Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn coi trọng nhân tố con người, coi đó là yếu tố quyết định sự thành bại của cách mạng, đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển. Vấn đề "phát triển con người toàn diện" trong các văn kiện của Đại hội XII được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016-2020.
Đó là xây dựng "con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa". Một con người toàn diện cần phát triển hài hòa, đầy đủ các mặt đức, trí, thể, mỹ. Do đó, việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện không phải là riêng của từng bộ ngành mà là nhiệm vụ chung, đòi hỏi sự vào cuộc của các cấp, các ngành, toàn hệ thống chính trị và cần được tiến hành thường xuyên, liên tục với nhiều giải pháp đồng bộ. Show
Các thí sinh tham gia hội thi nấu ăn “Cả nhà vào bếp” trong Ngày hội gia đình hạnh phúc năm 2019. Ảnh: Thanh Vũ/TTXVN Coi trọng giáo dục nhân cách từ gia đình Tuy không phải là thiết chế duy nhất có vai trò, trách nhiệm giáo dục thế hệ trẻ nhưng gia đình là môi trường giáo dục có tầm quan trọng quyết định việc hình thành nhân cách con người. Giáo dục từ nhà trường và xã hội chỉ phát huy hiệu quả khi lấy giáo dục gia đình làm cơ sở. Từ nền tảng giáo dục gia đình, mỗi người cần được bồi đắp thêm đức, trí, thể, mỹ trong nhà trường, xã hội với các tri thức, kỹ năng sống đáp ứng được yêu cầu trong thời kỳ toàn cầu hóa hiện nay. Bà Trần Thị Tuyết Ánh, Vụ trưởng Vụ Gia đình (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cho biết: Sau nhiều năm đổi mới, Việt Nam đang đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đạo hóa, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Giáo dục nhân cách cho con người ngay từ gia đình là một vấn đề quan trọng và cần thiết, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân đang có những biểu hiện sa sút nghiêm trọng, vai trò của gia đình và giáo dục gia đình đối với việc hình thành, nuôi dưỡng tâm hồn, nhân cách của thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước trở nên quan trọng hơn lúc nào hết. Nghiên cứu của nhiều chuyên gia và thực tiễn cuộc sống đã cho thấy, trong giáo dục gia đình, người lớn phải dạy cho trẻ ngay từ nhỏ những điều giản dị nhất như chào hỏi, cảm ơn, nhặt được của rơi phải trả lại người mất, kính già, yêu trẻ, tuổi nhỏ làm việc nhỏ, người lớn làm việc lớn, ai cũng có trách nhiệm với bản thân, xã hội... Kho tàng tục ngữ ca dao của dân tộc cũng là một trong những nền tảng của đạo đức, văn hóa ứng xử, có giá trị lâu bền của dân tộc mà con trẻ cần được học, được dạy ngay từ nhỏ qua lời ru, lời dạy của bà, của mẹ để dần dần thấm nhuần ý nghĩa. Ví dụ như: Kính già già để tuổi cho; ăn trông nồi, ngồi trông hướng; học ăn, học nói, học gói, học mở… Thế nhưng trong thời kỳ kinh tế thị trường, các bậc cha mẹ phải bắt nhịp với guồng quay hối hả của cuộc sống, bị vòng xoáy của công việc cuốn đi. Nhiều gia đình quá coi trọng giá trị vật chất mà quên đi giá trị tinh thần, không ý thức được tầm quan trọng của giáo dục gia đình với thế hệ trẻ, coi nhẹ việc chăm lo, bồi đắp tình yêu thương - chất keo gắn kết sự bền vững của mỗi gia đình. Thực tế trong xã hội đã có những gia đình phó mặc việc giáo dục con cái cho nhà trường, ở nhà giao phó cho người giúp việc. Trong khi đó, giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh ở nhà trường không thể thay thế được vai trò giáo dục của gia đình và cũng đang gặp rất nhiều khó khăn bất cập. Mặt khác, với cách dạy quá nuông chiều con trẻ ở nhiều gia đình, nhất là gia đình thành thị vốn ít con, theo các chuyên gia là không tốt, sẽ dẫn đến hậu quả là con trẻ thiếu kỹ năng sống, vô cảm, vô ơn. Nhiều trẻ không biết cách ứng xử, thậm chí hỗn hào với người lớn, bắt nạt người bé hơn vì quen được nuông chiều, muốn gì được nấy. Khi trưởng thành, những đứa trẻ như vậy thường không chịu được sức ép của cuộc sống, đạo đức không được giáo dục đầy đủ nên luôn đặt cái tôi cá nhân lên trên hết, không còn biết sợ, không đủ nhân ái, vị tha và chia sẻ với người khác... Hiện Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang thực hiện thí điểm Bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình với 4 tiêu chí: Ứng xử vợ chồng; ứng xử của cha mẹ với con, ông bà với cháu; ứng xử của con với cha mẹ, cháu với ông bà; tiêu chí ứng xử của anh, chị, em. Các tiêu chí này góp phần xác định và từng bước đưa vào cuộc sống các chuẩn mực giá trị đạo đức, văn hóa con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, các tiêu chí giúp củng cố ý thức pháp luật, đề cao đạo đức, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân, cộng đồng, xã hội và đất nước, ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức trong Hoàn thiện con người Việt Nam Phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ có phần góp sức của nhà trường. Ảnh: Hoàng Hải/TTXVN Phó Giáo sư, Tiến sỹ Bùi Hoài Sơn, Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) chia sẻ: Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhất là cơn lốc toàn cầu hóa, con người Việt Nam có những biến đổi phức tạp. Một mặt đó là sự nâng cao rõ rệt về trình độ học vấn, sự phát lộ về tài năng, trí tuệ; sự cải thiện đáng kể về thể chất, tầm vóc. Nhưng mặt khác đó là những chuyển biến tiêu cực về đạo đức, lối sống; sự tha hóa về nhân cách; rối loạn về thị hiếu thẩm mỹ; lệch lạc trong nhân sinh quan, thế giới quan… Từ đó đặt ra yêu cầu cấp thiết phải thẳng thắn nhìn nhận, đánh giá kịp thời công cuộc xây dựng con người Việt Nam hiện nay để có những điều chính, đối sách phù hợp, hiệu quả. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xác định: Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, là những chủ thể văn hóa có bản lĩnh, có khả năng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, chủ động hội nhập quốc tế; hướng tới các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học để xây dựng con người Việt Nam có đạo đức, trí tuệ, sức khỏe, có tinh thần nhân văn, ý thức lao động; đề cao trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội… Phó Giáo sư, Tiến sỹ Bùi Hoài Sơn cho rằng, việc xây dựng đạo đức xã hội hiện nay cần được chấn chỉnh, củng cố niềm tin vào chế độ. Trong đó, cần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, khắc phục bệnh thành tích, nói không đi đôi với làm. Các cấp lãnh đạo cần phải làm gương về đạo đức, tư cách, phẩm chất. Gia đình, nhà trường và xã hội cần tăng cường vai trò, trách nhiệm trong giáo dục đạo đức, lối sống, nhân cách. Báo chí cần đề cao trách nhiệm trong đấu tranh chống suy thoái đạo đức, lối sống; tăng cường biểu dương các nhân tố tích cực, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt. Mặt khác, cần đề cao vai trò giáo dục, cảm hóa của văn học nghệ thuật, hướng con người đến chân - thiện - mỹ… Về mặt giáo dục, bồi dưỡng trí tuệ cần triển khai có hiệu quả chương trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của kinh tế tri thức, sự phát triển của khoa học, công nghệ; phối hợp giáo dục trong nhà trường và ngoài nhà trường; ứng dụng công nghệ mới, các phương pháp giáo dục phù hợp. Đối với việc nâng cao thể chất, cần thực hiện tốt chương trình tổng thể nâng cao thể lực, tầm vóc người Việt Nam đến năm 2030; phát động các phong trào tập luyện thể thao, phát huy các thiết chế thể thao ở cơ sở nhằm nâng cao thể chất, tăng tuổi thọ, lành mạnh hóa lối sống của nhân dân. Đặc biệt cần có sự liên kết giữa các ngành chức năng nằm gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống. Đặc biệt, về nâng cao năng lực thẩm mỹ, các ngành chức năng cần triển khai chương trình giáo dục nghệ thuật nhằm nâng cao năng lực cảm thụ, trình độ thẩm mỹ cho người dân, nhất là thế hệ trẻ. Các văn nghệ sỹ cần sáng tạo thêm nhiều tác phẩm nghệ thuật chất lượng cao, góp phần bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm con người; thực hiện tốt chương trình sân khấu học đường; bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Hoài Sơn nhấn mạnh: Bên cạnh các giải pháp hành chính, pháp luật, giáo dục, văn hóa… cần chú trọng việc cải thiện đời sống vật chất của người dân như giải quyết việc làm, nâng cao đời sống, đảm bảo an sinh xã hội, thu hút nhân tài, bổ nhiệm theo năng lực và phẩm chất cá nhân… Bài 2: Hình thành lớp công dân hiểu biết, trí tuệ Ngày 15/10, tại Hà Nội, Báo Ảnh Việt Nam (Thông tấn xã Việt Nam) tổ chức Lễ kỷ niệm 65 năm ngày ra số báo đầu tiên. Chia sẻ:
Từ khóa:
