Từ Bắc vào Nam dài bao nhiêu km

Khoảng cách từ Hà Nội đến Sài Gòn là bao xa? Câu hỏi mà rất nhiều người dân Việt Nam đang trăn trở khi chưa biết được thông tin chính xác. Ngày hôm nay mời bạn cùng Hanoi1000 tìm hiểu thật kỹ khoảng cách các cung đường từ Hà Nội đến Sài Gòn nhé.

Nếu như Hà Nội là trung tâm kinh tế – văn hóa của khu vực phía Bắc thì Thành phố Hồ Chí Minh hay thường gọi là Sài Gòn là khu vực trung tâm của các tỉnh phía Nam. Vì nhiều lý do như công việc, gia đình,… mà nhiều người thường xuyên phải di chuyển qua lại giữa Hà Nội và Sài Gòn nhưng họ cũng không biết chính xác Hà Nội cách Sài Gòn bao nhiêu cây số?

Khoảng cách Hà Nội Sài Gòn

Khoảng cách Hà Nội Sài Gòn bao nhiêu km?

Tùy thuộc vào phương tiện di chuyển mà khoảng cách chính xác giữa hai thành phố có thể khác nhau. Từ Hà Nội mà muốn đến thành phố Hồ Chí Minh có rất nhiều phương tiện giao thông để lựa chọn như: Ô tô con, ô tô khách, xe máy,… nói chung là đường bộ; tàu hỏa – đường sắt, tàu thủy – đường biển hoặc máy bay – đường hàng không, đây là cách được mọi người lựa chọn nhiều nhất. Vậy thì khoảng cách Hà Nội Sài Gòn bao nhiêu km nhỉ?

Khoảng cách Hà Nội Sài Gòn đường không

Di chuyển từ Hà Nội đến Sài Gòn bằng đường hàng không có khoảng cách ngắn nhất và đỡ tốn thời gian nhất trong tất cả đường giao thông. Theo như thống kê của Cục Hàng Không Việt Nam, đường bay Bắc Nam qua không phận của hai nước láng giềng là Lào và Campuchia có tổng chiều dài chính xác là 1190 km với khoảng thời gian tầm 1 tiếng 50 phút. Đây là cung đường bay được tất cả các hãng hàng không như Vietnam Airlines, Bamboo Airway, Vietjet, Jestar lựa chọn vì khoảng cách ngắn nhất, thời gian bay nhanh nhất.

Đi máy bay từ Hà Nội vào Sài Gòn chỉ mất khoảng 1 tiếng 50 phút

Trước đây, khi chưa mở đường bay qua không phận Lào và Campuchia thì tổng chiều dài đường bay Hà Nội Sài Gòn là 1276 km dài hơn 86 cây số gây tốn nhiều chi phí về nhiên liệu hơn cho các hãng hàng không. Như vậy một phần nào chúng ta đã biết được Hà Nội cách Sài Gòn bao nhiêu km.

Tuyến đường ngắn nhất nối giữa Hà Nội – Sài Gòn

Khoảng cách Hà Nội Sài Gòn đường bộ

Theo như thống kê chính xác của Wikipedia Việt Nam thì nếu di chuyển bằng đường bộ từ trung tâm thủ đô Hà Nội đến trung tâm Sài Gòn là 1726 km.

Tuyến đường thứ nhất chúng ta có thể đi bằng ô tô hay xe máy là qua Quốc lộ 1A. Từ nội thành thủ đô ta di chuyển theo hướng tây nam, qua cầu vượt Ngã Tư Sở, đi thẳng tiếp đường Nguyễn Trãi.

Cứ tiếp tục đi theo hướng đường cao tốc Hà Nội – Ninh Bình. Khi đã hết đường cao tốc, nhập vào tuyến quốc lộ 1A qua các tỉnh miền trung như Thanh Hóa, Nghệ An, Huế,… đến thành phố Đà Nẵng. Tại đây bạn sẽ đi vào đường Quốc lộ 14 đến thẳng tỉnh Bình Phước. Nối tiếp là Quốc lộ 22, cứ đi thẳng Quốc lộ 22 là đến Sài Gòn.

