Sự khác biệt giữa thuốc cổ truyền và thuốc dược liệu

THUỐC DƯỢC LIỆU VÀ THUỐC CỔ TRUYỀN 

. *** Hiểu ngắn gọn 

⚡️ ĐÔNG DƯỢC gắn liền với đông y, là những thuốc có nguồn gốc từ cây cỏ, khoáng vật, động vật… 

⚡️ THUỐC DƯỢC LIỆU là những thuốc có thành phần từ dược liệu và dựa trên bằng chứng nghiên cứu khoa học. 

⚡️ THUỐC CỔ TRUYỀN cũng có thành phần từ dược liệu, nhưng được chế biến và bào chế theo lý luận và phương pháp của y học cổ truyền, theo kinh nghiệm dân gian với những chế phẩm dưới dạng bào chế hoặc hiện đại. 

Sự khác biệt giữa thuốc cổ truyền và thuốc dược liệu
Đông dược thuốc dược liệu và thuốc cổ truyền

. *** Hiểu cụ thể hơn 

Cả 2 loại thuốc đều có thành phần là dược liệu, khác biệt lớn nhất mà luật Dược đề cập đến là: 

- Thuốc dược liệu là thuốc có công thức mới, từ các dược liệu mới, được nghiên cứu bài bản từ khâu nuôi trồng đến chế biến, sản xuất, thử nghiệm trên lâm sàng, thử nghiệm độc tính, thử nghiệm tác dụng dược lý sau đó mới nghiên cứu trên người bệnh bằng các nghiên cứu lâm sàng, được chứng minh một cách khoa học. 

- Thuốc cổ truyền là những thuốc có thành phần dược liệu, kết hợp giữa các thành phần dược liệu khác nhau từ những bài thuốc cổ phương, được sử dụng điều trị từ đời này qua đời khác. Thuốc đúc kết từ kinh nghiệm dân gian, hoặc bài thuốc gia truyền của một dòng họ, hoặc kinh nghiệm của thầy thuốc dựa trên sự phối hợp nguyên lý Y Học Cổ Truyền để điều trị cho người bệnh. 

. 🚩 LIỆU RẰNG THUỐC DƯỢC LIỆU CÓ “SẠCH”? 

Về nguồn gốc dược liệu. Hiệu quả điều trị có tốt hay không phụ thuộc vào chất lượng dược liệu. Cách đây 5-6 năm nguồn gốc dược liệu chúng ta không thể kiểm soát được, như các dược liệu được nhập khẩu từ Trung Quốc. Trước đây dược liệu nhập khẩu qua biên giới, đường chính ngạch được coi như hàng nông sản nhập khẩu vào Việt Nam, không có kiểm nghiệm. Đến nay, Bộ Y tế đã có các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn, dược liệu nhập về Việt Nam phải có giấy tờ chứng nhận nguồn gốc xuất xứ và kiểm nghiệm mới được nhập khẩu. Bộ Y tế đã ban hành văn bản quy định về vấn đề này. 

Thời gian gần đây, chất lượng dược liệu đã được nâng lên qua việc kiểm soát nguồn gốc. Nguồn gốc ở đây có 2 vấn đề là nguồn gốc dược liệu từ nước ngoài, chủ yếu từ Trung Quốc và nguồn gốc dược liệu từ nuôi trồng trong nước. Về nguồn gốc dược liệu từ nước ngoài, chúng ta có thể kiểm soát qua hải quan, còn dược liệu trong nước chúng ta đã có quy hoạch thành các vùng trồng. Chính phủ có nhiều ưu đãi về thuế, đất đai để phát triển thị trường dược liệu trong nước. 

. 🚩 KHI NÀO SỬ DỤNG THUỐC DƯỢC LIỆU VÀ THUỐC CỔ TRUYỀN? 

Thuốc dược liệu và thuốc cổ truyền đều có thể sử dụng ở những người bệnh khác nhau. Ngày nay các bệnh thường được coi là bệnh khó chữa, khi sử dụng thuốc dược liệu được chứng minh hiệu quả trên lâm sàng, còn thuốc cổ truyền bằng những bài thuốc có trong tài liệu cổ, hoặc bằng kinh nghiệm dân gian, bằng phương pháp gia truyền người ta vẫn có thể sử dụng. Hiện nay những thuốc này vẫn có các công trình khoa học để chứng minh một cách đầy đủ. 