Phát triển con người Việt Nam toàn diện đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư theo tư tưởng Hồ Chí Minh20/08/2021 NGUYỄN HỒNG ĐIỆP* Đặt vấn đề Nhân loại đang chứng kiến những thay đổi vượt bậc trong thời đại công nghệ số của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) và tầm ảnh hưởng sâu rộng của khoa học, công nghệ đếnđời sống con người. Bản chất của CMCN 4.0 chính là việc ứng dụng công nghệ, khoa học dữ liệu vàsử dụng trí tuệ nhân tạo phục vụ sản xuất và cuộc sốngcon người. Nhìn chung, CMCN 4.0 đang có sự tác động sâu sắc đến mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội ở các quốc gia trên toàn thế giới như những gì Giáo sư Klaus Schwab - Người sáng lập và là Chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế thế giới, đã khẳng định: “Chúng ta đang đứng trước thềm một cuộc cách mạng sẽ làm thay đổi căn bản cách chúng ta sống, làm việc, và liên hệ với nhau. Tôi cho là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư này sẽ không giống với bất cứ điều gì nhân loại đã từng trải qua cả về quy mô, phạm vi và độ phức tạp của nó” (Klaus Schwab, 2016, tr. 1). Trong xu hướng chung đó, việc tận dụng cơ hội và khắc phục những thách thức do cuộc cách mạng này đem lại, suy cho cùng phụ thuộc vào con người. Con người có đủ phẩm chất, năng lực sẽ phát huy được những lợi thế và khắc phục được những thách thức do cuộc cách mạng này đem lại. Đối với nước ta, đó là những con người Việt Nam phát triển toàn diện. Hồ Chí Minh không viết tác phẩm riêng bàn về con người, nhưng vấn đề con người là chủ đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người. Trong mọi suy nghĩ và hành động, Hồ Chí Minh luôn đặt con người ở vị trí trung tâm, con người là mục tiêu thiêng liêng, cao cả của sự nghiệp cách mạng mà Người theo đuổi. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là một di sản quý báu, chiều sâu trong tư tưởng đó là triết lí nhân sinh sâu sắc, là tinh thần, là phương pháp luận để giải quyết vấn đề con người, đó là tư tưởng về phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh. Do đó, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện là cơ sở lí luận và phương pháp luận khoa học phát triển con người Việt Nam toàn diện đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0. 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người Việt Nam toàn diện Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện là những luận điểm về mô hình và con đường phát triển con người Việt Nam toàn diện. Mô hình con người Việt Nam phát triển toàn diện được khái quát lên từ sự kế thừa, phát triển các chuẩn mực con người phương Đông trong lịch sử. Trong đó, chủ yếu và trực tiếp nhất, Hồ Chí Minh đã đứng trên các phạm trù triết học Nho giáo về triết lí nhân sinh, đạo đức và tri thức để làm người, cụ thể hóa thành các tiêu chí của con người Việt Nam. Mô hình đó được Hồ Chí Minh cụ thể bằng các tiêu chí về phẩm chất và năng lực: thể lực, trí tuệ, thẩm mĩ, đạo đức. Tuy nhiên, đây mới chỉ là mô hình, tiêu chí để Hồ Chí Minh có một quan niệm về phát triển con người Việt Nam toàn diện. Khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh mới thực sự tìm thấy con đường để phát triển con người toàn diện. Đó chính là những nguyên lí duy vật lịch sử về bản chất con người của triết học Mác - Lênin. Những nguyên lí này là cơ sở lí luận và phương pháp khoa học nhằm phát triển con người toàn diện, mang lại cho con người những phẩm chất, năng lực mới để con người làm chủ ngày càng tốt hơn các quá trình phát triển xã hội. Vì vậy, con đường phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh được nảy sinh, phát triển từ thực tiễn và lại được hệ thống lí luận cách mạng định hướng, soi đường. Chính điều này đã làm cho tư tưởng về phát triển con người của Hồ Chí Minh trở nên khoa học và có giá trị trong phát triển toàn diện con người Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, trước hết muốn phát triển con người Việt Nam toàn diện phải giải phóng họ khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua cách mạng vô sản. Đây là công việc phải thực hiện đầu tiên, tạo điều kiện phát triển con người Việt Nam trong hoàn cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến, dân ta một cổ hai tròng. Con người chỉ có điều kiện phát triển toàn diện khi họ được giải phóng. Vì vậy, nếu nước nhà không được độc lập thì không có tự do, có nghĩa là con người vẫn bị kìm kẹp trong ách áp bức nô lệ cả về thể xác lẫn tinh thần. Muốn giải phóng con người, chúng ta phải tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành độc lập dân tộc, tự do, dân chủ cho nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo ra những điều kiện về vật chất và tinh thần để giải phóng con người về kinh tế, chính trị, xã hội - yếu tố quyết định cho sự phát triển con người Việt Nam toàn diện. Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 12, tr. 30). Theo Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Quan điểm giải phóng con người của Hồ Chí Minh được nâng lên, trở thành tâm điểm của hoạt động cách mạng của Người. Người thể hiện ý chí quyết tâm giải phóng và giành độc lập, tự do cho dân tộc: “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 4, tr. 534). Tiến hành cách mạng vô sản nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp cũng là nhằm mục tiêu giải phóng con người. Người quan niệm, giải phóng dân tộc cũng là nhằm để dân có tự do, hạnh phúc, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 4, tr. 64). Theo Người, xây dựng chủ nghĩa xã hội không chỉ là điều kiện để bảo đảm cho nền độc lập dân tộc và giải phóng giai cấp khỏi áp bức, bóc lột mà còn chính vì “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 11, tr. 60), chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thực hiện được ước mơ lâu đời của nhân dân lao động là vĩnh viễn thoát khỏi cảnh bị áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, để sống một cuộc đời ấm no, tự do, hạnh phúc. Vì vậy, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới tạo ra mọi điều kiện để con người được phát triển toàn diện năng lực của mình. Theo Hồ Chí Minh, phát triển con người toàn diện, họ phải tham gia vào hoạt động đấu tranh cách mạng, phải được tôi luyện và trưởng thành từ phong trào cách mạng. Khi họ tham gia vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ là môi trường quantrọng để thử thách, rèn luyện con người Việt Nam, thông qua đó họ được phát triển về mọi mặt. C.Mác đã nêu lên luận điểm nổi tiếng: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” (C.Mác và Ph.Ăng-ghen, 1995, tập 3, tr. 11). Tiếp thu lí luận về bản chất con người của C.Mác, Hồ Chí Minh có cơ sở phương pháp luận khoa học để phát triển con người Việt Nam toàn diện. Theo đó, việc hình thành những năng lực bản chất người bao giờ cũng phải thông qua các quá trình xã hội hóa, tiếp thu kinh nghiệm, văn hóa vật chất và tinh thần của loài người, thông qua việc tham gia vào các quan hệ xã hội. Tham gia vào nhiều quan hệ xã hội, những quan hệ càng có tính khó khăn, phức tạp bao nhiêu, khi con người thích ứng được nó thì càng phát triển những phẩm chất, năng lực của mình bấy nhiêu - phát triển toàn diện bấy nhiêu. Vì vậy, tham gia tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ chế độ mới là điều kiện hết sức quan trọng để con người Việt Nam trưởng thành về mọi mặt. Vì vậy, thông qua quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài và gian khổ là điều kiện để hàng triệu con người Việt Nam tôi luyện, trưởng thành về mọi mặt, làm cho năng lực nhận thức và hành động của họ không ngừng được nâng cao, tạo ra sự phát triển ngày càng phong phú, hài hòa về nhân cách của con người Việt Nam trong thời đại mới. Quá trình tham gia đấu tranh cách mạng để giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ tác động sâu sắc đến việc hình thành những phẩm chất, năng lực mới của con người Việt Nam, góp phần quyết định tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt - những người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta. Hồ Chí Minh còn khẳng định, phát triển con người toàn diện khi họ tham gia vào hoạt động lao động sản xuất. Khi bàn về vai trò của lao động với sự hình thành và phát triển con người, Ph.Ăngghen đã chỉ ra: “Trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra chính bản thân con người” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995, tập 20, tr. 641). Điều đó có nghĩa là, bằng lao động và thông qua lao động mà các cơ quan của cơ thể con người được phát triển hoàn thiện, đồng thời với đó là tư duy, ý thức, năng lực của con người cũng phát triển theo sự phát triển của quá trình lao động sản xuất. Tiếp thu quan điểm của các nhà lí luận mácxít, Hồ Chí Minh cho rằng, thông qua lao động sản xuất vật chất, trước hết sức khỏe, thể lực con người được nâng lên, không những làm cho con người “quen gian khổ” mà còn có ích cho sức khỏe của họ, “do lao động, sức khỏe tăng hơn” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 11, tr. 594). Không những thế, thông qua lao động mà con người biết quý trọng sức lao động và giá trị sản phẩm do lao động tạo ra, biết tôn trọng những người lao động và từ đó biết tự làm lấy để sinh sống,... Người khẳng định vai trò của lao động sản xuất với sự phát triển toàn diện của con người: “Một là làm cho họ biết kính trọng sự cần lao. Hai là tập cho họ quen gian khổ. Ba là cho họ cái chí khí tự thực kỉ lực” (làm lấy mà ăn) không ăn bám xã hội” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 5, tr. 121). Sự phát triển của nhận thức con người phát triển cùng với sự phát triển của lao động, Người viết: “Hoạt động sản xuất của xã hội phát triển từng bước, từ thấp đến cao. Vì vậy, sự hiểu biết của người ta (về giới tự nhiên, cũng như về xã hội) cũng phát triển từng bước, từ thấp đến cao, từ cạn đến sâu, từ một mặt đến toàn diện” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 7, tr. 121). Trong quá trình phát triển của lao động sản xuất ấy, giới tự nhiên dần bộc lộ ra những quy luật, những thuộc tính, những tri thức để con người hiểu biết sâu hơn về giới tự nhiên làm cho nhận thức của con người phát triển từ thấp đến cao, từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều,... Người viết: “Do sự sản xuất vật chất mà người ta hiểu biết dần dần các hiện tượng, các tính chất, các quy luật và mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên. Lại do