Tuyến đường Quốc Lộ 1A, các chuyến xe chạy từ Bắc và Nam đều đi qua cung đường này

Tuyến đường thứ hai là qua đường Hồ Chí Minh. Tương tự như tuyến đường thứ nhất, di chuyển từ trung tâm thành phố đến đường Nguyễn Trãi nhưng tại đây rẽ trái vào đường Yên Sơn, đi một quãng thì rẽ phải vào đường Hồ Chí Minh. Cứ bon bon đi thẳng đến tận tỉnh Bình Phước. Từ đó đi vào Quốc lộ 14 rồi Quốc lộ 22 là đến nơi chúng ta cần đến.

Hoặc cũng có thể lựa chọn cung đường Hồ Chí Minh để đi từ Hà Nội vào TPHCM

Khoảng cách Hà Nội Sài Gòn đường sắt

Nếu chọn tàu hỏa là phương tiện giúp chúng ta di chuyển từ Hà Nội đến Sài Gòn thì chỉ có đúng một tuyến đường duy nhất là tuyến đường sắt Bắc Nam hay còn được gọi là đường sắt Thống Nhất. Bắt đầu từ thủ đô Hà Nội và điểm cuối là Sài Gòn.

Tuyến đường sắt này đã được người Pháp xây dựng từ thế kỷ XX, trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử nhưng được tu sửa, cải tiến nhiều lần. Đến nay, tuyến đường sắt này vẫn còn hoạt động, Hiện nay trên tàu cũng được trang bị hệ thống điều hòa, ghế đệm, giường tầng, … rất hiện đại, sạch sẽ  đáp ứng được nhiều nhu cầu khác nhau của hành khách.

Đường sắt Hà Nội Sài Gòn bao nhiêu km? Chắc hẳn đây là câu hỏi mà ai cũng thắc mắc nhất khi biết đến tuyến đường Bắc – Nam. Tổng chiều dài của cả tuyến đường chính xác là 1730km, có chiều rộng 1 m.

Nếu đi từ ga Hà Nội vào đến ga Sài Gòn, khoảng cách sẽ là 1730km

Tuyến đường sắt này trải dài từ Bắc đến Nam, gần như là song song với Quốc lộ 1A đã kể trên, đi qua rất nhiều tỉnh thành dọc chiều dài tổ quốc đó là: Hà Nội, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận Đồng Nai, Bình Dương, Sài Gòn.

Một điều thú vị hơn nữa là, tháng 7 năm 2019, tuyến đường sắt Bắc – Nam của Việt Nam được bầu chọn vào top 10 tuyến đường sắt đẹp nhất thế giới vì đi qua nhiều địa điểm du lịch đẹp như Huế, Đà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hòa,…Giá vé tàu chuyến Hà Nội – Sài Gòn rất phải chăng, trung bình từ 700.000 – 1.000.000 đồng/ lượt tùy vào loại ghế bạn chọn.

Tuyến tàu Bắc – Nam đi qua eo biển Lăng Cô thơ mộng

Mặc dù khoảng cách Hà Nội – Sài Gòn gần 2000km nhưng chúng ta có rất nhiều cách để di chuyển giữa hai thành phố với chi phí không quá đắt đỏ. Tùy theo sở thích, tính cách, sức khỏe, thời gian mà bạn có thể lựa chọn một trong những cách kể trên.

Hi vọng một vài thông tin trong bài viết này đã trả lời được các câu hỏi cơ bản khi tìm hiểu về cung đường Bắc – Nam này như: Khoảng cách Hà Nội Sài Gòn bao nhiêu km? Khoảng cách Hà Nội Sài Gòn đường không? Khoảng cách Hà Nội Sài Gòn đường bộ? Khoảng cách Hà Nội Sài Gòn đường sắt?

