seti I và Nữ Thần Hathor
Nằm ở khu vực Tây Á, Lưỡng Hà cổ đại thuộc vùng đất nằm trong lãnh thổ hai

nước Irắc vàCoóet ngàynay.Đất đai Lưỡng Hà được hai con sông Tigre và
Euphrate bồi đắp phù sa màu mỡ . Ở đây đã có một nền nghệ thuật phát triển rất
cao, nhưng do điều kiện địa lý, họ đã phải dùng nhiều vật liệu không bền như gạch
không nung trong kiến trúc, nên nhiều công trình bị động đất và thời gian tàn phá.
Thời cổ đại, các công trình kiến trúc chủ yếu là tháp, cung điện, đền miếu, thành,
vườn hoa, . Nổi lên trên quần thể kiến trúc: thành, cung điện là vườn treo
Babilon.Toàn bộ vườn treo thực chất là một vườn hoa được tạo dựng trên không,
được xây dựng vào cuối thế kỷ VII, đầu thế kỷ VI (TCN). Đây là công trình kiến
trúc, là chứng tích cho một huyền thoại về tình yêu cuồng nhiệt của những vị vua,
hoàng hậu, và công chúa xinh đẹp xứ Mađi.
Nghệ thuật điêu khắc gồm tượng và phù điêu . Những tác phẩm tương đối tiêu biểu
là  bia diều hâu (2800 Tr.CN) được tạc để kỷ niệm chiến thắng của Vua thành
Lagash , bia Naram Sin ( khoảng 2700 Tr.CN , Bảo tàng Louwre) bia này làm bằng
sa thạch đỏ cao 2 mét nay còn nguyên vẹn , vốn là để kỉ niệm chiến thắng của vua
Naram Sin . các tượng Vua Goudea (2400Tr.CN) là đỉnh cao của nghệ thuật Sumer
và Akkad với phong cách dứt khoát và mạnh mẽ . Ngoài ra ta còn biết tài hoa của
các nghệ sỹ qua Con dấu trục , Cột đá naramxin, bia điều luật Hamourabi, phù


điêu Sư tử cái bị thương các tượng thần Atxiri
Ấn Độ là nơi có nền nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ, ảnh hưởng tới nhiều
nước Đông Nam Á. ấn Độ là mảnh đất màu mỡ để nuôi dưỡng những tôn giáo du
nhập vào nơi đây vì vạy Nghệ thuật Ấn Độ cổ đại hầu hết đều phục vụ một tôn
giáo nhất định, do yêu cầu của tôn giáo đó mà thể hiện. Có thể chia ra ba dòng
nghệ thuật: Hinđu giáo, Phật giáo, Hồi giáo.Trong đó, Đạo Hồi đươc nhắc tới trước
tiên bởi vì Đạo Hồi không chỉ du nhập vào ấn Độ mà nó còn dần trở thành quốc
giáo của mảnh đất này.
Vì vậy ở ấn Độ, những công trình kiến trúc Hồi Giáo xuất hiện với vẻ đẹp lộng lẫy,
nguy nga, tráng lệ và trường tồn với dòng chảy của thời gian cũng như trong niềm
tự hào của những tín đồ Đạo Hồi. Đặc biệt, bên ngoài vẻ đẹp hoành tráng của kiến

