18
doanh nghiệp là yếu kém thì các thủ tục kiểm tra chi tiết số dư được dự kiến
sẽ tăng lên cả về khoản mục và số lượng mẫu chọn từ tổng thể.
1.4.2. Thực hiện kiểm toán
1.4.2.1 Thử nghiệm kiểm soát
a) Tìm hiểu KSNB đối với khoản mục tiền
Các khảo sát kiểm soát đối với tiền thường tập chung vào sự hiện diện của
các quy chế kiểm soát tiền, sự hoạt động của các quy chế kiểm soát tiền và sự
hoạt động liên tục của các quy chế kiểm soát tiền.
Để tìm hiểu về kiểm soát nội bộ đối với tiền, Kiểm toán viên có thể soạn
thảo bảng tường thuật về kiểm soát nội bộ đối với tiền hoặc lập lưu đồ về
kiểm soát đối với tiền hoặc có thể lập bảng câu hỏi về kiểm soát nội bộ đối
với tiền.
Ví dụ: Bảng câu hỏi về KSNB đối với tiền được thiết kế như sau:
Bảng 1.1: Bảng câu hỏi về KSNB
Câu hỏi
1.Có sự phân chia trách nhiệm giữa thủ quỹ và kế
toán không?
2.Các phiếu thu, phiếu chi có được đánh số liên tục
từ trước không?
3.Có xây dựng quy trình cụ thể về quá trình luân
chuyển tiền không?
4.Có sự phân quyền, ủy quyền trong phê chuẩn đối
với nghiệp vụ thu, chi không?
5.Thủ quỹ có kiểm tra tính hợp lệ của phiếu thu,
phiếu chi trước khi thu, hay chi tiền không?
6.Thủ quỹ có luôn thực hiện ký hoặc đóng dấu (đã
thu tiền, đã chi tiền) lên chứng từ hay không?
Trả lời
Có
Không
Ghi
chú
19
7.Định kỳ có kiểm kê quỹ không?
8.Có thường xuyên đối chiếu giữa sổ quỹ (thủ quỹ)
và nhật ký quỹ (kế toán tiền mặt) không?
9.Định kỹ có đối chiếu giữa sổ cái tài khoản tiền gửi
(kế toán tiền gửi) và sổ phụ ngân hàng (ngân hàng)
không?
10.Có sự tách biệt hoàn toàn trách nhiệm giữa người
ký séc chi tiền và người thực hiện nghiệp vụ thanh
toán không?
Sau đó khi đã có được những mô tả về kiểm soát nội bộ, Kiểm toán viên
tiến hành các thể thức khác nhau để khảo sát đối với kiểm soát nội bộ tiền.
Các thể thức có thể gồm: Quan sát, phỏng vấn, điều tra, xem xét. Rồi đánh giá
rủi ro kiểm soát đối với tiền.
b) Đánh giá sơ bộ rủi ro kiểm soát
Đánh giá sơ bộ rủi ro kiểm soát (CR) đối với từng cơ sở dẫn liệu -> Là cơ
sở giúp kiểm toán viên giới hạn phạm vi của các thử nghiệm cơ bản.
- Nếu đánh giá là thủ tục kiểm soát được thiết kế hữu hiệu và có khả năng
thực hiện hiệu quả thì CR được đánh giá sơ bộ là thấp:
-> Thực hiện các thử nghiệm kiểm soát để hạn chế phạm vi của thử
nghiệm cơ bản.
- Nếu CR được đánh giá là tối đa do không có các thủ tục kiểm soát tốt
được thiết kế đối với khoản mục:
-> Không thực hiện các thử nghiệm kiểm soát, mở rộng thực hiện thử
nghiệm cơ bản.
c) Thực hiện các thử nghiệm kiểm soát
- Đảm bảo việc ghi chép, tổng cộng số liệu. chuyển sổ chính xác:
+ Thu tiền: Lần theo số tổng cộng hàng tháng của cột tổng cộng từ nhật
kí thu tiền, sổ quỹ, các sổ chi tiết đến sổ cái tài khoản (TK) 111, TK 112 cũng
như đến sổ TK phải thu,
+ Chi tiền: Kiểm tra từ nhật kí chi tiền, sổ quỹ, các sổ chi tiết đến sổ cái
TK 111, TK 112 và TK phải trả.