  • lý thuyết
  • trắc nghiệm
  • hỏi đáp
  • bài tập sgk

chiều dài từ Bắc vào Nam là bao nhiêu km nơi hẹp nhất ở nước ta là bao nhiêu km ở đâu

Các câu hỏi tương tự

Địa lý Việt Nam là các đặc điểm địa lý của nước Việt Nam, một quốc gia nằm ở rìa phía đông bán đảo Đông Dương, trung tâm khu vực Đông Nam Á. Diện tích Việt Nam là 331.212 km². Biên giới Việt Nam trên đất liền dài 4.639 km, giáp với vịnh Thái Lan ở phía tây nam, vịnh Bắc Bộ và biển Đông ở phía đông, Trung Quốc ở phía bắc, Lào và Campuchia ở phía tây. Hình dáng Việt Nam trên bản đồ có dạng hình chữ S, khoảng cách từ bắc tới nam (theo đường chim bay) là 1.650 km và vị trí hẹp nhất theo chiều đông sang tây nằm ở Đồng Hới (Quảng Bình) với chưa đầy 50 km. Đường bờ biển dài 3.260 km không kể các đảo. Ngoài vùng nội thủy, Việt Nam tuyên bố 12 hải lý lãnh hải, thêm 12 hải lý vùng tiếp giáp lãnh hải, 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế và cuối cùng là thềm lục địa. Vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam chiếm diện tích khoảng 1.000.000 km² biển Đông.[1]

Từ Bắc vào Nam dài bao nhiêu km
Địa lý Việt NamLục địaChâu ÁVùngĐông Nam ÁTọa độ16°00′N 108°00′EDiện tíchXếp hạng thứ 65 • Tổng số331.212 km2 (127.882 dặm vuông Anh) • Đất93,62% • Nước6,38%Đường bờ biển3.444 km (2.140 mi)Biên giới4.639 km (2.883 mi)Điểm cao nhấtFansipan
3.144 mét (10.315 ft)Điểm thấp nhấtBiển Đông
0 mét (0 ft)Sông dài nhấtSông Đồng Nai (sông nội địa dài nhất)
586 kilômét (364 mi)Hồ lớn nhất- Hồ Ba Bể (hồ tự nhiên): 6,5 km²
- Hồ Trị An (hồ nhân tạo): 323 km²Vùng đặc quyền kinh tế417,663 km2 (161,261 dặm vuông Anh)

Việt Nam là một quốc gia nhiệt đới với địa hình phần lớn là đồi núi (chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ), chủ yếu là đồi núi thấp, đồng bằng chỉ chiếm 1/4 diện tích. Tính trên phạm vi cả nước, địa hình đồng bằng và đồi núi thấp (dưới 1.000 m) chiếm tới 85% diện tích. Địa hình núi cao (trên 2.000 m) chỉ chiếm 1% diện tích cả nước. Cấu trúc địa hình khá đa dạng nhờ vận động Tân kiến tạo làm trẻ lại, tạo nên sự phân bậc rõ rệt theo độ cao, thấp dần từ tây bắc xuống đông nam. Đất đai có thể dùng cho nông nghiệp chiếm chưa tới 20%. Đất nước bị chia thành miền núi, vùng đồng bằng sông Hồng ở phía bắc; dãy Trường Sơn, Tây Nguyên, đồng bằng duyên hải miền trung, và đồng bằng sông Cửu Long ở phía nam.

 

Phân chia đồng bằng và vùng miền Việt Nam

Những vùng đồng bằng thấp và phẳng ven biển trải dài từ phía nam đồng bằng sông Hồng tới châu thổ sông Cửu Long. Ở phía đất liền, dãy Trường Sơn mọc dựng đứng trên bờ biển, các mũi của nó ở nhiều chỗ chạy xiên ra biển. Nói chung mảnh đất ven biển khá màu mỡ và được canh tác dày đặc.

Biển Đông là một vùng biển lớn, tương đối kín, thể hiện rõ tính chất nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á. Biển Đông rộng gấp nhiều lần phần đất liền và có giá trị to lớn về nhiều mặt. Cần phải có kế hoạch khai thác và bảo vệ biển tốt hơn để góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đồng bằng Sông Cửu Long

 