trúc, thánh đường Hồi Giáo còn ẩn chứa nhiều nét đẹp văn hoá của người Hồi
Giáo, đó cũng là những giá trị tinh thần cao quý nhất.
Có rất nhiều chùa tháp Phật giáo, nhưng đáng kể đầu tiên là dãy chùa hang Ajanta
ở miền trung Ấn Độ. Từ một dải núi đá khổng lồ, người Ấn Độ cổ đại đã đục đẽo,
chạm khắc tạo nên những công trình kiến trúc với tầm vóc kỳ vĩ cùng sự tỉ mỉ, tinh
tế trong từng chi tiết. Đây là dãy chùa được đục vào vách núi, có tới 29 gian chùa,
các gian chùa thường hình vuông và nhiều gian mỗi cạnh tới 20m. Trên vách hang
có những bức tượng Phật và nhiều bích hoạ rất đẹp. Tư tưởng Phật Giáo hòa quyện
một cách tự nhiên giữa thế giới thánh thần và đời sống con người. Trong 16 ngôi
chùa hang có nhiều tranh vẽ bằng màu đỏ, xanh lá cây, xanh lam trên nền đá cẩm
thạch, mô tả sinh động những điển tích Phật giáo. Đó là những tác phẩm mỹ thuật
vừa lộng lẫy vừa uy linh Những chùa hang ở Ajanta do bàn tay con người tạo nên
bằng đá và khổng lồ như núi lớn, trong đó là cả một kho báu khổng lồ vô giá,
không chỉ là nghệ thuật, mà còn là lịch sử, là dân tộc học, là xã hội học, là tôn giáo
học .
Nghệ thuật Trung quốc phát triển theo hai hướng tạo thành hai cách mĩ cảm


- Hướng trau chốt nghệ thuật cầu kì đến mức điêu luyện, được gọi là hướng  khắc
vàng vẽ nét, chạm trổ loá mắt .
- hướng bieu hiện nghệ thuật theo cái đẹp tự nhiên, chân chất, mộc mạc ,nhưng
sâu xa, ý vị . Người Trung quốc gọi hướng này là khai thác cái đẹp Phù dung mới
nhú, tự nhiên đáng yêu .
Hai hướng nghệ thuật này đã chi phối toàn bộ sáng tạo nghệ thuật Trung quốc .
Thành tựu hội hoạ Trung quốc :
Hội hoạ Trung quốc phát triển rất sớm, gắn với lối viết thao hình vẽ chữ tượng
hình . Từ cơ sở này , dẫn tới nguyên tắc  thư hoạ đồng nguyên, và đẻ ra thư
pháp ( viết chữ đẹp như vẽ ), đó cũng là kiểu chơi tài hoa trên nét bút .
Bức hoạ trên lụa đầu tiên tìm thấy vào thời Chu (1200-900 năm trước công lịch ,
tức là trước thời Hán mất thế kỷ ), bức hoạ này thể hiện cuộc đấu tranh giữa thiện

và ác đã được tìm thấy ở một ngôi mộ cổ .
Vẽ kỹ thuật biểu hiện : Hội hoạ Phương Tây rất phong phú về đề tài và chủ đề, vì
nó thiên về hiện thực . Ngay tranh tôn giáo cũng biết bao nhiêu cảnh : Chúa trời tạo
Ađam  Êva .Ađam Êva phạm tội, Giêsu sinh ra trong máng cỏ , Ông Gioăng
Batixita bị vua Hêrôđơ Ăngtipát sai người chém đầu đặt lên đĩa,v.v
Hội hoạ Trung Hoa truyền thống khác hẳn , đề tài và chủ đề rất chung, trừu tượng,
ước lệ; hướng tới một phẩm chất , chứ không phải một hiện tượng , một vấn đề . Vì
thế, tranh Trung quốc đều hướng tới sự giản dị, bình thản , tao nhã ,trang trọng,
thanh tú , thuần hậu v.v Nói chung họ mượn cảnh để nói tình, vì thế không quá câu
nệ vào các chi tiết, hoặc các biến cố khách quan . Đặc điểm trên đã chi phối cả
hình hoạ lẫn lối sử dụng màu sắc và ánh sáng, bố cục .
Rõ ràng , tranh Trung hoa không vẽ cái đang chuyển động trước mắt . Trong số
muôn vàn sự vật đang biến đổi, hoạ sỹ Trung hoa chỉ muốn thâu lấy một vài trạng
thái vĩnh cửu, một đặc điểm cơ bản của hiện tượng để người xem có thể mở tâm
hồn mà đưa mình vào cõi mộng . Cũng có hoạ sỹ vẽ tỉ mỉ từng cảnh vật , tỉa tót rất