hoạt động sản xuất mà dần dần hiểu rõ mối quan hệ giữa người này với người khác” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 7, tr. 121). Như vậy, sự phát triển về tri thức và năng lực là thước đo đánh giá sự phát triển của con người, theo Người, thông qua lao động sản xuất, sức khỏe, lí tưởng cách mạng, ý chí, nghị lực, lòng nhiệt tình, cũng như tài năng của con người ngày càng trưởng thành về mọi mặt. Khi tham gia vào quá trình sản xuất xã hội, con người càng thấy giá trị của lao động, biết quý trọng những sản phẩm do những người lao động đổ mồ hôi, nước mắt làm ra, qua đó nâng cao ý thức cần, kiệm cho bản thân đồng thời biết trân trọng, yêu quý những người lao động chủ nhân của xã hội mới. Xây dựng và phát triển một nền giáo dục mới là con đường cơ bản để phát triển con người toàn diện. Giáo dục, đào tạo có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người nói chung và toàn diện của con người nói riêng. Có thể nói đây là một trong những phương thức cơ bản nhất mà loài người đã sử dụng trong suốt mấy nghìn năm qua để đào tạo, phát triển nhiều thế hệ người, đáp ứng những yêu cầu đặt ra trong tiến trình phát triển của nhân loại. Là người thầy vĩ đại của dân tộc, Hồ Chí Minh có niềm tin vào sức mạnh của một nền giáo dục mới nhằm tạo ra những con người mới xã hội chủ nghĩa, phát triển toàn diện. Hồ Chí Minh khẳng định: “Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn/Phần nhiều do giáo dục mà nên” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 3, tr. 413). Vì vậy, cần phải tiến hành đổi mới nền giáo dục cũ và phải tiến hành giáo dục, đào tạo một cách khoa học và chu đáo. Người chỉ rõ: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải bồi dưỡng con người xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, theo Hồ Chí Minh, nội dung giáo dục toàn diện cả về chính trị, quân sự, văn hóa, đạo đức, khoa học, kĩ thuật,... của nền giáo dục mới sẽ cung cấp cho con người tri thức toàn diện, rèn luyện cho con người năng lực toàn diện để tự tin bước vào xã hội mới. Người viết: “Trong giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kĩ thuật, lao động sản xuất” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 12, tr. 647). Nội dung giáo dục này cũng tạo điều kiện để con người Việt Nam vươn lên chiếm lĩnh những giá trị cao quý, tinh hoa của văn hóa dân tộc và nhân loại, trau dồi vốn hiểu biết về thời đại, về khoa học kĩ thuật cơ bản, thiết thực, vững chắc, đồng thời rèn luyện thói quen, kĩ năng lao động và thực hành,... tạo ra sự phát triển hài hòa các sức mạnh của lí trí, tình cảm và ý chí, của kiến thức, kĩ năng và thái độ của con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, góp phần quan trọng cho sự ra đời và phát triển con người Việt Nam toàn diện. Theo Hồ Chí Minh, phát triển con người toàn diện khi có sự chủ động, tích cực, tự giác rèn luyện, vươn lên của cá nhân. Khi bàn về mối quan hệ giữa điều kiện, hoàn cảnh với con người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra: “Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995, tập 3, tr. 55). Như vậy, giữa sự biến đổi của hoàn cảnh và con người có quan hệ biện chứng lẫn nhau. Điều kiện, hoàn cảnh càng thuận lợi bao nhiêu thì con người càng phát triển bấy nhiêu, con người muốn phát triển toàn diện bao nhiêu, thì phải tạo ra hoàn cảnh, điều kiện thuận lợi bấy nhiêu. Tuy nhiên, trong điều kiện, hoàn cảnh dù có thuận lợi đến mấy nhưng không có sự nỗ lực, cố gắng của chủ thể thì hiệu suất của quá trình tiếp nhận và chuyển hóa hệ thống các giá trị xã hội thông qua quá trình xã hội hóa các quan hệ xã hội thành những năng lực của chủ thể sẽ không cao. Sự tác động của môi trường tự nhiên và xã hội đến sự phát triển con người diễn ra thường xuyên trên cả hai bình diện thể lực và trí tuệ, năng lực nhận thức, năng lực hành động. Song, cùng một môi trường sống như nhau, nhưng ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội đối với sự phát triển của mỗi con người, mỗi cá nhân lại không giống nhau. Nói cách khác, khả năng tiếp nhận chuyển hóa của các nhân tố khách quan với từng chủ thể có khác nhau, tùy thuộc vào nhận thức, sự nỗ lực, tự giác và năng lực của mỗi chủ thể đó. Trên cơ sở lí luận đó, Hồ Chí Minh hết sức đề cao yếu tố tự giác rèn luyện, vươn lên của các cá nhân trong sự phát triển toàn diện của mỗi con người. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển toàn diện con người. Bằng kinh nghiệm của bản thân, bằng những hiểu biết sâu sắc về mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố chủ quan và khách quan cũng như bằng sự nghiên cứu, tổng kết lịch sử, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 3, tr. 596). Suy rộng ra nghĩa là trong sự phát triển các phẩm chất, năng lực mọi mặt của con người, các nhân tố khách quan dù quan trọng đến đâu cũng không thể thay thế được nhân tố chủ quan, không thể thay thế được sự tự giác vươn lên về mọi mặt của các cá nhân. Con người với tư cách là chủ thể trong sự phát triển của nó, luôn là nhân tố cơ bản để hình thành nên những nhân cách vẹn toàn, những cá nhân phát triển toàn diện. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, trong việc phát triển toàn diện các phẩm chất, năng lực của con người Việt Nam, cần phải đặc biệt chú ý đến phát triển ý thức tự giác, tinh thần tự lập, tự cường, năng lực tự vươn lên không biết mệt mỏi của con người. Hồ Chí Minh viết: “Phải dạy cho họ có chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 5, tr. 120). Thực chất của triết lí phát triển con người của Hồ Chí Minh là tạo ra mọi điều kiện xã hội thuận lợi, từ đó tạo ra những cơ hội để mọi người được tham gia vào các quan hệ xã hội, qua đó phát triển, phát huy những năng lực của mình đáp ứng yêu cầu của phát triển xã hội. Thông qua đó con người cũng được rèn luyện, trải nghiệm để họ nhận thức được sự cần thiết phải có ý thức tự giác, tích cực chủ động trong phát triển mình và phát triển xã hội. Đó như là những vấn đề có tính quy luật trong phát triển toàn diện con người Việt Nam. Hiện nay, thế giới đã bước vào thời kì của cuộc CMCN 4.0, nó đã, đang và sẽ tác động sâu sắc tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, để giải quyết những vấn đề thuận lợi và thách thức do cuộc cách mạng này mang lại, suy cho cùng là giải quyết vấn đề con người, trong đó con người Việt Nam phát triển toàn diện là một trong những vấn đề trọng tâm để đất nước ta tận dụng cơ hội nhằm phát triển đất nước cũng như phát triển con người Việt Nam. Theo đó, cần thấy được những yêu cầu về phẩm chất, năng lực của con người Việt Nam do cuộc CMCN 4.0 đặt ra, từ đó nghiên cứu những vấn đề có tính quy luật trong phát triển con người của Hồ Chí Minh vào xây dựng chiến lược con người ở nước ta đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng mới. 2. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những yêu cầu về phẩm chất, năng lực của con người Việt Nam hiện nay Thế giới đã trải qua ba cuộc cách mạng công nghiệp với các bước phát triển nhảy vọt về khoa học, công nghệ và hiện nay đang bước vào CMCN 4.0. Bản chất của cuộc cách mạng này là dựa trên nền tảng công nghệ số và sự tích hợp các công nghệ thông minh trên lĩnh vực vật lí và sinh học với trung tâm là sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI), vạn vật kết nối (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), công nghệ na-nô,... Những lĩnh vực của cuộc cách mạng này đặt ra những yêu cầu cho con người Việt Nam trên một số lĩnh vực như sau: Thứ nhất, con người có trình độ và kĩ năng lao động cao đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0 trong khi trình độ lao động, thói quen xấu, kỉ luật lao động và khả năng làm việc nhóm của không ít người dân Việt Nam còn ở trình độ thấp. Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ trong CMCN 4.0, nó sẽ làm thay đổi bản chất của công việc một cách đáng kể đối với tất cả các ngành, nghề. Yêu cầu về trình độ lao động, kĩ năng lao động đặt lên hàng đầu để thích ứng với máy móc, phương tiện kĩ thuật hiện đại, đi kèm với đó là mức độ chuyên môn hóa ngày càng cao, đòi hỏi khả năng làm việc độc lập và khả năng làm việc nhóm, ý thức kỉ luật lao động. Trong khi chúng ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, con người Việt Nam bên cạnh những đức tính, phẩm chất tốt vẫn còn nhiều thói quen xấu như cơ hội chủ nghĩa, bè phái; hám danh; thiếu ý thức tuân thủ pháp luật; lãng phí; khả năng làm việc tập thể chưa cao,... Đây là những yếu điểm, đồng thời là những thách thức khiến chúng ta đánh mất các cơ hội do cuộc CMCN 4.0 đem lại, dẫn đến tụt hậu so với các nước khác. Thứ hai, sự xuất hiện nhiều ngành nghề mới do CMCN 4.0 đem lại, đòi hỏi khả năng thích ứng của con người Việt Nam. Sự phát triển và ứng dụng nhanh chóng của các công nghệ hiện đại từ cuộc CMCN 4.0 mà tâm điểm là việc hình thành các nhà máy thông minh, nhà máy số - nơi mà máy móc, thiết bị sẽ được kết nối, tự động ra quyết định toàn bộ hoạt động của nhà máy từ khâu thu thập, phân tích yêu cầu, xây dựng kế hoạch sản xuất. Do đó, lao động máy móc và tự động hóa sẽ thay thế lao động chân tay, một mặt nó đòi hỏi về chất lượng con người, nhưng mặt khác, nó cũng thay đổi phương thức lao động của con người, khiến nhiều ngành nghề truyền thống sẽ mất đi, nhiều lĩnh vực lao động mới xuất hiện, thời gian xuất hiện và mất đi có khi diễn ra rất ngắn. Điều này đòi hỏi con người phải có đủ phẩm