Cánh đồng lúa ở Cái Mơn, Bến Tre

Vùng đồng bằng sông Cửu Long là vùng cực nam của Việt Nam, còn được gọi là Vùng đồng bằng sông Mê Kông, Vùng đồng bằng Nam Bộ, Vùng Tây Nam Bộ, Cửu Long hoặc theo cách gọi của người dân Việt Nam ngắn gọn là Miền Tây, có 1 thành phố trực thuộc trung ương là thành phố Cần Thơ và 12 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2019, Đồng bằng sông Cửu Long là đồng bằng có tổng diện tích các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lớn nhất Việt Nam (40.547,2 km2 và có tổng dân số toàn vùng là 17.273.630 người. Đồng bằng sông Cửu Long chỉ chiếm 13% diện tích cả nước nhưng chiếm gần 18% dân số cả nước, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn cả nước (năm 2015 tăng 7,8% trong khi cả nước tăng 6,8%). Chỉ riêng lúa đã chiếm 47% diện tích và 56% sản lượng lúa cả nước; xuất khẩu gạo từ toàn vùng chiếm tới 90% sản lượng. Chưa kể thủy sản chiếm 70% diện tích, 40% sản lượng và 60% xuất khẩu cả nước,... Tuy nhiên, Đồng bằng sông Cửu Long đứng về phương diện thu nhập vẫn còn nghèo hơn cả nước: thu nhập bình quân đầu người với mức 40,2 triệu đồng (cả nước là 47,9 triệu đồng/người/năm).

Sông Hồng

 

Châu thổ sông Hồng nhìn từ Vệ tinh

Sông Hồng, bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, dài khoảng 1.200 km. Hai hợp lưu là sông Lô và sông Đà cùng góp phần vào lưu lượng hàng năm trung bình lên tới 3.000 mét khối mỗi giây. Con số này có thể tăng lên gấp 60 lần vào mùa mưa. Vùng châu thổ dựa lưng vào vùng trung du và thượng du núi non. Cao độ của vùng châu thổ chỉ khoảng hơn ba mét so với mực nước biển, thậm chí đa phần chỉ là một mét hay còn thấp hơn nữa. Vì là đất thấp nên châu thổ hay bị lũ lụt; ở một số nơi mức nước lụt đã từng dâng ngập làng mạc dưới 14 mét nước. Qua nhiều thế kỷ, việc phòng lụt đã trở thành một công việc gắn liền với văn hóa và kinh tế của vùng. Hệ thống đê điều và kênh mương rộng lớn đã được xây dựng để chứa nước sông Hồng và để tưới tiêu cho vùng châu thổ giàu lúa gạo này cùng để tháo nước khi bị lụt. Hệ thống này sau nhiều thế hệ đã góp phần duy trì mật độ dân số cao ở đồng bằng sông Hồng và làm tăng gấp đôi diện tích có thể canh tác lúa nước ở đây.

Trung du và miền núi

Phía Đông Bắc, Tây Bắc và Tây Việt Nam là vùng miền núi và trung du bao gồm nhiều dãy núi, khối núi, cao nguyên và các đồi. Đây là nơi sinh sống của nhiều nhóm dân tộc thiểu số. Dãy núi lớn ở đây là Hoàng Liên Sơn ở miền Bắc và Trường Sơn ở miền Trung. Nhiều ngọn núi có độ cao trên 2.000 mét, trong đó Fansipan là ngọn cao nhất, lên tới 3.143 mét. Ở vùng Đông Bắc và miền Trung, nhiều dãy núi chạy ra biển, tạo thành những cảnh quan tự nhiên tráng lệ, hùng vĩ.

Đồng bằng sông Hồng có hình tam giác với diện tích 15.000 km vuông, hơi nhỏ hơn nhưng lại đông dân hơn đồng bằng sông Cửu Long. Thời trước nó là một vịnh nhỏ của vịnh Bắc Bộ, dần dần được bồi đắp nhờ khối lượng phù sa lắng đọng khổng lồ của các con sông thuộc hệ thống sông Hồng và hệ thống sông Thái Bình, qua hàng nghìn năm khiến mỗi năm lấn thêm ra biển khoảng một trăm mét. Đây là nơi sinh sống của tổ tiên người Việt. Trước năm 1975, đồng bằng sông Hồng chiếm 70% sản lượng nông nghiệp và 80% sản lượng công nghiệp miền bắc Việt Nam.

