đảm bảo thực hiện bằng quyền lực Nhà nước. Là công cụ có hiệu lực nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản theo ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị. (VD: Hiến pháp 2013; Bộ luật Hình sự 2015; Bộ luật Dân sự 2017) - Tập quán là một loại nguồn của pháp luật và cũng là dạng thức tồn tại của pháp luật trên thực tế. + Dưới góc độ ngôn ngữ, tập quán là một thói quen được hình thành lâu đời được mọi người tuân theo. Là những quy tắc xử sự được hình thành một cách tự phát lâu ngày trong đời sống, xã hội và được chủ thể thừa nhận là quy tắc ứng xử chung. Được lưu truyền chủ yếu theo cách truyền miệng, được bảo đảm thực hiện bằng thói quen, bằng sức thuyết phục của chúng, bằng dư luận xã hội và bằng cả biện pháp cưỡng chế phi Nhà nước. (VD: cúng ông Công ông Táo, Tết nguyên đán,..)
những gì mà pháp luật cho phép, hoặc đều không được làm những gì mà pháp luật ngăn cấm, hoặc đều phải làm những gì mà pháp luật yêu cầu phải làm; nếu họ vi phạm pháp luật thì đều phải chịu trách nhiệm pháp lý như nhau. Pháp luật có tính quy phạm phổ biến, nó có giá trị bắt buộc phải tôn trọng và thực hiện đối với mọi tổ chức và cá nhân có liên quan trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Quan hệ giữa phong tục tập quán với pháp luật thể hiện trên hai phương diện:
Trước khi có pháp luật, phong tục tập quán là công cụ chính để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội. Khi có pháp luật, một số phong tục tập quán được Nhà nước thừa nhận và nâng lên thành pháp luật gọi là tập quán pháp. Điều đó dẫn đến cùng một mối quan hệ xã hội có thể vừa do phong tục tập quán điều chỉnh, có thể vừa do pháp luật của Nhà nước điều chỉnh. 3. Trong hoạt động thực hiện pháp luật.........................................................................................
Ví dụ: Các bộ luật cổ của Việt Nam cũng đều ghi nhận việc áp dụng tập quán trong các quan hệ xã hội. Điều 40 của Quốc triều Hình Luật đã ghi rõ: “ Những người miền thượng du ( miền núi, miền đồng bào dân tộc ít người cư trú) cùng phạm tội với nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội. Những người thượng du phạm tội với người trung châu ( miền trung du và miền đồng bằng) thì theo luật mà định tội”
B. Phân tích thực trạng thực hiện tập quán ở Việt Nam hiện nay
Món trầu từ lâu đã thể hiện nếp sinh hoạt mang đậm tính dân tộc của người Việt Nam. Miếng trầu gồm các nguyên liệu chính đó là: Cau (vị ngọt), lá trầu không (vị cay), rễ (vị đắng), vôi (vị nồng). Tục ăn trầu đến giai đoạn ngày nay đang ngày càng mai một. Ở các xóm làng xưa thì để có thể bắt gặp người còn giữ được tục lệ này khá hiếm, nếu có người vẫn ăn trầu thì chủ yếu là các cụ già. Trong tương lai, nếu tục ăn trầu không được giữ gìn và phát triển thì có lẽ tục ăn trầu này rồi cũng dần đi vào quên lãng.
Từ lâu trà được biết như một nét văn hóa truyền thống của người dân Việt Nam, bởi vì nó thể hiện rất rõ đời sống sinh hoạt mộc mạc của người Việt ta. Đă ̣c biê ̣t, trà còn được sử dụng trong tất cả những ngày lễ lớn như cưới hỏi, ma chay, cúng giỗ hay đơn giản là mô ̣t ngày thường cũng có thể thưởng thức nó. Văn hóa trà Việt Nam đã được hình thành rất lâu đời và trải qua nhiều thăng trầm trong lịch sử cũng như biến động về văn hóa, chính trị. Nhưng văn hóa trà Việt vẫn tồn tại đến ngày nay, phát triển và mang một vẻ đẹp rất riêng biệt.
Là một loại đồ uống phổ biến và bất biến của những người dân bản địa vùng Tây Nguyên. Uống rượu cần từ lâu đã trở thành một phần trong phong tục, tập quán của người dân nơi đây. Rượu cần được coi là loại rượu quý, chỉ được dùng vào những ngày lễ tế thần linh, hội làng hay để đãi khách. Vào những ngày lễ hội, rượu được mang ra để thưởng thức bằng cách đặt vào trong bình nhiều vòi hút nhỏ. Mọi người ngồi theo vòng và lần lượt từng người uống một. Khi rượu trong bình lớn vơi đi sẽ được đổ thêm nước vào.