chất và năng lực để thích nghi. Trong khi đó, không ít người Việt Nam vừa có trình độ lao động thấp, nhưng lại bị ảnh hưởng bởi tư tưởng bảo thủ, trì trệ, sẽ khó có khả năng thích nghi với sự biến đổi nhanh chóng của phương thức lao động mới này. Thứ ba, khả năng thực hành, khả năng ngoại ngữ và khả năng thích nghi môi trường cạnh tranh công nghiệp của con người Việt Nam. Cuộc CMCN 4.0 làm cho thế giới ngày càng “phẳng” hơn, nghĩa là các quốc gia, dân tộc xích lại gần nhau hơn, mức độ liên kết chặt chẽ hơn, do đó, đòi hỏi các cá nhân phải thông hiểu ngoại ngữ để trao đổi, liên kết trong công việc. Bên cạnh đó, năng lực thực hành đòi hỏi hiện hữu và trực tiếp nhất đối với người lao động, trong cuộc cách CMCN 4.0, cuộc cạnh tranh phát triển giữa các nước ngày càng khốc liệt hơn, do chính nhân tố kinh tế quy định. Trong khi đó khả năng ngoại ngữ của chúng ta còn khá thấp, công tác đào tạo hiện nay chưa phù hợp về cả số lượng và chất lượng. Đào tạo cao đẳng và đại học vẫn chiếm tỉ lệ lớn, đây là nguyên nhân dẫn đến việc thừa thầy thiếu thợ. Phương thức giảng dạy vẫn còn lạc hậu, chưa áp dụng các công nghệ hiện đại mới. Trong công tác xây dựng chương trình giảng dạy còn thiếu các chương trình thực tế, dẫn đến thiếu cơ hội cho người học áp dụng những kiến thức được học trong nhà trường vào các vấn đề cụ thể của xã hội. Với tâm lí bằng cấp, hầu hết người học đều lựa chọn học đại học hoặc sau đại học mà không chú trọng đến nhu cầu nhân lực cũng như học nghề, điều này dẫn đến tình trạng thừa thầy thiếu thợ hiện nay và tình trạng người lao động có bằng đại học nhưng chấp nhận làm những công việc không cần chuyên môn kĩ thuật,... Thứ tư, yêu cầu về sự hoàn thiện giá trị con người Việt Nam với sự đứt gãy hệ giá trị, chuẩn mực văn hóa giữa các thế hệ do mặt trái của CMCN 4.0 tạo ra. Trong thời kì bùng nổ công nghệ thông tin, sự phát triển nhanh như vũ bão của internet, mạng xã hội; báo điện tử; kênh truyền hình giải trí;… mang lại những thông tin bổ ích, tạo điều kiện cho con người tiếp cận thông tin thuận tiện, dễ dàng; khả năng chia sẻ, kết nối cao,… Bên cạnh đó cũng để lại nhiều hệ lụy như: nạn nghiện game online; sự gia tăng ngôn ngữ tiếng lóng, ngôn từ kí hiệu làm méo mó và mất đi sự trong sáng của tiếng Việt,...khiến mỗi cá nhân là một không gian khép kín thiếu sự gắn kết, chia sẻ giữa các thành viên, thiếu sự quan tâm đến các vấn đề xã hội và làm giảm trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng. Những rạn nứt trong cung cách ứng xử, lối sống giữa các thế hệ trong cùng một gia đình diễn biến phức tạp, nhiều mâu thuẫn khó có thể điều hòa. Bạo hành gia đình giữa vợ - chồng, cha mẹ - con cái; tranh giành tài sản đất đai,… tạo ra những rào cản, xung đột ngầm giữa các thế hệ trong bối cảnh chuyển đổi, tìm kiếm và thiết lập những mô hình gia đình phù hợp. 3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào phát triển con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện, cần vận dụng vào phát triển con người Việt Nam toàn diện, để đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0, cần tập trung vào một số vấn đề sau: Thứ nhất, cần phải có chiến lược phát triển con người Việt Nam trong thời đại CMCN 4.0. Đảng ta đã nhận thức rõ vấn đề này và khẳng định: “Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Đoàn kết và xây dựng hệ giá trị chung của con người Việt Nam trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, tr. 223). Tuy nhiên, khi xây dựng chiến lược này phải quán triệt di huấn của Người trong bản Di chúc thiêng liêng: “Đầu tiên là công việc đối với con người” (Hồ Chí Minh, 2011, tập 15, tr. 616). Vì vậy, mọi chủ trương, chính sách trong chiến lược phát triển con người của Đảng phải luôn hướng đến con người, tất cả vì con người và phải coi “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, tr. 76 - 77) trong sự phát triển của xã hội. Chủ trương, chính sách này phải cụ thể, rõ ràng trong việc xác định mục đích, tiêu chuẩn, nguyên tắc cho các tổ chức, cá nhân theo đó thực hiện. Vì vậy, trước hết, cần phải đổi mới tư duy và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng con người trong thời đại CMCN 4.0, đó là: “Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về sự cấp thiết phải chủ động tham gia tích cực và có hiệu quả cuộc CMCN 4.0, coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm” (Bộ Chính trị, 2019). Đồng thời, xây dựng cơ chế phối hợp và chia sẻ trách nhiệm giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa để nâng cao chất lượng và hiệu của việc xây dựng con người. Theo đó: “Nhà nước ưu tiên chuyển giao và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ mới trong các ngành, lĩnh vực; có trách nhiệm thúc đẩy nghiên cứu khoa học, công nghệ, tạo môi trường thuận lợi và hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm để người dân và doanh nghiệp là các chủ thể quyết định tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” (Bộ Chính trị, 2019). Thứ hai, cần xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam trong thời đại CMCN 4.0. Tức là phải: “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, tr. 126 - 127). Phải xây dựng được hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam trong thời đại mới thì mới có căn cứ để xây dựng con người. Các hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam phải vừa phù hợp với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, vừa phải phù hợp với những giá trị văn hóa của thời đại nhằm xây dựng con người Việt Nam với đầy đủ phẩm chất và năng lực, vừa phải mang tính dân tộc, hiện đại, nhân văn; vừa có khả năng đảm nhiệm những trọng trách mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Hệ giá trị chuẩn này là cơ sở để các lĩnh vực: văn hóa, y tế, giáo dục,… các cấp, các ngành có căn cứ để vun đắp cho con người Việt Nam những giá trị, tùy theo lĩnh vực hoạt động của mình. Đi đôi với đó phải có cơ chế để “đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực,… làm tha hóa con người. Có giải pháp khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2014, tr. 51). Thứ ba, chủ động tiếp nhận và tận dụng tối đa mọi điều kiện của cuộc CMCN 4.0 đem lại để phát triển con người Việt Nam. Cuộc CMCN 4.0 mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân; đã và đang tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội đất nước. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nghiên cứu nắm bắt, nâng cao năng lực tiếp cận và chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị về nâng cao năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0 và phê duyệt Đề án thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ. Tuy vậy, “mức độ chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0 ở nước ta còn thấp” (Bộ Chính trị, 2019). Theo đó, chủ động, tích cực tham gia cuộc CMCN 4.0 là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng; tận dụng có hiệu quả các cơ hội do cuộc CMCN 4.0 đem lại để thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân. Cần tập trung tận dụng mọi thành tựu để phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập, nâng cao mức sống cho nhân dân, qua đó tạo ra những điều kiện vật chất phục vụ cho con người phát triển thông qua việc đáp ứng tốt các nhu cầu của con người, đồng thời tạo cơ hội bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng trong cả nước. Đây là những cơ hội cho con người cải thiện điều kiện sinh hoạt vật chất của mình làm nền tảng để phát triển toàn diện. Tuy nhiên, phát triển kinh tế phải gắn với phát triển văn hóa mới tạo ra sự phát triển bền vững, như vậy, đi đôi với việc phát triển kinh tế phải phát triển văn hóa. Thứ tư, phải chăm lo phát triển văn hóa. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh làm cho xã hội phát triển bền vững, văn hóa còn nuôi dưỡng các giá trị của con người, là thước đo trình độ phát triển con người, làm cho con người phát triển toàn diện. Từ vai trò của văn hóa đối với sự phát triển con người và xã hội, phải quán triệt và thực hiện tốt 5 mục tiêu, 6 nhiệm vụ và 4 giải pháp mà Nghị quyết TW 9 khóa XI đề ra, trong đó tập trung: “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2014, tr. 48). Như vậy, để có thể tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa cần phải tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng văn hóa trong kinh tế và chính trị, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng, hoàn thiện đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa. Thứ năm, kiên trì thực hiện đổi mới toàn diện nền giáo dục Việt Nam. Cuộc CMCN 4.0 đòi hỏi những con người có năng lực tư duy và sáng tạo, đổi mới, có kĩ năng phân tích và tổng hợp thông tin, có khả năng làm việc độc lập và ra quyết định dựa trên cơ sở phân tích các dữ liệu. Nếu người học được trang bị kiến thức rộng, trang bị năng lực tư duy, năng lực diễn đạt, ... thì sẽ thành công hơn trong cuộc sống. Định hướng đổi mới giáo dục theo hướng “khai phóng” đã trở thành triết lí hiện đại mà nhiều trường đại học hàng đầu trên thế giới theo đuổi. Theo đó, trong giáo dục phải “Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển năng lực và phẩm chất người học” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, tr. 115). Đó là, cần đề cao yếu tố con người, hướng tới phát huy tối đa khả năng sáng tạo của cá nhân, giải phóng tư duy, khơi gợi sự sáng tạo bên trong bộ óc con người, tạo điều kiện