Về cơ bản thuốc dược liệu hay thuốc cổ truyền đều có tác dụng điều trị. Bản thân những bài thuốc cổ truyền, bài thuốc cổ phương cũng có những công trình khoa học nghiên cứu, thể hiện bằng các luận văn tại các trường Đại học Y trên cả nước. 

Thuốc đông y được sử dụng phổ biến và điều trị khá hiệu quả. Đặc biệt, không thể phủ nhận các bệnh lý mạn tính và rối loạn chuyển hóa, tạng phủ, cơ xương khớp thì điều trị bằng đông y khá là tốt. Ngoài ra các bệnh lý cấp cứu sử dụng thuốc đông y, tuy nhiên còn một số khó khăn là dược phẩm chúng ta chưa có dạng chuyển hóa dạng tiêm truyền, hiện tại dùng dạng thang sắc, viên nang, cao đường uống. Ở Trung Quốc, họ có thể chuyển dạng tiêm truyền sử dụng trong cấp cứu. 

. 🚩 ƯU NHƯỢC ĐIỂM CỦA THUỐC DƯỢC LIỆU VÀ THUỐC CỔ TRUYỀN 

Ưu điểm của thuốc dược liệu là có, nhưng để nói so sánh với thuốc cổ truyền thì không thể nói cái nào hơn, vì thuốc dược liệu hiện nay là những thuốc mới, được nghiên cứu, chứng minh bằng những bằng chứng khoa học. Còn thuốc cổ truyền là những thuốc sử dụng lâu đời và đã được chứng minh trong quá trình điều trị từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đông y dùng thuốc theo nguyên tắc "Biện chứng luận trị" - nghĩa là tùy theo chứng trạng biểu hiện ở người bệnh mà sử dụng phép chữa, bài thuốc khác nhau. Trên lâm sàng, trăm người mắc cùng một bệnh, có thể được chữa trị bằng hàng trăm phương thuốc khác nhau. Vì phương thuốc được lập ra theo nguyên tắc "Biện chứng luận trị" - tức phỏng theo bệnh tình cụ thể ở từng người bệnh. "Phương giả phỏng dã" như y gia thời xưa thường nói. 

Để phân định, những người làm nghề như các bác sĩ YHCT hoặc thầy thuốc YHCT có thể phân biệt được, còn với người dân khi sử dụng, chúng ta không nhất thiết phải phân biệt rõ đâu là thuốc dược liệu, đâu là thuốc cổ truyền, khi sử dụng chúng ta chỉ cần biết chúng ta sử dụng thuốc có nguồn gốc từ dược liệu và nó có tác dụng an toàn, hiệu quả là đủ. 

Thật ra, cả thuốc dược liệu và thuốc cổ truyền đều có thể sử dụng ở những bệnh khác nhau. Hiện nay có nhiều bệnh như tiểu đường, cao huyết áp, ung thư... thường được coi là bệnh trọng khó chữa. Khi dùng thuốc dược liệu được chứng minh hiệu quả trên lâm sàng, còn thuốc cổ truyền, bằng những bài thuốc có trong các tài liệu cổ, hoặc bằng kinh nghiệm dân gian, hoặc bằng phương pháp gia truyền, người ta vẫn có thể sử dụng, hiện nay những thuốc này vẫn có các công trình khoa học để chứng minh một cách đầy đủ. 

Thường thuốc dược liệu được bào chế dưới dạng hiện đại như siro, viên ngậm, viên nang, viên hoàn… để dễ sử dụng giống thuốc Tây y, tăng thêm sự tiện dụng cho người dùng, mang tính chất đại trà, có thể sử dụng mà không cần bắt mạch, kê đơn. Bên cạnh đó thuốc YHCT là vốn quý, nếu những thuốc không có hiệu quả sẽ bị đào thải. Điều quan trọng cuối cùng là thuốc có tốt hay không và người thầy thuốc có sử dụng đúng cho bệnh nhân hay không. 