Đồng bằng sông Cửu Long, với diện tích 40.000 km2, là một đồng bằng thấp. Mọi vị trí trên đồng bằng này không cao hơn 3 mét so với mực nước biển. Đồng bằng bị chia cắt dọc ngang bởi nhiều con kênh và các con sông. Con sông mang nặng phù sa trên mọi nhánh chằng chịt của nó làm cho đồng bằng hàng năm tiến thêm về phía biển 60 đến 80 mét. Các con sông bồi đắp nên đồng bằng này thuộc hệ thống sông Cửu Long và hệ thống sông Đồng Nai. Một nguồn thông tin chính thức của Việt Nam ước tính rằng khối lượng phù sa lắng động hàng năm là khoảng 1 tỷ mét khối, hay gần gấp 13 lần khối lượng phù sa lắng đọng của sông Hồng. Khoảng 10.000 km2 đồng bằng hiện được dùng cho canh tác lúa gạo, biến đây trở thành một trong những vùng sản xuất lúa gạo lớn trên thế giới. Mũi phía nam, được gọi là mũi Cà Mau, hay mũi Bãi Bung, là nơi có mật độ rừng rậm cao và các đầm lầy đước.

Lãnh thổ Việt Nam phần trên đất liền gồm ba miền tự nhiên (có những đặc điểm địa hình, động thực vật, khí hậu chung trong miền), đó là: Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ; Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ; Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ.

  • Miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ là miền nằm phía Bắc của sông Hồng và tới tận phía Nam của tỉnh Ninh Bình. Miền này lại được chia thành ba khu tự nhiên là khu Việt Bắc, khu Đông Bắc và khu đồng bằng Bắc Bộ.

Đặc điểm cơ bản của vùng này là: có quan hệ mật thiết với lục địa Hoa Nam (Trung Quốc) về mặt địa chất - kiến tạo và chịu ảnh hưởng mạnh nhất của gió mùa Đông Bắc.

Địa hình chủ yếu là đồi núi thấp với độ cao trung bình 600 m. Hướng vòng cung của các dãy núi và các thung lũng sông là nét nổi bật trong cấu trúc sơn văn của miền. Địa hình karst khá phổ biến. Hướng nghiêng chung là tây bắc - đông nam với các bề mặt địa hình thấp dần ra biển và sự hợp lưu của các dòng sông lớn khiến cho đồng bằng mở rộng.

Địa hình bờ biển đa dạng: nơi thấp phẳng, nơi nhiều vịnh, đảo, quần đảo. Vùng biển nông, tuy nhiên vẫn có vịnh nước sâu thuận lợi cho phát triển kinh tế biển.

Tài nguyên khoáng sản: giàu than, sắt, thiếc, wolfram, chì, bạc, kẽm, vật liệu xây dựng,... Vùng thềm lục địa Bắc Bộ có bể dầu khí sông Hồng.

Sự xâm nhập mạnh của gió mùa Đông Bắc tạo nên một mùa đông lạnh. Đặc điểm này được thể hiện ở sự hạ thấp đai cao cận nhiệt đới (có nhiều loài cây phương Bắc) và sự thay đổi cảnh quan thiên nhiên theo mùa.

Sự bất thường của nhịp điệu mùa khí hậu, của dòng chảy sông ngòi và tính bất ổn cao của thời tiết là những trở ngại lớn của vùng.

  • Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ là phần phía Nam của sông Hồng tới phía Bắc dãy núi Bạch Mã. Miền này cũng chia làm ba khu, gồm khu Hoàng Liên Sơn, khu Tây Bắc và khu Hòa Bình - vùng Bắc Trung Bộ.
  • Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ có giới hạn từ dãy núi Bạch Mã trở vào Nam. Miền này có cấu trúc địa chất - địa hình khá phức tạp, gồm các khối núi cổ, các sơn nguyên bóc mòn và các cao nguyên bazan, đồng bằng châu thổ rộng lớn ở Nam Bộ và đồng bằng nhỏ hẹp ven biển Nam Trung Bộ.