cho họ phát huy hết khả năng cá nhân. Đó là: “Đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số; lấy đánh giá của doanh nghiệp làm thước đo cho chất lượng đào tạo của các trường đại học trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Khuyến khích các mô hình giáo dục, đào tạo mới dựa trên các nền tảng số” (Bộ Chính trị, 2019). Như vậy, trong quá trình giáo dục phải trang bị cho người học khả năng vận dụng kiến thức trong nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết một vấn đề nan giải. Thay vì chỉ đào sâu trong một lĩnh vực cụ thể, người học theo định hướng khai phóng sẽ tìm tòi, khám phá các vấn đề, ý tưởng, các phương pháp giải quyết trên nhiều lĩnh vực rộng khắp, từ nghệ thuật, văn học, ngôn ngữ, đến triết học, lịch sử, toán học và khoa học. Dành nhiều thời gian dạy người học về phương pháp, kĩ năng, cách tự học, dạy cách sử dụng, khai thác các thiết bị, gắn lí thuyết với thực hành,… và dạy làm người với mục đích người được đào tạo có khả năng thích ứng nhanh với hoàn cảnh, có khả năng học tập suốt đời và có trách nhiệm cao với gia đình, xã hội và Tổ quốc. Kết luận Cuộc CMCN 4.0 đã và đang tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó vừa đặt ra những yêu cầu mới cho sự phát triển của con người, đồng thời cũng tạo ra những tiền đề, điều kiện thuận lợi cho việc phát triển con người ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện vẫn còn nguyên các giá trị lịch sử và đương đại sâu sắc. Tư tưởng ấy là cơ sở, là kim chỉ nam cho Đảng ta hoạch định chiến lược phát triển con người Việt Nam trong thời kì mới... Tuy nhiên, cũng cần hiểu rằng, giá trị của tư tưởng đó phải được vận dụng và cụ thể hóa trong điều kiện mới hiện nay. Tài liệu tham khảo 1. Bộ Chính trị. 2019. Nghị quyết về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, số 52-NQ/TW. Hà Nội. 2. C. Mác và Ph.Ăngghen. 1995. Toàn tập. Tập 3, 5. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội. 3. Nguyễn Hữu Công. 2010. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2011. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật. Hà Nội. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2014. Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành trung ương khóa XI. Văn phòng Trung ương Đảng. Hà Nội. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2016. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật. Hà Nội. 7. Hồ Chí Minh. 2011. Toàn tập. Tập 3, 4, 5, 7, 11, 12, 15, 20. Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật. Hà Nội 8. Klaus Schwab. 2016. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Dịch bởi Đồng Bích Ngọc và Trần Thị Mỹ Anh. * TS.; Khoa Triết học Mác - Lênin, Trường Đại học Chính trị - Bộ Quốc phòng. Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 1 (112) 2021 In bài viết Gửi EmailCác tin đã đưa ngày: Vì sao phải xây dựng con người mớiAdmin - 21/05/2021 277 Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới đã trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển bền vững của đất nước. Ảnh: KHÁNH ANSinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định con người là vốn quý nhất và lấy việc chăm lo hạnh phúc của con người là mục tiêu cao nhất. Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ, Người đã nói đến Con người và trong Di chúc, Người đã khẳng định “đầu tiên là công việc đối với con người”. Bạn đang xem: Vì sao phải xây dựng con người mới Trong toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đặt lên hàng đầu chiến lược xây dựng và phát triển con người, bởi vì “chúng ta cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2007- trang 345). Nhất quán tư tưởng sâu sắc và nhận thức quan trọng trên, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (1-2016), một lần nữa đã xác định một nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt nhiệm kỳ là: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII - Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016). Trước tình hình và đặc điểm mới, phức tạp hiện nay và những năm sắp tới, đây là nhiệm vụ cực kỳ to lớn, nặng nề, đồng thời là một thách thức gay gắt đối với toàn Đảng, toàn dân ta. Hoàn thành tốt hay không nhiệm vụ trọng tâm đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ các lĩnh vực trọng yếu của đời sống đất nước. Cũng có người nghĩ rằng, vấn đề con người chỉ được đặt trong một mục cụ thể của Báo cáo chính trị tại Đại hội, mục VII “xây dựng phát triển văn hóa, con người” và gói gọn nhân tố con người trong phần văn hóa. Nhận thức đó chưa thấu hiểu hết tinh thần và nội dung của văn kiện này. Trong hầu hết các phần của văn kiện, từ kinh tế đến xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, từ hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đến phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ tăng cường quốc phòng, an ninh đến đổi mới giáo dục, đào tạo và phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, từ phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đến quản lý phát triển xã hội..., nhân tố con người đều được coi trọng hàng đầu và khẳng định là động lực, giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của các lĩnh vực trên. Vì thế, cái mới trong văn kiện lần này là xác định dứt khoát nhân tố và nguồn lực con người là một trong ba đột phá chiến lược: “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”. Thực chất quan điểm này gắn liền với lý thuyết về vốn con người (hay có người còn gọi là tư bản người). Nhiều quốc gia coi việc đầu tư “vô hình” này là chính sách ưu tiên hàng đầu bảo đảm cho phát triển bền vững. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều quan điểm, tư tưởng lớn của Đảng về vị thế đặc biệt quan trọng của con người trong thời kỳ mới của sự phát triển đất nước được trình bày cô đúc với những đòi hỏi rất cao thể hiện trong các chương mục của văn kiện. Trước hết, văn kiện xác định mục tiêu “xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. Các nội dung trên đây thể hiện khát vọng sâu xa không chỉ của Đảng, mà của toàn dân tộc ta trong điều kiện chúng ta đang phải đấu tranh kiên quyết, kiên trì, không nao núng trước những biểu hiện tiêu cực, thoái hóa, biến chất của một bộ phận con người trong xã hội đang biến đổi phức tạp ngày hôm nay. Cái mới của quan điểm trên còn ở chỗ: nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam không chỉ vì bản thân họ, mà sâu xa hơn, phải coi con người Việt Nam là trọng tâm của sự phát triển và phải "trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển" bền vững của đất nước. Xem thêm: Thông Tư Hướng Dẫn Hợp Đồng Trong Xây Dựng, Thông Tư 07/2016/Tt Những giá trị gì tạo nên sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế? Văn kiện Đại hội đã gợi mở, Đảng, Nhà nước và xã hội cần tạo môi trường và điều kiện để con người “phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”. Đó là những giá trị cần có để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ mới, trong đó, phải chỉ ra rằng, có những giá trị đòi hỏi rất cao, rất kiên trì sự rèn luyện, giáo dục, tự trui rèn của mỗi con người mới hy vọng đạt được. Mặt khác, đây là một quá trình rất lâu dài, diễn ra một cuộc đấu tranh thầm lặng nhưng quyết liệt trong mỗi con người, mỗi gia đình và cả cộng đồng để từng bước “đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” (văn kiện - tr. 126). Để làm được điều đó cần nhận thức rõ các nội dung lớn sau đây: một là, kiên quyết bảo vệ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững của dân tộc đã được hun đúc trong tiến trình lịch sử dân tộc; hai là, chắt chiu, nuôi dưỡng, chăm lo, bảo vệ, khẳng định những nhân tố mới, các giá trị mới của con người Việt Nam thời kỳ lịch sử mới đang xuất hiện và trưởng thành trong cuộc sống; và ba là, tỉnh táo khắc phục, vượt qua những hạn chế lịch sử vốn có và những thói hư, tật xấu, cái ác, cái thấp hèn, sự thoái hóa, biến chất đang diễn ra hiện nay. Văn kiện đã xác định rõ các nội dung trên, coi đó là con đường phải đi qua để xây dựng hệ giá trị của con người Việt Nam đương đại: “khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng, đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu,…” và “khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam” (Văn kiện - tr.127). Với ý nghĩa đó, mục tiêu cao cả của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới là tìm con đường để con người trở nên NGƯỜI NHẤT và làm cho hoàn cảnh không làm tha hóa con người, phải trở nên nhân đạo hơn với con người, như có lần C. Mác khẳng định. Bằng con đường nào, giải pháp chủ yếu nào để có thể đào tạo, xây dựng được các thế hệ con người Việt Nam phát triển toàn diện? Văn kiện Đại hội XII đặt nhiệm vụ lớn lao, nặng nề đó cho toàn xã hội, song, trước hết cho lĩnh vực được khẳng định là quốc sách hàng đầu - đó là giáo dục, đào tạo. Nhằm thực hiện được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, Đại hội yêu cầu một sự chuyển hướng quan trọng nhất đối với giáo dục là “chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học” (văn kiện - tr.114). Tư tưởng này đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới sâu sắc, toàn diện tư duy, năng lực chỉ đạo và tổ chức lĩnh vực giáo dục, vượt qua những “căn bệnh” đã tồn tại từ lâu trên lĩnh vực này như chất lượng, hiệu quả giáo dục còn thấp, chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc, nặng lý thuyết, nhẹ thực hành,… Giáo dục, đào tạo phải tạo cho được sự phát