kỹ từng bụi cây, cành lá  Thực để nói cái Hư, vẫn không ngoài dụng ý dắt dẫn
người xem dò lần từng bước, vượt suối, băng đèo, cheo leo bên sườn núi lên tít
trên cao, ẩn mình nơi chùa cổ, hoà mình vào tận cảnh sơn lâm, thuỷ tận .
Với lối vẽ như vậy , thì cái nhìn của hội hoạ Trung Hoa đã không bị lệ thuộc vào
luật viễn cận , mà bố cục theo phép  lên cao, thấy xa ,  lấy lớn , thấy nhỏ,
Người ta còn gọi lối bố cục này là lối  bố cục theo cảm nhận trực giác .
4.2. Phương Tây
Nếu như đối với Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại, nghệ thuật thể hiện cái đẹp rất đặc
trưng của văn hóa Phương Đông thì khi nghiên cứu về nghệ thuật Phương Tây cổ
đại, trừ giai đoạn đầu có chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Phương Đông, người học
không khỏi ngạc nhiên trước những nét đẹp mang đậm màu sắc Tôn giáo của
Phương Tây, nét đẹp đó thể hiện qua ba mặt chủ yếu là kiến trúc, điêu khắc và hội
hoạ.

4.2.1. Hy Lạp
4.2.1.1.Kiến trúc
Kiến trúc Hy Lạp cổ đại và điêu khắc của nền văn minh Hy Lạp phát triển rực rỡ
và để lại dấu ấn sâu sắc hơn cả. Những công trình điêu khắc Hy Lạp cổ thời gian
đầu chịu ảnh hưởng của trường phái nghệ thuật phương Đông. Nhưng nghệ thuật
tạo hình và điêu khắc đạt đến đỉnh cao là ở thời kỳ Hy Lạp hóa (thế kỷ V đến thế
kỷ IV trước Công nguyên). Nhiều công trình được sáng tạo bởi Polygnotus,
Myron, Phidias. Tác phẩm Tượng thần Athena và Marsyas (tại Vườn Bách thảo
của Copenhagen) được sáng tác bởi Myron. Kiến trúc và điêu khắc Hy Lạp cổ
thường đi song hành bên nhau, những giá trị lớn tập trung tại các công trình kiến
trúc lớn, những bức tranh tường, những bức tượng lớn trong một đại sảnh là hình
ảnh thường gặp ở Athena. Nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc của Hy Lạp cổ đại đã


có tác dụng kinh điển và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nền nghệ thuật của nhiều
quốc gia từ cổ đại cho đến ngày nay.
Mặc dù kế thừa những thành tựu nghệ thuật của Ai Cập và Lưỡng Hà nhưng ngwời
Hi Lạp đã sáng tạo và phát triển một cách mạnh mẽ phong cách nghệ thuật riêng
biệt của mình, tạo ra những giá trị nghệ thuật đạt mức điêu luyện. Trong lĩnh vực
kiến trúc, người Hi Lạp đã tạo ra những công trình kiến trúc bất hủ với thời gian.
Công trình kiến trúc đẹp nhất của Hi Lạp là đền Parthenon. Đây được xem là kiệt
tác về kiến trúc và là biểu tượng của kiến trúc Hi Lạp cổ. Người xây dựng nên
công trình này là là kiến trúc sư Ictinus dưới sự hướng dẫn của nhà điêu khắc thiên
tài Phidias.
Toàn bộ đền được xây bằng đá trắng, xung quanh là dãy cột đã cẩm thạch hình tròn
được chạm khắc tinh vi. Công trình thể hiện tài năng của một bậc thầy xuất chúng
về kiến trúc và điêu khắc. Kiệt tác này được giữ nguyên vẹn suốt 2000 năm, đến
1697 mới bị chiến tranh tàn phá.
Trong nghệ thuật kiến trúc của Hi Lạp, người ta dễ dàng nhận thấy nổi bật lên lối
kiến trúc cột. Kiến trúc cột là cách người Hi Lạp tìm kiếm vẻ đẹp lý tưởng trong