20
- Kiểm tra thủ thuật gối đầu: thủ thuật gối đầu được thực hiện bằng cách
ghi nhận trễ khoản tiền đã thu và bù đắp bằng những khoản tiền thu được sau
đó.
+ So sánh chi tiết danh sách thu tiền với bảng kê gửi tiền hàng ngày vào
ngân hàng hoặc nộp tiền vào quỹ.
+ Đối chiếu chi tiết danh sách khách hàng được ghi nợ phải thu
và danh sách khách hàng trên phiếu thu tiền mặt cũng như bảng kê gửi tiền
vào ngân hàng.
+ Gửi thư xác nhận các khoản phải thu đến khách hàng.
- Thủ tục kiểm toán đối với chi tiền: Chọn một số khoản chi trên sổ chi tiết
các tài khoản tiền và đối chiếu với chứng từ gốc (Hóa đơn GTGT, đơn đặt
hàng,) với chú ý kiểm tra các dấu vết để lại của KSNB để kiểm tra việc xét
duyệt, ủy quyền trong chi tiền.
d ) Đánh giá lại rủi ro kiểm soát
Đánh giá cuối cùng CR sau khi đã kiểm tra được KSNB đối với tiền được
thiết kế như thế nào và vận hành thực tế ra sao? -> Nhận diện được điểm yếu
và điểm mạnh của KSNB -> Thiết kế các thử nghiệm cơ bản với phạm vi
thích hợp.
1.4.2.2. Thử nghiệm cơ bản
a) Thủ tục phân tích đối với khoản mục
Thủ tục phân tích: là việc phân tích các số liệu thông tin, các tỷ suất quan
trọng qua đó tìm ra những xu hướng, biến động và tìm ra những mối quan hệ
có mâu thuẫn với các thông tin liên quan khác hoặc có sự chênh lệch lớn so
với giá trị đã dự kiến. Mục tiêu của thủ tục phân tích đối với khoản mục tiền
liên quan đến cơ sở dẫn liệu về sự hiện hữu, tính trọn vẹn và tính chính xác cơ
học.
- Phân tích ngang ít được thực hiện vì số dư khoản mục tiền chịu ảnh
hưởng tương đối lớn bởi quyết định và chiến lược của các nhà quản lý trong
doanh nghiệp nên trong các cuộc kiểm toán, KTV thường ít hy vọng sẽ tìm
21
được mối liên hệ bền vững và có thể dự đoán được với các số liệu khác của
năm hiện hành hay năm trước. Trong một số trường hợp, thủ tục phân tích
ngang vẫn được sử dụng, ví dụ: sử dụng phân tích tỷ lệ giữa số dư tiền với
tổng số dư tài sản ngắn hạn, so sánh tỷ lệ năm nay và năm trước, hoặc so sánh
số liệu thực tế và số kế hoạch.
- Phân tích dọc: Tính toán các tỷ suất về khả năng thanh toán: tỷ suất khả
năng thanh toán nợ ngắn hạn, tỷ suất khả năng thanh toán nhanh, tỷ suất khả
năng thanh toán ngay.
+ Tỷ suất khả năng thanh toán nợ ngắn hạn: =
Ý nghĩa: cho biết mỗi đồng nợ ngắn hạn sẽ có bao nhiêu đồng tài sản
ngắn hạn có khả năng chuyển hóa nhanh thành tiền để trả các khoản nợ ngắn
hạn.
+ Tỷ suất khả năng thanh toán nhanh: =
Ý nghĩa: phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn mà
không tính đến sự chuyển hóa của hàng tồn kho thành tiền.
+ Tỷ suất khả năng thanh toán ngay: =
Ý nghĩa: Ngay tại thời điểm lập báo cáo nếu các khoản nợ ngắn hạn đã
đến hạn thanh toán thì doanh nghiệp có thể trả ngay lập tức bao nhiêu % nợ
ngắn hạn.
- Các biến động bất thường cần được đi sâu tìm hiểu và giải thích nguyên
nhân.
b)Kiểm tra chi tiết nghiệp vụ, số dư tài khoản trong khoản mục tiền
Lập bảng tổng hợp
- KTV thu thập (hoặc tự lập) một bảng tổng hợp số dư khoản mục tiền.
Nội dung bảng tổng hợp gồm: Số dư đầu kỳ và số dư cuối kỳ, chi tiết từng tài
khoản tiền, theo từng đơn vị tiền tệ, số dư nguyên tệ (nếu có). Lưu ý đối với
tiền gửi ngân hàng: chi tiết theo từng tài khoản tiền gửi tại từng ngân hàng.