Việt Nam được chia thành 3 miền và 8 vùng:

  • Bắc Bộ:
    • Tây Bắc Bộ
    • Đông Bắc Bộ
    • Đồng bằng sông Hồng

đôi khi 2 vùng Tây Bắc và Đông Bắc được gộp chung thành Trung du và miền núi phía Bắc

  • Trung Bộ:
    • Bắc Trung Bộ
    • Duyên hải Nam Trung Bộ
    • Tây Nguyên
  • Nam Bộ:
    • Đông Nam Bộ
    • Đồng bằng sông Cửu Long

 

Bão Lingling bên ngoài bờ biển Việt Nam năm 2001

Dọc theo lãnh thổ trải dài khí hậu Việt Nam phân bố thành 3 vùng: miền bắc có khí hậu cận nhiệt đới ẩm, miền trung mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, trong khi miền nam nằm trong vùng nhiệt đới xavan. Khí hậu Việt Nam có độ ẩm tương đối trung bình 84-100% cả năm. Tuy nhiên, vì có sự khác biệt về vĩ độ và sự khác biệt địa hình nên khí hậu có khuynh hướng khác biệt nhau khá rõ nét theo từng vùng. Trong mùa đông hay mùa khô, khoảng từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, gió mùa thường thổi từ phía đông bắc dọc theo bờ biển Trung Quốc, qua vịnh Bắc Bộ, luôn theo các thung lũng sông giữa các cánh cung núi ở Đông Bắc mang theo nhiều hơi ẩm; vì vậy ở đa số các vùng việc phân biệt mùa đông là mùa khô chỉ là khi đem nó so sánh với mùa mưa hay mùa hè. Trong thời gian gió mùa tây nam mùa hè, xảy ra từ tháng 5 đến tháng 10, không khí nóng từ sa mạc Gobi phát triển xa về phía bắc, khiến không khí ẩm từ biển tràn vào trong đất liền gây nên mưa nhiều.

Lượng mưa hàng năm ở mọi vùng đều lớn dao động từ 120 đến 300 cm và ở một số nơi có thể gây nên lũ. Gần 90% lượng mưa đổ xuống vào mùa hè. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở đồng bằng nói chung hơi cao hơn so với vùng núi và cao nguyên. Dao động nhiệt độ từ mức thấp nhất là 5°C từ tháng 12 đến tháng 1, tháng lạnh nhất, cho tới hơn 37 °C vào tháng 7, tháng nóng nhất. Sự phân chia mùa ở nửa phía bắc rõ rệt hơn nửa phía nam, nơi mà chỉ ngoại trừ vùng cao nguyên, nhiệt độ mùa chỉ chênh lệch vài độ, thường trong khoảng 21-28 °C.

Diện tích: 331.212 km²

  • Đất liền: khoảng 324.480 km²
  • Nội thủy: hơn 4.200 km²

Chiều dài đường biên giới trên đất liền: 4.639 km

  • Biên giới với các nước: Trung Quốc (1.449,566 km), Lào (2.067 km), Campuchia (1.137 km)

Đường bờ biển: 3.260 km (không tính các đảo)

Vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán:

  • Lãnh hải: 12 hải lý (22,2 km) từ đường cơ sở
  • Vùng tiếp giáp lãnh hải: 12 hải lý (22,2 km) từ lãnh hải
  • Vùng đặc quyền kinh tế: 200 hải lý (370,4 km) từ đường cơ sở
  • Thềm lục địa

Độ cao:

  • Điểm thấp nhất: mặt biển Đông (0 m)
  • Điểm cao nhất: đỉnh Fansipan (3.143 m)

Biên giới với Lào, được quy định dựa trên cơ sở dân tộc, giữa những vị vua cai trị Việt Nam và Lào vào giữa thế kỷ XVII, đã được định nghĩa chính thức bằng một hiệp ước phân định ranh giới ký kết năm 1977 và được phê chuẩn năm 1986. Biên giới với Campuchia, được xác định từ thời người Pháp sáp nhập vùng phía tây đồng bằng sông Cửu Long năm 1867, hiện hầu như vẫn không thay đổi nhiều. Theo Việt Nam, một số vấn đề biên giới còn tồn tại cuối cùng đã được giải quyết vào giai đoạn 1982-1985. Biên giới trên đất liền và trên biển với Trung Quốc, được phác ra theo những hiệp ước Pháp-Thanh năm 1887 và 1895, là "đường biên giới" mà Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đồng ý tôn trọng vào năm 1957-1958. Tuy nhiên, tháng 2 năm 1979, tiếp sau cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979, Việt Nam đã tuyên bố rằng từ năm 1957 trở về sau Trung Quốc đã gây ra nhiều vụ xung đột ở biên giới như một phần trong chính sách chống Việt Nam của họ và ý định thực hiện chủ nghĩa bành trướng ở Đông Nam Á. Trong số những sự vi phạm lãnh thổ được nêu ra có việc Trung Quốc chiếm một phần quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956 và chiếm toàn bộ quần đảo vào ngày 19 tháng 1 năm 1974. Hiện Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo này và hiện vấn đề vẫn chưa được giải quyết.

