Năm 2020 đang trỏ thành 1 trong 3 năm nóng nhất từng được ghi nhận trên Trái Đất, thậm chí có thể vượt cả mức nhiệt cao kỷ lục vào năm 2016. Nội dung này được đề cập trong báo cáo Thực trạng Khí hậu Toàn cầu năm 2020 được Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) của Liên hợp quốc công bố ngày 2/12. Theo báo cáo mới nhất của WMO, nhiệt độ trung bình toàn cầu từ tháng 1-10 năm nay cao hơn khoảng 1,2 độ C so với nền nhiệt giai đoạn năm 1850-1900. Theo đó, năm 2020 sẽ là năm nóng thứ hai sau năm 2016 và nóng hơn cả năm 2019, tính từ năm 1850. Báo cáo cho biết năm 2020 đã ghi nhận nhiều đợt nắng nóng, hạn hán, cháy rừng và mưa bão. Nhiệt độ nước biển tăng lên các mức cao kỷ lục, với hơn 80% các đại dương trên toàn cầu trải qua các đợt sóng nhiệt biển. Các năm nắng nóng trên Trái Đất thường có liên quan đến hiện tượng thời tiết El Nino. Tuy nhiên, năm nay lại trùng với thời điểm hiện tượng La Nina mạnh lên. Dự kiến, WMO sẽ công bố báo cáo xác nhận dữ liệu trên vào tháng 3/2021. Cũng trong báo cáo công bố ngày 2/12, Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) khẳng định biến đổi khí hậu trở thành mối đe dọa lớn nhất đối với các di sản thiên nhiên của thế giới được Liên hợp quốc công nhận như sông băng, rạn san hô, vùng đầm lầy. [Đài Loan trải qua ngày tháng Sáu nóng nhất trong 124 năm qua] Theo báo cáo, IUCN cho biết những thay đổi do biến đổi khí hậu gây ra hiện đe dọa đến hơn 30% trong tổng số 252 di sản thiên nhiên được Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận trên thế giới. Cụ thể, 94 trong số các di sản thiên nhiên đang đối mặt với nguy cơ nghiêm trọng hoặc nguy cấp do nhiều yếu tố như du lịch, hoạt động săn bắn, cháy rừng và ô nhiễm nguồn nước. Con số này tăng so với con số 62 di sản được đề cập trong nghiên cứu được công bố năm 2017. Tổng Giám đốc IUCN Bruno Oberle nhấn mạnh báo cáo trên cho thấy biến đổi khí hậu đang phá hủy các di sản thiên nhiên của thế giới, từ hiện tượng sông băng giảm cho đến san hô bị tẩy trắng, các vụ cháy rừng và hạn hán nghiêm trọng ngày càng gia tăng tần suất, điều này đòi hỏi các nước cần cùng nhau giải quyết những thách thức về môi trường ở quy mô toàn cầu. Cùng ngày 2/12, Đài quan sát địa vật lý miền Trung Ukraine cho biết Kiev đã trải qua mùa Thu ấm nhất trong lịch sử gần 140 năm. Nền nhiệt độ trung bình trong mùa Thu (kết thúc ngày 30/11) đã tăng lên 11,6 độ C, cao hơn 3,6 độ C so với mức thông thường. Đây là mùa Thu Kiev ghi nhận nhiệt độ cao nhất kể từ năm 1881. Ngày 30/11 vừa qua là ngày lạnh nhất vào mùa Thu tại Kiev khi nhiệt độ vào buổi sáng xuống -3,8 độ C. Ngày 1/9 trở thành ngày ấm nhất trong mùa Thu và cũng là ngày nóng nhất trong cả năm tại Ukraine khi ghi nhận nhiệt độ lên tới 34,7 độ C. Ukraine đã hứng chịu nhiệt độ cao chưa từng thấy trong năm nay, dẫn đến nhiều vụ cháy rừng khó kiểm soát. Trong tháng Tư năm nay, cháy rừng đã thiêu rụi 66.000ha tại khu vực rừng bỏ hoang gần Chernobyl ở miền Bắc Ukraine. Các nhà khoa học dự báo tần suất và cường độ của các hiện tượng thời tiết cực đoan sẽ gia tăng do biến đổi khí hậu./.