triển của con người, đặc biệt của thế hệ trẻ, thông qua quá trình giáo dục nhằm phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo, phẩm hạnh, nhân cách của mỗi cá nhân, tạo cho bằng được những thế hệ con người Việt Nam “yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả” (Văn kiện - tr. 115). Con người phát triển hay bị tha hóa, biến chất phụ thuộc vào môi trường văn hóa - nơi con người sinh sống, lao động, học tập, quan hệ cộng đồng. Vì vậy, nói đến xây dựng đời sống văn hóa, trước hết là xây dựng môi trường văn hóa cho con người, vì con người, kể từ môi trường trực tiếp và nhỏ nhất như gia đình, thôn xóm, bản làng, các đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu,… Nghĩa là, để có được nhân cách văn hóa phát triển đúng hướng và toàn diện, phải văn hóa hóa toàn bộ hoạt động và quan hệ đa dạng của con người trong xã hội. Xuất phát từ quan điểm đó, Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Xây dựng môi trường văn hóa, đời sống văn hóa lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, khu công nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống” (Văn kiện - tr. 127 - 128). Từ nhận thức trên, văn kiện Đại hội, đặc biệt trong phần “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh…” và phần “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” đã rất chú trọng và nhấn mạnh đến nhiệm vụ “tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng” trong cán bộ, đảng viên và quan tâm toàn diện đến nhiệm vụ bồi dưỡng, xây dựng, phát triển và phát huy các giai cấp, giai tầng xã hội: giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, đồng bào định cư ở nước ngoài,… Làm tốt các nhiệm vụ cụ thể trên chính là con đường tốt nhất để đào tạo, xây đắp con người Việt Nam đương đại, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước thời kỳ mới. Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới đã trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển bền vững của đất nước. Ảnh: KHÁNH ANSinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định con người là vốn quý nhất và lấy việc chăm lo hạnh phúc của con người là mục tiêu cao nhất. Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ, Người đã nói đến Con người và trong Di chúc, Người đã khẳng định “đầu tiên là công việc đối với con người”. Bạn đang xem: Vì sao phải xây dựng con người mới Trong toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đặt lên hàng đầu chiến lược xây dựng và phát triển con người, bởi vì “chúng ta cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2007- trang 345). Nhất quán tư tưởng sâu sắc và nhận thức quan trọng trên, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (1-2016), một lần nữa đã xác định một nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt nhiệm kỳ là: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII - Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016). Trước tình hình và đặc điểm mới, phức tạp hiện nay và những năm sắp tới, đây là nhiệm vụ cực kỳ to lớn, nặng nề, đồng thời là một thách thức gay gắt đối với toàn Đảng, toàn dân ta. Hoàn thành tốt hay không nhiệm vụ trọng tâm đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ các lĩnh vực trọng yếu của đời sống đất nước. Cũng có người nghĩ rằng, vấn đề con người chỉ được đặt trong một mục cụ thể của Báo cáo chính trị tại Đại hội, mục VII “xây dựng phát triển văn hóa, con người” và gói gọn nhân tố con người trong phần văn hóa. Nhận thức đó chưa thấu hiểu hết tinh thần và nội dung của văn kiện này. Trong hầu hết các phần của văn kiện, từ kinh tế đến xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, từ hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đến phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ tăng cường quốc phòng, an ninh đến đổi mới giáo dục, đào tạo và phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, từ phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đến quản lý phát triển xã hội..., nhân tố con người đều được coi trọng hàng đầu và khẳng định là động lực, giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của các lĩnh vực trên. Vì thế, cái mới trong văn kiện lần này là xác định dứt khoát nhân tố và nguồn lực con người là một trong ba đột phá chiến lược: “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”. Thực chất quan điểm này gắn liền với lý thuyết về vốn con người (hay có người còn gọi là tư bản người). Nhiều quốc gia coi việc đầu tư “vô hình” này là chính sách ưu tiên hàng đầu bảo đảm cho phát triển bền vững. Chúng ta có thể tìm thấy nhiều quan điểm, tư tưởng lớn của Đảng về vị thế đặc biệt quan trọng của con người trong thời kỳ mới của sự phát triển đất nước được trình bày cô đúc với những đòi hỏi rất cao thể hiện trong các chương mục của văn kiện. Trước hết, văn kiện xác định mục tiêu “xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. Các nội dung trên đây thể hiện khát vọng sâu xa không chỉ của Đảng, mà của toàn dân tộc ta trong điều kiện chúng ta đang phải đấu tranh kiên quyết, kiên trì, không nao núng trước những biểu hiện tiêu cực, thoái hóa, biến chất của một bộ phận con người trong xã hội đang biến đổi phức tạp ngày hôm nay. Cái mới của quan điểm trên còn ở chỗ: nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam không chỉ vì bản thân họ, mà sâu xa hơn, phải coi con người Việt Nam là trọng tâm của sự phát triển và phải "trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển" bền vững của đất nước. Xem thêm: Thông Tư Hướng Dẫn Hợp Đồng Trong Xây Dựng, Thông Tư 07/2016/Tt Những giá trị gì tạo nên sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế? Văn kiện Đại hội đã gợi mở, Đảng, Nhà nước và xã hội cần tạo môi trường và điều kiện để con người “phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”. Đó là những giá trị cần có để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ mới, trong đó, phải chỉ ra rằng, có những giá trị đòi hỏi rất cao, rất kiên trì sự rèn luyện, giáo dục, tự trui rèn của mỗi con người mới hy vọng đạt được. Mặt khác, đây là một quá trình rất lâu dài, diễn ra một cuộc đấu tranh thầm lặng nhưng quyết liệt trong mỗi con người, mỗi gia đình và cả cộng đồng để từng bước “đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” (văn kiện - tr. 126). Để làm được điều đó cần nhận thức rõ các nội dung lớn sau đây: một là, kiên quyết bảo vệ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững của dân tộc đã được hun đúc trong tiến trình lịch sử dân tộc; hai là, chắt chiu, nuôi dưỡng, chăm lo, bảo vệ, khẳng định những nhân tố mới, các giá trị mới của con người Việt Nam thời kỳ lịch sử mới đang xuất hiện và trưởng thành trong cuộc sống; và ba là, tỉnh táo khắc phục, vượt qua những hạn chế lịch sử vốn có và những thói hư, tật xấu, cái ác, cái thấp hèn, sự thoái hóa, biến chất đang diễn ra hiện nay. Văn kiện đã xác định rõ các nội dung trên, coi đó là con đường phải đi qua để xây dựng hệ giá trị của con người Việt Nam đương đại: “khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng, đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu,…” và “khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam” (Văn kiện - tr.127). Với ý nghĩa đó, mục tiêu cao cả của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới là tìm con đường để con người trở nên NGƯỜI NHẤT và làm cho hoàn cảnh không làm tha hóa con người, phải trở nên nhân đạo hơn với con người, như có lần C. Mác khẳng định. Bằng con đường nào, giải pháp chủ yếu nào để có thể đào tạo, xây dựng được các thế hệ con người Việt Nam phát triển toàn diện? Văn kiện Đại hội XII đặt nhiệm vụ lớn lao, nặng nề đó cho toàn xã hội, song, trước hết cho lĩnh vực được khẳng định là quốc sách hàng đầu - đó là giáo dục, đào tạo. Nhằm thực hiện được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, Đại hội yêu cầu một sự chuyển hướng quan trọng nhất đối với giáo dục là “chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học” (văn kiện - tr.114). Tư tưởng này đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới sâu sắc, toàn diện tư duy, năng lực chỉ đạo và tổ chức lĩnh vực giáo dục, vượt qua những “căn bệnh” đã tồn tại từ lâu trên lĩnh vực này như chất lượng, hiệu quả giáo dục còn thấp, chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc, nặng lý thuyết, nhẹ thực hành,… Giáo dục, đào tạo phải tạo cho được sự phát triển của con người, đặc biệt của thế hệ trẻ, thông qua quá trình giáo dục nhằm phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo, phẩm hạnh, nhân cách của mỗi cá nhân, tạo cho bằng được những thế hệ con người Việt Nam “yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả” (Văn kiện - tr. 115). Con người phát triển hay bị tha hóa, biến chất phụ thuộc vào môi trường văn hóa - nơi con người sinh sống, lao động, học tập, quan hệ cộng đồng. Vì vậy, nói đến xây dựng đời sống văn hóa, trước hết là xây dựng môi trường văn hóa cho con người, vì con người, kể từ môi trường trực tiếp và nhỏ nhất như gia đình, thôn xóm, bản làng, các đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu,… Nghĩa là, để có được nhân cách văn hóa phát triển đúng hướng và toàn diện, phải văn hóa hóa toàn bộ hoạt động và quan hệ đa dạng của con người trong xã hội. Xuất phát từ quan điểm đó, Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Xây dựng môi trường văn hóa, đời sống văn hóa lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, khu công nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống” (Văn kiện - tr. 127 - 128). Từ nhận thức trên, văn kiện Đại hội, đặc biệt trong phần “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh…” và phần “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” đã rất chú trọng và nhấn mạnh đến nhiệm vụ “tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng” trong cán bộ, đảng viên và quan tâm toàn diện đến nhiệm vụ bồi dưỡng, xây dựng, phát triển và phát huy các giai cấp, giai tầng xã hội: giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, đồng bào định cư ở nước ngoài,… Làm tốt các nhiệm vụ cụ thể trên chính là con đường tốt nhất để đào tạo, xây đắp con người Việt Nam đương đại, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước thời kỳ mới. Xây dựng hình mẫu con người mới xã hội chủ nghĩa có tri thức, đạo đức, thế lực, lối sống và thẩm mỹ cao, phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội(ĐCSVN) - Trong niềm tự hào và xúc động kỷ niệm 131 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, tác phẩm nghiên cứu "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng như một thông điệp khẳng định mạnh mẽ ý chí của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục hành trình và vững bước trên con đường mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn.