nghệ thuật kiến trúc. Những thức cột Hy Lạp đã mang đến cho kiến trúc một hình
thức, một sức sống, chịu đựng được thử thách của thời gian, biểu trưng cho vẻ đẹp
trong sáng, khỏe mạnh và tinh tế của kiến trúc cổ điển. Có 3 loại thức cột cơ bản
trong kiến trúc Hy Lạp: cột Doric, cột Ionic và cột Corinth. Thức cột Hy Lạp được
xem như biểu tượng của kiến trúc cổ điển.
Công trình tiêu biểu: quần thể Aropolis ở Athens, trong đó có đền Pathernon.
Mãi đến thời đế chế, nghệ thuật La Mã mới có điều kiện phát triển mang tính chất
riêng biệt và phản ánh đúng bản sắc nghệ thuật dân tộc. Mặc dù chịu ảnh hưởng
nhất định của nghệ thuật Hi Lạp nhưng người La Mã cũng đã tạo ra những công
trình mang đậm bản sắc riêng của mình với số lượng và quy mô vượt trội.
4.2.1.2.Kiến trúc La Mã mang tính chất thực dụng, bề thế và đồ sộ. Khi thiết kế


những công trình kiến trúc, người La Mã chú ý đến tính năng sử dụng của nó hơn
là sự hài hòa, cân đối giữa công trình với môi trường xung quanh. Những đường
nét uốn lượn thay bằng những nét sổ thẳng hình học, vóc dáng các công trình đơn
điệu, nặng nề nhưng vững chắc.
Ba công trình tiêu biểu cho nghệ thuật và nếp sống của người La Mã là đấu trường
Colosseum, nhà tắm Caracalla và đền thờ Pantheon.
Kiến trúc của đấu trường Colosseum biểu hiện cho sự hùng cường và vĩ đại của đế
chế La Mã triều đại Flavius. Công trình được xây dựng trong suốt 8 năm, chu vi
524m, bao gồm nhiều tầng với vật liệu chủ yếu là đá cẩm thạch. Theo tính toán
hiện nay, đấu trường chứa được khoảng 45.000 đến 50.000 người. do sự hủy hoại
cuả thiên nhiên và con người, công trình hiện nay chỉ còn khoảng một phần ba.
Caracalla là một công trình nhà tắm công cộng được hoàn thành dưới thời hoàng
đế Alexander năm 235 với tổng diện tích lên đến 14.000 hecta. Đây không chỉ đơn
thuần là nơi giải trí mà còn là một công trình văn hóa với các thư viện và phòng
đọc sách, được trang bị các khu thi đấu thể thao, nghỉ dưỡng, nhà hàng ăn, phòng
trưng bày nghệ thuật Đây là một sự tiến bộ không chỉ về nghệ thuật mà còn là sự
văn minh trong đời sống văn hóa của người La Mã.

Đền Pantheon được xây dựng dưới thời hoàng đế Agustus. Công trình bị hủy hoại
sau hai trận hỏa hoạn và được xây dựng lại vào thời hoàng đế Hadrian (117-138)
sau đó được chuyển thành nhà thờ Công giáo.
Điêu khắc
Cùng với nghệ thuật kiến trúc với những công trình đã trở thành kiệt tác của nhân
loại, nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp cũng được xem là những giá trị có một không hai
trong nền nghệ thuật thế giới. Hai nhà điêu khắc vĩ đại nhất của Hi Lạp là Praxitele
và Scopas ở thế kỉ IV TCN. Tượng thần Hermes và thần Aphrodite (thần vệ nữ Venus), được xem là những mẫu mực của nghệ thuật điêu khắc cổ đại, thể hiện vẻ
đẹp hoàn hảo của nam và nữ. Cho đến ngày nay, với một nền nghệ thuật hiện đại,