22
- So sánh số liệu với báo cáo tài chính, sổ cái các tài khoản.
Mục đích của KTV thực hiện công việc này nhằm kiểm tra tính đầy đủ,
tính chính xác trong ghi sổ và cộng dồn có chính xác không, đồng thời kiểm
tra việc lập BCTC và đối chiếu số liệu giữa BCTC với các sổ Cái tài khoản
111, 112, 113 (trình bày và thuyết minh)
Kiểm tra số dư tiền mặt tồn quỹ
Thực hiện kiểm tra chi tiết tiền mặt là thủ tục không thể thiếu trong quy
trình kiểm toán khoản mục này. Do tính trọng yếu của khoản mục và khả
năng xảy ra sai sót là rất lớn, nên bất kỳ đánh giá nào của KTV về KSNB của
khách hàng cũng như kết quả rút ra từ thủ tục phân tích không cho thấy sai
phạm tồn tại thì KTV vẫn phải tiến hành kiểm tra chi tiết.
- Tại thời điểm kiểm kê, kiểm tra việc khóa sổ kế toán và chốt phiếu thu
chi cuối cùng, tiến hành chứng kiến kiểm kê quỹ và đối chiếu số liệu trên
BCTC với biên bản kiểm kê quỹ, sổ chi tiết, sổ cái, sổ quỹ tiền mặt nhằm
đánh giá việc chuyển sổ và tính số tổng cộng dồn chính xác. Đảm bảo mục
tiêu về tính hiện hữu và chính xác, quyền và nghĩa vụ của khoản mục
- Lựa chọn các nghiệp vụ có số phát sinh lớn, có nội dung bất thường để
kiểm tra chi tiết. Kiểm tra, đối chiếu số liệu trên sổ cái, sổ chi tiết với chứng
từ thu, chi và chứng từ gốc về nội dung nghiệp vụ, số tiền, ngày tháng ghi sổ,
định khoản, đảm bảo mục tiêu về tính hiện hữu
- Lựa chọn một dãy liên tục các nghiệp vụ phát sinh được phản ánh trên sổ
sách và đối chiếu với chứng từ và ngược lại nhằm kiểm tra tính hiện hữu và
tính đầy đủ trong phản ánh các nghiệp vụ vào sổ sách kế toán và lập báo cáo.
- Đối với tiền tồn tại dưới hình thức vàng bạc, kim khí quý, đá quý, khi
tiến hành kiểm tra chi tiết KTV cần xem xét kỹ về nguồn gốc và các giấy tờ
chứng minh tính hợp pháp và giá trị mua vào của các loại tài sản đó. Tuy
nhiên, nhiều khi KTV cũng cần cân nhắc việc sử dụng ý kiến chuyên gia. Do
việc đánh giá giá trị thực tế của các tài sản này rất khó thực hiện, yêu cầu phải
có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực này.
23
Khi kết thúc, thủ qũy phải ký vào biên bản kiểm kê để xác nhận số thực tế.
KTV kỹ vào biên kiểm kê để xác nhận có tham gia chứng kiến kiểm kê và lưu
biên bản hoặc bản sao biên bản kiểm kê vào sổ kiểm toán.
Trong trường hợp, KTV không thể tham gia chứng kiến kiểm kê thì thủ
tục thay thế là:
Đánh giá mức độ trọng yếu của số dư tiền mặt tồn quỹ:
+ Nếu số dư là không trọng yếu và KSNB được đánh giá là tốt thì tin
tưởng vào kết quả kiểm kê quỹ của đơn vị và lưu biên bản kiểm kê quỹ do
đơn vị lập.
+ Nếu số dư là trọng yếu: yêu cầu đơn vị bố trí kiểm kê và chứng kiến.
Kiểm tra CUỐN CHIẾU: chốt phiếu thu chi tại ngày khóa sổ, chốt phiếu
thu chi tại ngày kiểm kê, sau đó cộng (trừ) số phát sinh.