Tại quần đảo Trường Sa, ngoài Việt Nam thì còn 5 bên tuyên bố chủ quyền là Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Philippines, Malaysia và Brunei.

Các điểm cực

Điểm cực bắc

Điểm cực bắc trên đất liền của Việt Nam nằm ở xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang tại tọa độ 23°23′33″B 105°19′24″Đ / 23,392505912°B 105,32324°Đ / 23.3925059120; 105.323240 (23°23′33″B 105°19′23,7″Đ / 23,3925°B 105,31667°Đ / 23.39250; 105.31667).

Điểm cực nam

Điểm cực nam trên đất liền của Việt Nam nằm ở xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau tại tọa độ 8°33′45″B 104°49′53″Đ / 8,5624409°B 104,8312831°Đ / 8.5624409; 104.8312831 (8°33′44,8″B 104°49′52,6″Đ / 8,55°B 104,81667°Đ / 8.55000; 104.81667).

Điểm cực nam trên biển của Việt Nam nằm ở Hòn Đá Lẻ, quần đảo Hòn Khoai, tỉnh Cà Mau (điểm A2 của Đường cơ sở Việt Nam) tại tọa độ 8°22′51″B 104°52′43″Đ / 8,380852°B 104,878725°Đ / 8.380852; 104.878725 (8°22′51,1″B 104°52′43,4″Đ / 8,36667°B 104,86667°Đ / 8.36667; 104.86667).

Điểm cực tây

Điểm cực tây trên đất liền của Việt Nam nằm ở A Pa Chải - Tá Miếu, xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên[2][3] (ngã ba biên giới Việt - Trung - Lào) tại tọa độ 22°24′03″B 102°08′38″Đ / 22,400734°B 102,14394°Đ / 22.400734; 102.143940 (22°24′2,6″B 102°08′38,2″Đ / 22,4°B 102,13333°Đ / 22.40000; 102.13333).

Điểm cực đông

Điểm cực đông trên đất liền của Việt Nam nằm ở mũi Đôi trên bán đảo Hòn Gốm, xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa tại tọa độ 12°38′54″B 109°27′42″Đ / 12,6483756°B 109,4616339°Đ / 12.6483756; 109.4616339 (12°38′54,2″B 109°27′41,9″Đ / 12,63333°B 109,45°Đ / 12.63333; 109.45000) (không nên nhầm với mũi Điện ở Phú Yên).

Nếu tính cả quần đảo Trường Sa thì điểm cực đông của Việt Nam (hiện đang kiểm soát) nằm tại Hải đăng Tiên Nữ trên đá Tiên Nữ thuộc quần đảo này[4] tại tọa độ 8°52′16″B 114°40′51″Đ / 8,871139°B 114,680778°Đ / 8.871139; 114.680778 (8°52′16,1″B 114°40′50,8″Đ / 8,86667°B 114,66667°Đ / 8.86667; 114.66667).