Chính phủ các nước ngày càng cam kết chuyển đổi nền kinh tế để trở nên trung hòa carbon trong vòng 10 đến 30 năm tới. Trong khi lượng khí thải ổn định ở châu Âu và châu Mỹ, thì ở châu Á và châu Phi lại có chiều hướng gia tăng. Tuy nhiên, lượng khí thải tuyệt đối chỉ nói lên một nửa câu chuyện. Các quốc gia châu Á đã chứng kiến sự gia tăng dân số đáng kể trong những thập kỷ qua, nhiều người hơn nên đã dẫn đến việc tiêu thụ nhiều tài nguyên hơn. Nhìn từ góc độ tổng phát thải CO2, 5 nước sau đây có mức phát thải CO2 cao nhất, gồm: Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Nga và Nhật Bản. Theo phân tích cho thấy mức thu nhập cao thì mức phát thải trung bình trên đầu người cũng cao hơn so với mức thu nhập thấp. Chẳng hạn như Qatar, phát thải CO2 trên đầu người nhiều hơn nhiều so với các quốc gia như Đức và Pháp, mặc dù họ cùng nhóm thu nhập. Một số quốc gia đông dân như Ấn Độ và Trung Quốc được xếp hạng thấp về lượng khí thải bình quân đầu người, nhưng tổng mức phát thải và tác động phát thải CO2 lại lớn, do dân số khổng lồ. 2. Các nguồn phát thải khí nhà kính chính là gì? Như mọi người đều biết, sức mạnh kinh tế và lượng khí thải CO2 có mối quan hệ tương quan với nhau. Không có gì ngạc nhiên khi khu vực công nghiệp là nơi có tỷ lệ tổng lượng khí nhà kính (GHG) 35%, gồm mêtan và nitơ oxit thải vào khí quyển. Xếp thứ hai là ngành nông nghiệp, lâm nghiệp với tỷ lệ là 20%, đặc biệt là việc thay đổi mục đích sử dụng đất được coi là nguồn phát thải GHG lớn nhất trong nhóm này. Mặc dù rừng là nguồn hấp thụ CO2 lớn, nhưng trong hai thập kỷ trở lại đây, số lượng cây che phủ hàng năm bị mất dần tăng lên. Nga, Brazil và Mỹ là những nơi có mức phá rừng lớn nhất thế giới năm 2020. Tuy nhiên, so với thập kỷ 1990 - 2000, tốc độ phá rừng lại có xu hướng chậm lại. Phá rừng không chỉ là vấn đề làm tăng khí thải vì bản chất rừng hấp thụ CO2 lưu trữ trong đất, còn bản thân cây cối thì thải CO2 vào khí quyển. Ngoài ra đất rừng còn là những “bể chứa carbon” khổng lồ và hữu dụng, nhưng khi chuyển đổi mục đích sử dụng, nhất là cho công nghiệp thì mức CO2 phát ra không khí ngày càng tăng lên. 3. Lượng khí thải CO2 gia tăng như thế nào trong những thế kỷ qua? Lượng khí thải CO2 do đốt nhiên liệu hóa thạch đã gia tăng kể từ những ngày đầu của quá trình công nghiệp hóa. Tuy nhiên, khi con người tạo ra lượng carbon dioxide cao hơn, Trái đất đã hấp thụ nó trong các “bể chứa carbon” tự nhiên, chẳng hạn như rừng và đại dương. Nhưng khi nhân loại bắt đầu tạo ra nhiều CO2 và các khí nhà kính khác mà hệ sinh thái của hành tinh có thể hấp thụ một cách tự nhiên, thì những khí thải này bị mắc kẹt trong bầu khí quyển. 4. Thế giới đã ấm lên bao nhiêu độ? Khối lượng phát thải CO2 ngày càng tăng, đặc biệt là các hạt CO2 giữ hơi ấm của ánh sáng mặt trời trong khí quyển. Nó có cơ chế hoạt động giống như một nhà kính, khiến nhiệt độ trái đất ngày càng ấm hơn. So với thế kỷ 20, đặc biệt là 5 năm qua, nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng gần 1 độ C (1,8 độ F). Sự thay đổi này được đo bằng cách tính toán sự khác biệt giữa nhiệt độ quan sát được tại một thời điểm và địa điểm cụ thể và mức trung bình trong lịch sử cho cùng một vị trí đó. Nhiệt độ tăng 1 độ là mức trung bình toàn cầu, con số chính xác có thể biến thiên, nhiều hoặc ít ở từng địa phương, khu vực khác nhau. Trong một ví dụ cụ thể, nhiệt độ trung bình trong tháng 8 (giai đoạn năm 1991 đến năm 2020) ở thành phố Portland phía tây bắc nước Mỹ là 20 độ C. Với sự nóng lên toàn cầu, Portland đang chứng kiến những ngày nóng hơn mức trung bình. Ví dụ: Vào ngày 13 tháng 8 hằng năm, mức trung bình hàng ngày đạt 30 độ C, đây là một nhiệt độ bất thường. Trong cùng tuần, nhiệt độ bất thường đã được ghi nhận ở Tây Ban Nha, Tunisia, Nga, Ấn Độ, Campuchia, Australia, Argentina và một vài quốc gia khác. Sự gia tăng nhiệt độ như vậy đẩy sự bất thường về nhiệt độ của Trái đất tăng theo và phát sinh những tác động tiềm ẩn trên phạm vi rộng. Từ các túi nhiệt bất khả trị đến mùa màng thất bát, gia tăng các thảm họa thiên tai như bão và lũ lụt. Mực nước biển dâng là một trong những tác động đáng chú ý nhất. Nhiệt độ nóng hơn đang làm tan chảy các chỏm băng và sông băng và làm tăng tổng lượng nước trong các đại dương. 5. Mực nước biển hiện đã tăng bao nhiêu? Theo dữ liệu được Cục Khí quyển và Đại dương Quốc gia Mỹ (NOAA) tổng hợp, mực nước biển đã tăng gần 25 cm (9,8 inch) trong 140 năm qua. Khoảng một phần ba mức tăng này xảy ra nhanh trong vòng 25 năm trở lại đây. Mực nước biển tăng trên toàn thế giới, nhưng xu hướng này thấy rõ ở Bắc Cực, nơi đang nóng lên nhanh hơn các khu vực khác. Đặc tính nhiệt của nước cho phép nó nở ra khi ấm lên cũng góp phần làm tăng mực nước biển tăng theo. Trong khi hầu hết các đại dương và biển trên thế giới thực sự cao hơn mức lịch sử, thì có một số khu vực lại bị ảnh hưởng nhiều hơn. Ví dụ, máy đo thủy triều ở miền tây Canada và miền bắc Chile, phát hiện biển ổn định hoặc thậm chí đang giảm, còn ở các quốc đảo nam Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương mực nước biển lại tăng đáng báo động và phát sinh nhiều mối nguy hiểm cho con người và môi trường./. KHẮC NAM (THEO: QW-11/2021)
1/ https://www.dw.com/en/climate-change-emissions-data-charts-cop26/a-59652069 |