Bài viết của đồng chí Tổng Bí thư sau khi được đăng tải rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng đã nhận được rất nhiền phản hồi mang tính tích cực, sự đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao của dư luận xã hội; đặc biệt là của các học giả, các nhà nghiên cứu lý luận ở trong và ngoài nước, bởi đây là một công trình nghiên cứu rất sâu sắc về chủ nghĩa xã hội, có giá trị về cả phương diện lý luận và chỉ đạo thực tiễn. ÔngDenis Rondepierre, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Pháp (PCF) nhận định bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bao hàm những giá trị xuyên suốt của tư tưởng Hồ Chí Minh(1). Trong bài viết của mình, Tổng Bí thư đã nói rõ rằng việc lựa chọn các mô hình phát triển phải đảm bảo lợi ích cho tất cả mọi người, giải phóng xã hội và con người, theo đó xã hội cần phát triển để phục vụ con người, chứ không phải là một xã hội chỉ theo đuổi lợi nhuận và bóc lột, làm phương hại đến phẩm giá con người(2). Do đó, trong công cuộc đổi mới đất nước,việc xây dựng, đào tạo thế hệ trẻ là việc quan trọng, cấp bách, đòi hỏi một kế hoạch kỹ lưỡng, chiến lược bền bỉ và mang tính lâu dài, bền vững bởi vì đó là nhiệm vụ đào tạo thế hệ cách mạng kế cận, góp phần tạo nên con người mới xã hội chủ nghĩa. Trên nền tảng bài nghiên cứu của Tổng Bí thư, trong bài viết này, tôi xin phép được nêu những nhận thức và quan điểm của mìnhvề tính cấp thiết, vai trò, nhu cầu, và giải pháp của việc đào tạo thế hệ trẻ - những con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 1. Vai trò của con người mới xã hội chủ nghĩa trong công cuộc xây dựng đất nước Chúng ta biết rằng, có một nội dung bao chứa rộng lớn cả về lý luận và thực tiễn nằm xây dựng chế độ mới và giải phóng con người, vì con người ở trong kho tàng lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”(3). Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh Cách mạng, minh triết đó không chỉ đã trở thànhphương châm hành động mà còn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Trong công trình nghiên cứu của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã nhấn mạnh:“Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh”(4). Do đó, chúng ta thấy rằng, muốn xây dựng một xã hội đương đại thì yếu tố con người luôn luôn đóng vai trò then chốt bởi vì những con người tiêu biểu đại diện cho sự phát triển xã hội của nó. Lịch sử thường gọi nó là “thời đại” và “con người của thời đại”. Kể từ khi mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ thì vấn đề tiến lên xã hội chủ nghĩa lại trở thành tâm điểm của nhiều cuộc bàn luận, thảo luận. Rất nhiều ý kiến tranh luận, thậm chí tranh cãi gay gắt được đưa ra. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, cực đoan đã thừa cơ xuyên tạc, công kích, bội nhọ, bài trừ, chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta. Mặc dù lịch sử đã chứng minh rằng: việc lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là đúng đắn, do nhân dân Việt Nam lựa chọn, nhưng vẫn còn có một bộ phận còn có “tư tưởng xét lại”, nghi ngờ thành quả của Cách mạng Việt Nam. Thực tế chứng minh rằng, tư bản chủ nghĩa tuy có đạt được rất nhiều thành tựu lớn nhưng cũng có rất nhiều thiếu sót, đặc biệt về sự phân hóa giàu/nghèo, các cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị và cả khủng hoảng y tế dưới tác động của những điễn biến phức tạp trong các đợt bùng phát đại dịch Covid-19. Theo học thuyết Marx-Lenin thì chủ nghĩa xã hội là xã hội tốt đẹp, nằm ở nấc thang phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, việc định hướng và xác định con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là cần thiếtvà chúng ta cần phải kiên định với con đường đã chọn. Do đó, con người mới xã hội chủ nghĩa phải là con người được đào tạo bài bản, sống có lý tưởng Cách mạng, tư tưởng chính trị, lập trường vững vàng, sẵn sàng chung tay, vững bước cùng xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh. Lãnh thổ đất liền của đất nước chúng ta trải dài trên khoảng 15 vĩ độ, trên đó có 54 dân tộc anh em cùng chung sống. Quy mô dân số nước ta là hơn 97 triệu dân(5). Theo UNFPA, Việt Nam chúng ta hưởng thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” và sẽ kết thúc vào năm 2040(6). Mặt khác, cùng với cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư, không chỉ Việt Nam chúng ta mà tất cả các nước trên thế giới cùng đang vận động và thay đổi từng ngày. Với thời kỳ cơ cấu dân số vàng, không khó có thể nhận ra rằng Việt Nam đang đứng trước một cơ hội chưa từng có để có thể thực hiện những bước chuyển mình nhanh chóng về các mặt: kinh tế – xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục,… Do đó, chúng ta phải tận dụng thời cơ này một cách triệt để để thu hẹp lại khoảng cách với các cường quốc trên thế giới. Trong giai đoạn từ nay đến khi kết thúc thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”, đất nước chúng ta sẽ hướng tới những ngày lễ kỷ niệm lớn như 100 năm ngày thành lập Đảng vào năm 2030, xa hơn nữa là 100 ngày thành lập nước vào năm 2045.Vì vậy, để công cuộc đổi mới, con đường lên xã hội chủ nghĩa Việt Nam đạt được những thành quả như kỳ vọng, nói cách khác, tất cả những tiềm năng đang có của đất nước ta có phát huy và tỏa sáng rực rỡ được hay không thì công tác chú trọng tới thế hệ trẻ phải được chuẩn bị ngay từ bây giờ. Đứng trước“giai đoạn vàng” này, chúng ta đã có đầy đủ trong tay tất cả về mặt thời điểm cũng như cơ hội, nhưng yếu tố con người luôn đóng vai trò quan trọng nhất. Như lời Bác Hồ kính yêu đã căn dặn:“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”, nếu không có sự đào tạo, chuẩn bị thì chúng ta sẽ mất đi một lực lượng kế cận, một nguồn chất xám cần thiết để xây dựng và phát triển đất nước. Đặc biệt, trong cuộc Cách mạng công nghệ lần thứ tư hiện nay, tất cả mọi thứ đều phát triển và thay đổi rất nhanh và đòi hỏi chúng ta phải thích ứng kịp thời với thời đại. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải thừa nhận một thực tế rằng thời gian không trừ một ai và trong tương lai ngắn, thế hệ trẻ - những con người mới xã hội chủ nghĩa này sẽ trực tiếp nắm trong tay vận mệnh đất nước, cùng nhau chèo lái con thuyền Việt Nam vượt qua khó khăn, sóng gió, vững bước trên con đường chủ nghĩa xã hội đã được lựa chọn. Vậy nên, cần khẳng định rằng công tác xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa hiện nay nắm vai trò cực kỳ quan trọng, bởi vì những hạt giống tốt thôi chưa đủ, chúng cần phải được ươm mầm, vun vén và chăm sóc kỹ càng thì mới có thể phát triển tốt, đủ sức chống chọi với những mầm bệnh. 2. Thực trạng xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước - từ góc nhìn đào tạo thế hệ trẻ Như đã phân tích ở trên, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa phải dựa trên nền tảng là đào tạo ra một lớp thế hệ trẻ kế cận được trang bị một cách toàn diện. Đây cũng mục tiêu giáo dục con người không chỉ ở Việt Nam mà còn là ở tất cả các nước trên toàn thế giới. Việc phát triển con người một cách toàn diện thực chất là xây dựng con người mới có đủ năng lực làm chủ bản thân và xã hội. Tư tưởng coi trọng nhân tố con người này của Đảng ta đã được cụ thể hóa trong các văn kiện, có thể ví dụ như: - Nghị quyết 33 (Số 33-NQ/TW) về Định hướng xây dựng và phát triển văn hóa, con người đã xác định rõ mục tiêu là “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. - Vấn đề “phát triển con người toàn diện” trong các văn kiện của Đại hội XII được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016-2020,đó là xây dựng “con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. - Trong văn kiện của Đại hội XIII của Đảng, khi đề cập đến quan điểm về văn hóa, Đảng ta luôn nhấn mạnh việc phát huy vai trò con người, xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam. Trong bài viết của mình, Tổng Bí thư cũng đã khẳng định: con người là một khối tổng hòa của các yếu tố tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ và con người mới xã hội chủ nghĩa phải được trang bị đầy đủ các yếu tố đó. Nếu thiếu đi một yếu tố nào đó