Thủ tục kiểm tra cuốn chiếu giúp KTV kiểm tra được tính trung thực,
hợp lý của phiếu thu chi từ ngày kiểm kê tới ngày khóa sổ
Kiểm tra số dư tiền gửi Ngân hàng
Khi thực hiện kiểm tra chi tiết tiền gửi ngân hàng, kiểm toán viên hướng
tới việc kiểm tra tính chính xác của số dư, nghiệp vụ tiền gửi. Công việc kiểm
tra chi tiết khoản mục tiền gửi ngân hàng bao gồm các nội dung chính là:
- Lập thư xác nhận số dư tiền gửi ngân hàng đối với tất cả các ngân hàng
mà doanh nghiệp có mở tài khoản, kể cả những tài khoản có số dư bằng
không.
- Đối chiếu số liệu trên BCTC của đơn vị với Bảng đối chiếu số dư cuối kỳ
với khách hàng của ngân hàng, sổ phụ ngân hàng, đối chiếu với sổ chi tiết, sổ
cái tiền gửi ngân hàng. -> Nếu có chênh lệch, tìm hiểu nguyên nhân và đề
nghị đơn vị điều chỉnh kịp thời.
- Lựa chọn một số nghiệp vụ kiểm toán phát sinh và đối chiếu với giấy báo
Nợ, giấy báo Có tiền gửi ngân hàng, đối chiếu với chứng từ gốc.
- Kiểm tra việc ghi nhận lãi tiền gửi thông qua xác định số dư tiền gửi, tỷ
lệ lãi suất.
24
Việc KTV kiểm tra số dư tiền gửi ngân hàng giúp đáp ứng mục tiêu về
tính hiện hữu, đầy đủ, chính xác, quyền và nghĩa vụ.
Kiểm tra việc khóa sổ đối với các nghiệp vụ thu chi tiền
- Đối với tiền mặt: Số dư cuối kỳ của tài khoản tiền mặt là hiệu số giữa số
dư đầu kỳ và tổng số thu được với số chi ra cho đến ngày khóa sổ, nghĩa là
không được đưa các khoản phải thu chi của niên độ sau vào niên độ này. Do
vậy cần xem xét thời điểm phát sinh của các chứng từ thu chi được ghi nhận
vào sổ kế toán vào những ngày trước và sau khi kết thúc niên độ, để xác định
xem mọi khoản thu chi có được ghi nhận đúng niên độ hay không. Ngoài ra,
để tránh trường hợp chi trước, hay ghi sau ngày phát sinh thực tế, KTV cần
chú ý đặc biệt đến số thứ tự của các phiếu thu và chi cuối cùng được ghi sổ
trong năm.
- Đối với tiền gửi ngân hàng: Để kiểm tra, KTV nên yêu cầu khách hàng
trực tiếp cung cấp sổ phụ trong khoảng thời gian một tuần trước và sau khi kết
thúc niên độ. Sổ phụ là tài liệu do ngân hàng gửi trực tiếp cho đơn vị để thông
báo về các khoản ghi nợ và có của tài khoản này trong một thời kỳ. Nhờ sổ
phụ, KTV sẽ đối chiếu số dư tài khoản TGNH với số dư trên sổ phụ của ngân
hàng và phát hiện chênh lệch. KTV cần kiểm tra xem các khoản chênh lệch
đó (nếu có) xem đơn vị có hạch toán vào tài khoản phải thu khác hay phải trả
khác hay không. Sau đó , KTV cần tìm hiểu nguyên nhân chênh lệch để xác
định đúng đắn số thực.
- Đối với tiền đang chuyển:
+ Thu thập bảng tổng hợp các séc đã chi hoặc đã nộp nhưng chưa nhận
được giấy báo của ngân hàng.
+ Đối chiếu với sổ phụ ngân hàng và các chứng từ gốc có liên quan.
+ Tại thời điểm kiểm toán, thu thập toàn bộ các giấy báo có/nợ liên quan
sau ngày khóa sổ và đối chiếu để kiểm tra việc ghi chép các khoản tiền đang
chuyển.
25
=> Việc kiểm tra khóa sổ đối với các nghiệp thu tiền giúp đáp ứng được nội
dung của cơ sở dẫn liệu là tính đầy đủ, tính hiện hữu, trình bày và thuyết
minh.
Kiểm tra các nghiệp vụ thu chi bất thường
- Chọn ra một số nghiệp vụ phát sinh lớn, bất thường. Bất thường ở đây có
thể là: tài khoản đối ứng bất thường (711, 811, ), nội dung kinh tế không
thường xuyên (thanh lý tài sản, phạt vi phạm hợp đồng, ), nghiệp vụ phát
sinh có giá trị lớn,
- Kiểm tra chi tiết tới chứng từ gốc, xem xét tính hợp lý của các nghiệp vụ.