Thuốc nào cũng có mặt mạnh và mặt yếu của nó, như thuốc thang sẽ tốt cho cá thể người bệnh, còn thuốc viên dành cho 1 nhóm đối tượng đều sử dụng được. Khi dùng thuốc thang theo quan điểm của đông y, khi sắc dùng nước và lửa sắc lên 1 thang thuốc, chiết ra thuốc để uống, uống dưới dạng ấm để tăng hiệu quả của thuốc. Việc uống thuốc như vậy rất cầu kỳ, cách rách. Hiện nay ở hầu hết bệnh viện hoặc phòng khám đông y đều có máy sắc thuốc rất tốt. Còn thuốc viên, sản xuất dưới dạng cao đơn hoàn tán, viên nén, viên nang, con nhộng, người ta chiết ra một hoạt chất, cô lại thành viên thuốc, liều lượng sử dụng cũng phải đạt được mức điều trị bệnh. 

Hiện nay thuốc dược liệu và thuốc cổ truyền được sản xuất bài bản bằng các công trình nghiên cứu, kiểm soát chất lượng dược liệu tốt, nguồn gốc rõ ràng, dược liệu có nguồn gốc từ thiên nhiên nên là dược liệu sạch, tiêu chí an toàn về dược nên yên tâm khi sử dụng thuốc Y Học Cổ Truyền. 

. 🚩 KẾT LUẬN 

Dù là việc lựa chọn thuốc dược liệu hay thuốc cổ truyền, sử dụng cái nào là phù hợp cho bệnh nhân tùy thuộc vào tình trạng bệnh lý, bạn đọc vẫn nên đến các cơ sở thuốc Đông Y uy tín để được thăm khám và kê toa. 

Hy vọng rằng, với những chia sẻ trên có thể làm giàu thêm kiến thức về thuốc Đông Y, cũng như cái nhìn khách quan hơn để bạn đọc tự chăm sóc sức khỏe của bản thân và gia đình tốt nhất. 

NHÀ THUỐC TÂN THÀNH ĐƯỜNG

👨 Lương y Dương Anh Khải. 

📍 175 Lý Tự Trọng, Thị trấn Diên Khánh, Khánh Hòa. 

☎️ 0905136463 - 0966708997


Page 2

DS. Hồ Quý Phương

Tương tác giữa dược liệu và thuốc là một vấn đề phức tạp, nhưng có liên quan nhiều trên lâm sàng. Liều lượng và thời gian điều trị với thuốc từ dược liệu là những yếu tố quan trọng quyết định đến nguy cơ xảy ra tương tác. Cần phải cảnh giác tương tác dược liệu – thuốc trên bệnh nhân đang dùng thuốc tân dược có khoảng điều trị hẹp (narrow-therapeutic index).

Kiến thức của nhân viên y tế về tương tác thuốc – dược liệu trên cơ thể người có thể giúp làm giảm nguy cơ gây ra các phản ứng có hại, và tận dụng các phản ứng có lợi trên lâm sàng.

Mô hình quản lý rủi ro trên lâm sàng cung cấp một hướng tiếp cận có hệ thống để giảm thiểu các rủi ro trong điều trị, bằng cách lưu ý các dấu hiệu cảnh báo nguy cơ và đánh giá, triển khai, thực hiện các  biện pháp giảm rủi ro. Những nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp với mục tiêu giảm phản ứng có hại, tương tác thuốc-thuốc và thuốc-dược liệu, đặc biệt với các thuốc cũ trước đây.

Nhiều tương tác giữa thuốc và vị thuốc YHCT xuất hiện theo cơ chế cảm ứng hoặc ức chế các enzyme khác nhau thuộc nhóm CYP450, glucuronosyltransferase và glycoprotein P (P-Gps). P-Gps là các protein bài xuất (efflux transporter) phân bố ở ruột, gan và thận. Xét về điểm này, cần lưu ý sự khác biệt về dược lý học di truyền (pharmacogenetics) trong đào thải thuốc giữa nhóm dân châu Á và nhóm dân da trắng. Bao gồm cả đặc điểm dược động/dược lực học của các thuốc đơn lẻ đến tần số xuất hiện và mức độ của các tương tác thuốc cũng như các tác dụng không mong muốn. Do đó, các nghiên cứu trên lâm sàng về dược lý học di truyền của các tương tác thuốc-vị thuốc rất cần thiết trong tương lai.