Tài nguyên thiên nhiên phosphat, than đá, măng gan, bô xít, chrômát, ngoài biển: khoáng sản dầu mỏ và khí tự nhiên, rừng, thủy năng (thủy điện).Sử dụng đất
  • Đất canh tác: 17%
  • Mùa màng cố định: 4%
  • Đồng cỏ cố định: 1%
  • Rừng và vùng rừng: 30%
  • Khác: 48% (ước tính năm 1993)
Đất được tưới tiêu 18.600 km² (ước tính năm 1993)
Thiên tai
  • Bão nhiệt đới xuất hiện tập trung vào các tháng mùa mưa từ tháng 5 đến 11, xảy ra chủ yếu ở miền Bắc và miền Trung với lũ lụt trên diện rộng. Do ở Bắc Bán cầu, nên bão và áp thấp nhiệt đới vào Việt Nam xoáy ngược chiều kim đồng hồ.
Môi trường
  • Khai thác gỗ và đốt rừng làm rẫy góp phần vào sự phá rừng và xói mòn đất; ô nhiễm nước và đánh bắt cá quá mức đe dọa cuộc sống sinh vật biển; ô nhiễm nước ngầm làm giảm nguồn cung nước sạch; tăng công nghiệp hóa đô thị và di cư làm suy giảm nhanh chóng môi trường ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
  • Việt Nam là thành viên của: Công ước về Đa dạng sinh học, Công ước khung của Liên Hợp Quốc về thay đổi khí hậu, Công ước Chống sa mạc hóa, Công ước quốc tế về buôn bán các loài động vật, thực vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng, Công ước Basel về kiểm soát vận chuyển qua biên giới các phế thải nguy hiểm và việc tiêu hủy chúng, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển, Công ước Viên về bảo vệ tầng ozon, Công ước Quốc tế về Phòng chống ô nhiễm từ tàu biển (MARPOL 73/78), Công ước Ramsar về đất ngập nước.
  • Việt Nam đã ký nhưng chưa phê chuẩn: Nghị định thư Kyōto về biến đổi khí hậu, Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân.

Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia Việt Nam được thực hiện định kỳ 5 năm một lần, báo cáo gần đây nhất là năm 2010. Giữa các năm đó là những báo cáo môi trường chuyên đề.[5] Theo đó, các vấn đề môi trường nổi cộm là ô nhiễm chất hữu cơ trong nước mặt của các lưu vực sông có nhiều khu công nghiệp và đô thị đông đúc, hàm lượng chất hữu cơ và coliform chảy qua các khu vực này cao hơn tiêu chuẩn hiện hành của Việt Nam 2-3 lần;[6] Ô nhiễm nông nghiệp do sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật quá mức;[7] Đa dạng sinh học suy giảm nghiêm trọng, 80% rạn san hô nằm trong tình trạng xấu, diện tích thảm cỏ biển suy giảm 40-60% so với thời kỳ trước năm 1990.[7] Các vấn đề về an ninh môi trường của Việt Nam chưa được đánh giá như an ninh nguồn nước, ô nhiễm xuyên biên giới chưa được kiểm soát, các loài ngoại lai xâm lấn và các loài biến đổi gen xâm lấn.[8]

Đường cơ sở của Việt Nam gồm có 11 đoạn, bắt đầu từ vùng nước lịch sử Việt Nam-Campuchia, đi qua quần đảo Thổ Chu, Hòn Khoai, Côn Đảo, Đảo Phú Quý, mũi Đôi, mũi Đại Lãnh, hòn Ông Căn, đảo Lý Sơn, đảo Cồn Cỏ.[cần dẫn nguồn]

  • Việt Nam
  • Sông Việt Nam
  • Hang động Việt Nam
  • Tài nguyên sinh vật Việt Nam

  1. ^ Cổng thông tin điện tử chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Một số thông tin về địa lý Việt Nam. Truy cập 07/12/2010 8:22 GMT+7.
  2. ^ Đường đến cực tây A Pa Chải trên VnExpress.net.
  3. ^ Hành trình A Pa Chải Lưu trữ 2008-12-10 tại Wayback Machine trên website của Đài Truyền hình Việt Nam (VTV).
  4. ^ Thăm đèn Tiên Nữ, ngọn hải đăng ở Trường Sa, Tiền Phong Online. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2013.
  5. ^ “Báo cáo môi trường quốc gia năm 2010 Tổng quan môi trường Việt Nam”. Tổng cục Môi trường. ngày 27 tháng 12 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2014.
  6. ^ Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam năm 2010, chương 10, trang 181.
  7. ^ a b Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam năm 2010, chương 10, trang 184.
  8. ^ Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam năm 2010, chương 10, trang 184-185.

  • Phạm Khôi Nguyên, Bùi Cách Tuyến, Lê Kế Sơn và nnk (2010). Báo cáo Môi trường quốc gia năm 2010 - Tổng quan môi trường Việt Nam. Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam. tr. 201. Bản gốc (pdf) lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2014.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Địa_lý_Việt_Nam&oldid=68287897”