=> nhằm đảm bảo mục tiêu về tính hiện hữu, trình bày và thuyết minh.
Kiểm tra số dư các tài khoản có gốc ngoại tệ
- Kiểm tra việc hạch toán ngoại tệ, KTV kiểm tra xem việc ghi nhận số
tiền phát sinh quy đổi theo VNĐ có tuân theo chuẩn mực và chế độ kế toán
hiện hành và phương pháp hạch toán tiền ngoại tệ mà doanh nghiệp đã đăng
ký không.
- Kiểm tra chi tiết đối với ngoại tệ bao gồm kiểm tra số phát sinh nguyên
tệ và tỷ giá hạch toán mà kế toán sử dụng.
- Kiểm toán viên tiến hành kiểm tra, đánh giá việc ghi nhận tỷ giá hạch
toán tiền mặt ngoại tệ cuối niên độ kế toán: Thu thập tỷ giá bình quân liên
ngân hàng tại thời điểm kết thúc năm tài chính, tỷ giá giao dịch của bình quân
những ngân hàng mà doanh nghiệp có giao dịch, tỷ giá giao dịch của ngân
hàng mà doanh nghiệp có giao dịch thường xuyên. Quy đổi các khoản tiền có
gốc ngoại tệ sang đơn vị tiền tệ kế toán. So sánh với số hiện đang phản ánh
của đơn vị. Thực hiện các bút toán điều chỉnh (nếu có chênh lệch).
=> nhằm đáp ứng mục tiêu về tính đánh giá của khoản mục tiền.
1.4.3. Kết thúc kiểm toán
Kết thúc cuộc kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán phát hành
Báo cáo kiểm toán (BCKT) và đưa ra ý kiến đánh giá về tính trung thực và
hợp lý của số liệu được phản ánh trên BCTC của công ty khách hàng. Để đưa
26
ra ý kiến xác đáng về BCTC đã được kiểm toán, kiểm toán viên cần tiến hành
xem xét các khoản công nợ ngoài dự kiến, đánh giá khả năng hoạt động liên
tục của khách hàng và tổng hợp kết quả công việc đã thực hiện trước khi phát
hành Thư quản lý và BCKT.
1.4.3.1. Đánh giá khả năng tiếp tục hoạt động của khách hàng
Báo cáo kiểm toán về BCTC chỉ thực sự có ý nghĩa nếu khách hàng kiểm
toán tiếp tục hoạt động trong tương lai. Ngoài ra, khi ra các quyết định kinh
tế, những người quan tâm đến BCTC không chỉ quan tâm đến tính trung thực
và hợp lý của thông tin trên đó mà còn quan tâm đến khả năng tồn tại của
doanh nghiệp.
Thực hiện đánh giá, KTV căn cứ vào số liệu của các khoản mục, các tài
khoản liên quan đến các tỷ suất về khả năng thanh toán, xem xét lợi nhuận
trước thuế của doanh nghiệp sau điều chỉnh của KTV để tính toán lại các tỷ
suất này và thực hiện đánh giá lại. Đồng thời, KTV cũng xem xét khả năng
xảy ra của các khoản công nợ ngoài dự kiến có ảnh hưởng đến khả năng hoạt
động liên tục của khách hàng.
1.4.3.2. Giải quyết các sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ kế toán
Các Kiểm toán viên phải xem xét ảnh hưởng của những sự kiện phát sinh
sau ngày khoá sổ kế toán lập Báo cáo tài chính. có hai loại sự kiện đó là:
- Các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm cần điều chỉnh
- Các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm không cần điều
chỉnh
Theo đó, Kiểm toán viên phải có trách nhiệm xây dựng và thực hiện các
thủ tục kiểm toán nhằm thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp
để xác định tất cả những sự kiện đã phát sinh đến ngày ký báo cáo kiểm toán
xét thấy có ảnh hưởng đến báo cáo tài chính và phải yêu cầu đơn vị điều
chỉnh hoặc thuyết minh trong Báo cáo tài chính. Trường hợp Kiểm toán viên
biết được có sự kiện có ảnh hưởng trọng yếu đến Báo cáo tài chính phát sinh
sau ngày ký Báo cáo kiểm toán nhưng trước ngày công bố báo cáo tài chính
27
hoặc sau ngày công bố báo cáo tài chính, thì phải cân nhắc xem có nên sửa lại
Báo cáo tài chính và Báo cáo kiểm toán hay không và thảo luận vấn đề này
với giám đốc của đơn vị được kiểm toán để có những biện pháp thích hợp tuỳ
theo từng trường hợp cụ thể.