Thầy thuốc điều trị cần nắm kỹ việc sử dụng vị thuốc, thuốc từ dược liệu của người bệnh, thậm chí phải hỏi kỹ và đưa yếu tố này vào xem xét khi kê đơn điều trị. Thông thường, người bệnh chỉ đơn thuần cho rằng chỉ cần tránh uống thuốc YHCT và thuốc tân dược cùng một thời điểm là đủ để tránh gặp tương tác: “chỉ cần chờ vài tiếng sau khi dùng thuốc Tây thì cơ thể sẽ đào thải xong và uống thuốc Đông y sẽ an toàn”. Quan điểm này không phải khi nào cũng đúng.

Sự khác biệt giữa thuốc cổ truyền và thuốc dược liệu

Tương tác dược động học

Nhóm enzyme CYP450 bao gồm nhiều mono-oxygenase phân bố chủ yếu ở gan và ruột. Chúng có nhiệm vụ oxy hóa các hoạt chất, trước ghi gắn với glucuronide và sau đó thải qua đường tiểu. Các enzyme chính tham gia vào chuyển hóa thuốc là CYP1A2, CYP2C9, CYP2C19, CYP2D6, CYP2E1 và CYP3A4. Các enzyme này đều có thể bị cảm ứng hoặc ức chế bởi thuốc YHCT (và một số loại thức ăn). Sự ức chế các enzyme này có thể làm tăng nồng độ thuốc trong máu, trong khi sự cảm ứng lại làm giảm nồng độ trong máu của thuốc và các hợp chất chuyển hóa độc hại. Cả 2 quá trình cảm ứng và ức chế trên lâm sàng đều có thể ảnh hưởng không tốt đến tác dụng điều trị của thuốc tân dược, thậm chí gây tích lũy ngộ độc. Ngoài ra, tương tác giữa thuốc YHCT với các glycoprotein P cũng có thể xảy ra. P-gps cũng nhạy cảm với hiện tượng cảm ứng và ức chế cũng thuộc nhóm CYP450. Các cơ chất vận chuyển của P-gps là các thuốc như digoxin, metronidazole, saquinavir và talinol.

Tương tác dược lực học giữa thuốc và vị thuốc

Ngoài các tương tác dược động học như trên, tương tác dược lực học giữa thuốc và vị thuốc cũng có nguy cơ xảy ra. Một vài vị thuốc YHCT có thể giúp giảm độc tính của các thuốc tân dược bằng cơ chế bảo vệ các tế bào khỏe mạnh. Trong điều trị ung thư, một vài vị thuốc cũng hỗ trợ tác dụng của các thuốc hóa trị qua cơ chế làm giảm tính đề kháng của các tế bào ung thư. Các thuốc YHCT thường được dùng theo mục đích hỗ trợ điều trị ung thư như như Astragalus (Hoàng kỳ), Huachansu (chiết từ nhựa cóc Bufo bufo gargarizans), Curcumin (tinh chất nghệ). Mặc dù đã có các công trình nghiên cứu được công bố ở Trung Quốc và một vài quốc gia ủng hộ tác kết quả này. Nhưng hầu hết các thử nghiệm này chỉ ở mức tiền lâm sàng hoặc chưa đạt chuẩn theo công nhận của FDA (Cục quản lý Thuốc và Thực phẩm tại Mỹ)

Thay đổi sự hấp thu

Thuốc YHCT có thể thay đổi sự hấp thu của các thuốc tây thông thường. Ví dụ như các vị thuốc giàu saponins (Anemarrhena asphodeloides – Tri mẫu, Codonopsis – Đảng sâm, Gleditsia australis – Bồ kết, Polygala – Viễn chí và Panax ginseng – Nhân sâm).

– Các vị thuốc  thay đổi pH dạ dày (Atractylodes macrocephaly – Bạch truật) có thể ức chế tiết dịch dạ dày và tương tác với omeprazole

– Các thuốc có tác dụng nhuận tràng như Aloe vera (Lô hội), Rheum palmatum (Đại hoàng) và Sesamum indicum (Vừng đen) có thể thay đổi nhu động ruột, qua đó tác động đến quá trình hấp thu thuốc

– Bupleurum (Sài hồ) tăng nhu động ruột

– Piperine trong cây lá lốt làm chậm quá trình làm rỗng dạ dày (gastric emptying) và tăng thời gian trung chuyển ở ruột.