thì vấn đề phát triển toàn diện sẽ không còn được đảm bảo. Những yếu tố trên sẽ được phân tích dưới đây: Một là, yếu tố tri thức đóng vai trò quan trọng bởi tri thức là sức mạnh. Việc tiếp thu, lĩnh hội các văn minh, tiến bộ của nhân loại là điều cần thiết bởi đó là hành trang cho con người mới xã hội chủ nghĩa có tri thức, khoa học, công nghệ tự tin sánh đưa đất nước ngang các nước phát triển. Nói cách khác, tri thức là chìa khóa giúp con người bước ra thế giới bên ngoài. Như nhà vật lý thiên tài Albert Einstein đã nói:“Khi chúng ta hiểu biết càng nhiều thì cái tôi cá nhân càng bé lại”, khi đó mong muốn tiếp thu tri thức của con người mới xã hội chủ nghĩa sẽ ngày càng mạnh và những tri thức đó sẽ được vận dụng để đóng góp không chỉ để xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa mà còn cho cả cộng đồng nhân loại thế giới. Hơn nữa, trí lực có tốt thì con người mới đủ tỉnh táo để chống lại mọi thông tin giả, không đúng sự thật và phản bác lại được những luận điệu sai trái, thù địch. Hai là, Bác Hồ đã nói:“Có tài mà không có đức là người vô dụng”. Bác căn dặn muốn trở thành người giúp ích cho xã hôi, đất nước thì phải có đạo đức tốt. Trong cuộc sống, chúng ta đã thấy có những cá nhân biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa; có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại cho cộng đồng, xã hội, bức xúc trong dư luận, làm giảm lòng tin của nhân dân vào quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.Vì vậy, người có tài mà không có đức, không đặt lợi ích quốc gia dân tộc trên lợi ích cá nhân sẽ là nguy cơ gây ra những hậu quả khôn lường, nghiêm trọng; không chỉ cho bản thân mà còn cho cả cộng đồng. Ba là, thể lực tốt và lối sống lành mạnh sẽ giúp cho con người mới xã hội chủ nghĩa có đủ tỉnh táo để chống lại mọi cám dỗ của cuộc sống, tránh xa các tệ nạn xã hội. Rèn luyện thể lực là không ngừng chú trọng tập luyện, nâng cao thể chất, vóc dáng, sức mạnh của con người. Mọi người lao động dù ở bất kỳ ngành nghề nào đều cần có sức vóc thể chất tốt để duy trì và phát triển trí tuệ, để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, biến tri thức thành sức mạnh vật chất. Hơn nữa, cần phải có sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, niềm tin và ý chí, khả năng vận động của trí lực trong những điều kiện khác nhau và trong những thử thách hết sức khó khăn và khắc nghiệt. Vậy, muốn có thể lực tốt thì ngoài việc rèn luyện thể thao thường xuyên, cũng cần có một chế độ sống, lối sống hợp lý, tránh xa các chất kích thích gây tổn hại cho cơ thể và hệ thần kinh. Bốn là, tính thẩm mỹ cao mang lại cái đẹp cho con người, mang lại nhiều vẻ đẹp cho xã hội. Tính thẩm mỹ ở đây không đơn thuần là vẻ đẹp bên ngoai mà còn là tính nhân văn, nhân đạo của con người. Vẻ đẹp trong cuộc sống luôn có muôn sắc thái khác nhau và được thể hiện ra trong từng hành động, từng lời nói, từng cử chỉ của con người trong các mối quan hệ, giao tiếp xã hội. Như lúc sinh thời, Bác Hồ cũng đã dặn dò:“Mỗi người tốt, mỗi việc tốt là một bông hoa đẹp, cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp”. Để xã hội tốt hơn, chất lượng cuộc sống cao hơn thì thẩm mỹ của con người cũng cần chú trọng. Xét tới hiện nay thì công cuộc đào tạo thế hệ trẻ - những con người mới xã hội chủ nghĩa ở đất nước ta đã có thành quả đáng khích lệ. Tuy chưa có điều kiện để đảm bảo giáo dục miễn phí cho tất cả các cấp học nhưng Việt Nam tập trung hoàn thành xóa nạn mù chữ, phổ cập giáo dục và có tới 95% người lớn biết đọc, biết viết(7). Số sinh viên học cao đẳng, đại học và sau đại học tăng lên hằng năm với chất lượng ngày càng được cải thiện. Cơ sở vật chất của các cơ sở đào tạo ngày càng được mở rộng, nâng cấp và cải thiện. Các chương trình hợp tác quốc tế mở ra tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên dễ dàng tiếp cận được với tri thức nước ngoài. Đội ngũ giảng viên được đào tạo bài bản ở trong và ngoài nước, nắm chắc chuyên môn, có những phương pháp đào tạo khoa học đã cải thiện đáng kể chất lượng sinh viên Việt Nam, rất nhiều sinh viên Việt Nam đi du học và tỏa sáng rực rỡ trên đất bạn. Về mặt thể chất thì sức vóc người Việt có sự cải thiện đáng kể. Chúng ta dần có nhiều những thành tích cao trên đầu trường thể thao quốc tế. Điều đó cho thấy rằng công cuộc giáo dục con người đã được Đảng và nhà nước ta rất quan tâm và chú trọng. Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta cũng còn có nhiều điểm cần cải thiện, đặc biệt vấn đề phân hóa, chênh lệch trình độ giữa các vùng miền trên Tổ quốc bởi với hơn 60% dân số sống nước ta ở nông thôn(8). Tóm lại, nhìn chung tất cả những gì chúng ta đã, đang có là cơ sở tiền đề tốt, vững chắc để có thể đáp ứng được công cuộc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. 3. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác đào tạo thế hệ trẻ góp phần hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa Trong cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư hiện nay, Việt Nam không thể là một đất nước đứng ngoài cuộc. Việc ứng dụng các giải pháp công nghệ cao hiện nay vào cuộc sống đã giải phóng sức lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm thời gian cũng như tiền bạc. Sự tiến bộ của khoa học công nghệ đã len lỏi vào mọi góc cạnh của cuộc sống khiến chất lượng cuộc sống được cải thiện đáng kể. Người dân được tiếp cận nhanh, dễ dàng với những gì mình muốn, vì vậy chúng ta cần tiếp tục phát huy những gì đang có và đổi mới, sáng tạo vì cuộc sống chất lượng hơn. Bên cạnh đó, những nghiên cứu mang tính ứng dụng nên được đầu tư mạnh mẽ. Mô hình nghiên cứu 5 nhà bao gồm : nhà trường - nhà khoa học - nhà đầu tư - nhà kinh doanh - nhà nước sẽ góp phần đẩy mạnh sự phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo ở đất nước ta. Mô hình liên kết này đã được trình bày và giới thiệu ở Diễn đàn Trí thức trẻ Việt Nam toàn cầu lần thứ 3 năm 2020 do Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức. Bài toán nguồn lực cũng là bài toán hóc búa bởi lực lượng trí thức trẻ - những con người mới xã hội chủ nghĩa sẽ là nhân tố quan trọng trong việc vận dụng và thực hiện các hoạt động đưa Việt Nam vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa. Phát triển nguồn lực chất lượng và lâu dài là điều kiện cần thiết bởi nội lực có mạnh thì đất nước mới phát triển mạnh. Các quốc gia trên thế giới như Nhật Bản, Israel,… trở nên giàu có nhờ họ đã xây dựng được lực lượng thế hệ trẻ chất lượng. Ngoài nguồn nhân lực trong nước thì những người Việt Nam ở nước ngoài (lực lượng kiều bào) cũng là nguồn lực không thể bỏ qua. Người Việt Nam sống ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc, rất nhiều nhà khoa học, học giả, nhà kinh doanh,… người Việt trên thế giới luôn sẵn sàng góp công sức, ý kiến của mình vào công cuộc xây dựng đất nước. Họ cũng truyền cho thế hệ người Việt sau khi sinh ra ở nước ngoài tinh thần hướng về nguồn cội cha ông. Vì vậy, đất nước ta phát triển được sẽ có phần không nhỏ từ khối đại đoàn kết dân tộc và lực lượng này cũng sẽ góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam ra ngoài thế giới. Cuối cùng là nên tạo cơ hội để các bạn trẻ có chuyên môn, có năng lực được cống hiến, dấn thân, đảm nhận công việc và có môi trường để phát triển toàn diện. Việc này sẽ giải quyết đồng thời hai vấn đề: kế thừa và phát huy. Thế hệ trẻ Việt Nam sẽ kế thừa những thành quả, lĩnh hội những kinh nghiệm, bài học quý báu do thế hệ trước truyền lại. Cùng với đó, những năng lực của bản thân, tri thức cũng như đạo đức đã được trau dồi, những người trẻ sẽ phát huy được những tiềm năng của bản thân và sẵn sàng đảm nhiệm vai trò làm chủ đất nước, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, dân tộc Việt Nam quyết tâm hiện thực hóa khát vọng xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Dựa vào những phân tích trên, mục tiêu chúng ta phấn đấu là xây dựng được một thế hệ thanh niên Việt Nam sống có tri thức, có đạo đức phẩm chất tốt đẹp, lối sống văn minh, lành mạnh, vóc dáng đẹp và có nét đẹp về tâm hồn, sống nhân văn. Đó cũng là động lực để chúng ta hiện thực hóa mục tiêu này bởi vì tương lai của đất nước chính là tương lai của mỗi con người chúng ta, và công việc này cần sự chung tay, đoan kết của tất cả mọi người chứ không phải riêng mình ai. Vì vậy, có thể nói rằng việc xây dựng một đội ngũ con người mới xã hội chủ nghĩa vừa hồng, vừa chuyên là mục tiêu, cũng là động lực trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam./. Nguồn tham khảo (1) Thông tấn xã Việt Nam, Nguồn tin:https://www.vnanet.vn/ (Phỏng vấn ông Denis Rondepierre, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng cộng sản Pháp) - 08/2021 (2) (4) (7) GS. TS. Nguyễn Phú Trọng, Nguồn tin: https://www.moha.gov.vn/ (Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về con đường đi lên CNXH) – Truy cập tháng 08/2021 (3), Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, H, 2011, t.13, tr. 66. (5) (8)Tổng cục thống kê, Nguồn tin: https://www.gso.gov.vn/ (Dân số, lao động và việc làm 2020), Truy cập tháng 08/2021 (6) Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) và Viện Nghiên cứu Chiến lược phát triển Việt Nam 2016, Nguồn tin: https://vietnam.unfpa.org/ (Tác động của biến đổi cơ cấu tuổi dân số đến nền kinh tế Việt Nam và đề xuất chính sách), Truy cập tháng 08/2021. TS. Trần Lê Hưng, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội
|