1.4.3.3. Tổng hợp kết quả và phát hành báo cáo
Khái niệm: Báo cáo kiểm toán là báo cáo bằng văn bản do Kiểm toán viên
lập và công bố trong đó đưa ra ý kiến nhận xét của mình về đối tượng kiểm
toán.
Tổng hợp kết quả, đánh giá lại quy trình thực hiện kiểm toán và phát hành
BCKT được thực hiện bởi những KTV có kinh nghiệm, chủ nhiệm kiểm toán
và các cấp quản lý.
Trước khi tổng hợp kết quả, KTV phải xem xét lại giấy tờ làm việc của
nhân viên đã tham gia cuộc kiểm toán. Xem xét tính đầy đủ của bằng chứng
thu được, xem xét lại những đánh giá và nhận xét của KTV đã thực hiện.
Bước cuối cùng là công bố BCKT, trong đó nêu rõ ý kiến của KTV về tính
trung thực và hợp lý của BCTC của khách hàng và chỉ ra những tài khoản,
khoản mục chưa đảm bảo tính trung thực, hợp lý xét trên các khía cạnh trọng
yếu. Các ý kiến của KTV được trình bày trên BCKT bao gồm:
-Ý kiến kiểm toán dạng chấp nhận toàn phần: Kiểm toán viên phải đưa ra
ý kiến kiểm toán dạng chấp nhận toàn phần khi kiểm toán viên kết luận rằng
báo cáo tài chính được lập, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn
khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng.
-Ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần: Kiểm toán
viên phải đưa ra ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần
trong báo cáo kiểm toán khi:
(a) Dựa trên bằng chứng kiểm toán đã thu thập được, kiểm toán viên
kết luận là tổng thể báo cáo tài chính vẫn còn sai sót trọng yếu hoặc
(b) Kiểm toán viên không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm
28
toán thích hợp để kết luận rằng tổng thể báo cáo tài chính không còn sai sót
trọng yếu.
+ Ý kiến kiểm toán ngoại trừ: Kiểm toán viên phải trình bày ý kiến
kiểm toán ngoại trừ khi:
(a) Dựa trên các bằng chứng kiểm toán đầy đủ, thích hợp đã thu thập
được, kiểm toán viên kết luận là các sai sót, xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, có
ảnh hưởng trọng yếu nhưng không lan tỏa đối với báo cáo tài chính; hoặc
(b) Kiểm toán viên không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm
toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán, nhưng kiểm toán viên
kết luận rằng những ảnh hưởng có thể có của các sai sót chưa được phát hiện
(nếu có) có thể là trọng yếu nhưng không lan tỏa đối với báo cáo tài chính.
+ Ý kiến kiểm toán trái ngược: Kiểm toán viên phải trình bày ý kiến
kiểm toán trái ngược khi dựa trên các bằng chứng kiểm toán đầy đủ, thích
hợp đã thu thập được, kiểm toán viên kết luận là các sai sót, xét riêng lẻ hay
tổng hợp lại, có ảnh hưởng trọng yếu và lan tỏa đối với báo cáo tài chính.
+ Từ chối đưa ra ý kiến: Kiểm toán viên phải từ chối đưa ra ý kiến khi
kiểm toán viên không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích
hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán và kiểm toán viên kết luận rằng
những ảnh hưởng có thể có của các sai sót chưa được phát hiện (nếu có) có
thể là trọng yếu và lan tỏa đối với báo cáo tài chính.
Tùy thuộc vào đánh giá của KTV về những sai sót phát hiện được có ảnh
hưởng trọng yếu hay không trọng yếu đến thông tin tài chính phản ánh trên
BCTC của đơn vị mà KTV đưa ra ý kiến thích hợp. KTV cũng cần lưu ý đến
những giới hạn kiểm toán gặp phải trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán
như sự ngăn cản của BGĐ khách hàng về một vấn đề KTV cần xác minh hay
sự không đồng tình của BGĐ về những điều chỉnh của KTV. Khi đó, KTV
cần xin ý kiến tư vấn, sự chỉ đạo từ những nhà quản lý của Công ty kiểm toán
để có cách xử lý phù hợp. Bởi vì một trong những mục đích của KTV và
|