Một vài vị thuốc có thể tương tác với các thuốc chống đông máu đường uống. Tương tác này là đáng kể ở những vị thuốc có tác dụng sinh huyết và hoạt huyết, các thuốc cầm máu. Tác dụng ức chế kết tập tiểu cầu được chứng minh ở Angelica chinensis (Đương quy), Carthamus tinctoris (Hồng hoa) và Lycium chinense (Câu kỷ tử). Salvia miltiorrhiza (Đan sâm) có thể làm giảm sinh khả dụng của warfarin và các chất đối kháng vitamin K khác qua cơ chế tăng đào thải. Zingiber officinale (Sinh khương) và Panax ginseng (Nhân sâm) làm tăng nguy cơ xuất huyết nếu dùng chung với các thuốc chống đông khác.

Cistanche deserticola (Nhục thung dung) có thể tương tác với các thuốc cường giao cảm, thuốc ức chế thụ thể monoamide oxidase, thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc serotonin, và thuốc chống trầm cảm 3 vòng. Tương tác này có thể gây ra hội chứng serotonin.

Một vài vị thuốc có thể tương tác với các thuốc chống đông máu đường uống. Tương tác này là đáng kể ở những vị thuốc có tác dụng sinh huyết và hoạt huyết, các thuốc cầm máu. Tác dụng ức chế kết tập tiểu cầu được chứng minh ở Angelica chinensis (Đương quy), Carthamus tinctoris (Hồng hoa) và Lycium chinense (Câu kỷ tử). Salvia miltiorrhiza (Đan sâm) có thể làm giảm sinh khả dụng của warfarin và các chất đối kháng vitamin K khác qua cơ chế tăng đào thải. Zingiber officinale (Sinh khương) và Panax ginseng (Nhân sâm) làm tăng nguy cơ xuất huyết nếu dùng chung với các thuốc chống đông khác.

Các thuốc từ dược liệu có tác dụng giảm đường huyết như Litchi chinensis (Lệ chi hạch – hạt của trái vải), và Morinda citrifolia (quả nhàu), có thể tương tác với thuốc trị tiểu đường.

Các dược liệu có công dụng trừ thấp đàm mạnh như Desmodium styracifolium (Kim tiền thảo), Dianthus superbus (Cù mạch), D. chinensis, Euphorbia kansui (Cam toại), Lygodium japonicum (Bòng bong), Phytolacca acinosa (Thương lục), và Tetrapanax papyriferus (Thông thảo)…….trên lý thuyết có thể tương tác với thuốc lợi tiểu. Tuy nhiên, tác dụng lợi tiểu từ những dược liệu này chủ yếu là thải nước, trong khi cơ chế của thuốc lợi tiểu tân dược là thải nước kèm natri, nên hai cơ chế này không hoàn toàn giống nhau.

Hoạt tính mineralocorticoid (giữ muối nước) của Glycyrrhiza glabra (cam thảo) có thể làm tăng tác dụng thải kali của các thuốc nhuận tràng và thuốc lợi tiểu quai như furosemide và ethacrynic acid.

Piperine, có trong cây lá lốt, ức chế P-Gps và CYP3A4, làm tăng nồng độ trong máu của các cơ chất của các enzyme này, như rifampicine, theophylline, propranolol và phenytoin.

YHCT là một phần thiết yếu của hệ thống y tế Việt Nam. Các nghiên cứu hệ thống về dược liệu bản địa của Việt Nam là rất cần thiết để cung cấp các bằng chứng khoa học chứng minh cho các công dụng dân gian của cây thuốc Việt Nam, đồng thời đánh giá hiệu quả và độ an toàn. Thêm vào đó, một hệ thống theo dõi, báo cáo và lưu trữ các phản ứng có hại của thuốc YHCT sẽ giúp cảnh báo các phản ứng không mong muốn hoặc, đối với các thuốc YHCT chưa được công nhận chính thức, sẽ cung cấp bằng chứng về độ an toàn. Mặc dù Việt Nam đã triển khai chương trình Cảnh giác dược cho thuốc YHCT, nhưng về lâu dài còn nhiều việc phải nghiên cứu và cải tiến. 

Bản lược dịch từ bài tổng quan:  Herman et al. “Vietnamese traditional medicine from a pharmacist’s perspective”. Expert Clin. Pharmacol. 5(4), 459-477 (2012)

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

Sự khác biệt giữa thuốc cổ truyền và thuốc dược liệu
  facebook.com/BVNTP

Sự khác biệt giữa thuốc cổ truyền và thuốc dược liệu
  youtube.com/bvntp