Vào mùa Xuân, nhất là các dịp Tết người Mông hay trong các lễ cưới truyền thống, đồng bào đều hát dân ca và múa khèn. Nhiều làn điệu dân ca hát ru, hát đối, hát đố, hát giải, dân vũ... phản ánh cuộc sống lao động, chinh phục tự nhiên và mong ước mơ về cuộc sống hạnh phúc, no đủ. Đặc sắc nhất là loại hát kể chuyện lịch sử dân tộc gọi là hát “Thản chù”; hát “Gầu phềnh” - trai gái hát trong khi chơi Pa Pao, hát qua sợi chỉ nối với hai ống nứa bịt da ếch cho riêng hai người. Tập tục nhớ thương và cho người chết ăn diễn ra tại các làng đồng bào dân tộc Giẻ-Triêng, Xơ đăng, Gia rai,.... Một người sau khi chết vẫn được cho ăn cơm, uống rượu. Lúc chưa chôn: rải cơm, rượu xung quanh thi hài (một số làng đã sửa đổi bằng cách đặt mâm cơm giữa nhà). Sau khi chôn: cắm một ống lồ ô rỗng ruột xuống lòng mộ, người nhà mang cơm, rượu ra đổ vào đó mỗi ngày 1 đến 2 lần, kéo dài đến 1 tháng thì chấm dứt. Tập tục này kéo dài đã ảnh hưởng đến thời gian, công sức, sức khỏe của người nhà có người chết. Cần vận động xóa bỏ một phần hoặc đơn giản hóa các hình thái tưởng niệm người chết. Đưa vào nội dung xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước đối với các làng đồng bào dân tộc thiểu số theo khoản 2 điều 3 và khoản 1 điều 5, quyết định số 22/2018/QĐ-TTg, ngày 08/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước. —-> Pháp luật đang hạn chế, loại trừ, xoá bỏ dần những phong tục tập quán lạc hậu, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc, không phù hợp với lợi ích của Nhà nước cũng như lợi ích chung của cộng đồng. —-> Nhận xét chung: Bên cạnh những phong tục tập quán ngày càng phát triển, tiến bộ hơn, trong nước vẫn còn tồn tại những hủ tục lạc hậu, xưa cũ cần được xóa bỏ. Những hủ tục này phần lớn xuất hiện tại các dân tộc thiểu số và đem lại những ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của con người, làm tiêu tốn thời gian, tiền bạc, sức khỏe cũng như có những ảnh hưởng tiêu cực lâu dài. Vì vậy, tìm cách xóa bỏ những hủ tục lạc hậu đó chính là một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay. Để làm được điều này cần có sự chung tay góp sức của Nhà nước, chính quyền các cấp, các địa phương trong việc tuyên truyền, vận động người dân thay đổi lối suy nghĩ, lối sống của mình.
3.2. Áp dụng tập quán trong việc thừa kế Theo luật pháp của Việt Nam về việc phân chia tài sản thừa kế, sau khi cha mẹ qua đời sẽ chia đều tài sản cho con trai và con gái. Căn cứ theo quy định tại khoản 2, Điều 651 thì anh chị em trong gia đình sẽ được phân chia tài sản bằng nhau sau khi cha mẹ qua đời. Nhưng quan niệm lâu đời của người dân Việt Nam thì cha mẹ thường chia cho con trai nhiều hơn đặc biệt là con trai cả vì người dân cho rằng con trai cả sẽ là người chăm lo cho gia phả, gánh vác những trách nhiệm gia đình và hương khói thờ phụng cho cha mẹ ông bà sau khi họ mất. Vì vậy mà cha mẹ thường làm di chúc văn bản hay di chúc miệng để lại tài sản cho người con trai nhiều hơn và khi ra pháp luật điều này hoàn toàn được chấp nhận. 3.2. Áp dụng tập quán trong việc chia của hồi môn Pháp luật Việt Nam quy định của hồi môn là tài sản riêng của cô dâu dựa theo thời điểm mà cha mẹ trao tặng cho cô dâu trước khi kết hôn theo điều 43 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Theo quan niệm xa xưa thì cha mẹ tặng con gái đi lấy chồng của hồi môn không chỉ để chúc phúc mà còn để tặng con chút vật dụng giúp con có cuộc sống dễ chịu hơn và dự phòng lúc gặp khó khăn, sóng gió mà của hồi môn sẽ trở thành tài sản chung của hai vợ chồng, giúp xây dựng và phát triển cuộc sống chung. 3.3. Tập quán điều chỉnh một số quan hệ nhân thân - Đối với quyền có họ, tên: Trong số những quyền nhân thân được BLDS năm 2015 ghi nhận, bảo vệ thì quyền xác định dân tộc là quyền có sự tham gia điều chỉnh của tập quán pháp. Theo khoản 2 Điều 26 BLDS 2015: ” Họ của cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán. Trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con được xác định theo họ của mẹ đẻ.” Trong đó, căn cứ khoản 1 Điều 5 Bộ luật Dân sự, tập quán được hiểu là các quy tắc xử sự rõ ràng, được sử dụng rộng rãi, lặp đi lặp lại trong thời gian dài tại một vùng, miền, dân tộc, 3.3. Áp dụng tập quán trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Quy định về áp dụng tập quán trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trong việc thanh toán và phân chia di sản thừa kế vấn được BLDS 2015. Theo đó, khoản 4 Điều 603 quy định về bồi thường do súc vật gây ra có quy định: “Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”. 3.3. Áp dụng tập quán quốc tế Tương tự với phần tập quán trong nước, phần áp dụng tập quán quốc tế trong BLDS 2015 đã được tách biệt khỏi phần áp dụng pháp luật nước ngoài trở thành một quy định độc lập và nội dung của quy định này được điều chỉnh cho phù hợp với luật quốc tế. Điều 666 BLDS 2015 quy định các bên được lựa chọn tập quán quốc tế để áp dụng trong trường hợp điều ước quốc tế hoặc luật Việt Nam có quy định cho lựa chọn tập quán quốc tế. Nếu hậu quả của việc áp dụng tập quán đó trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì pháp luật Việt Nam được áp dụng. Thay đổi này của BLDS 2015 đã thể hiện sự tôn trọng của pháp luật đối với các chủ thể tham gia quan hệ dân sự. Kể cả trong trường hợp có luật để áp dụng nhưng các bên lựa chọn tập quán quốc tế để áp dụng thì lựa chọn của các bên vẫn được tôn trọng và tập quán quốc tế sẽ được ưu tiên áp dụng.
3.3. Hạn chế - Đầu tiên, liên quan đến những điều luật viện dẫn tập quán làm nguồn bổ sung, có trường hợp văn bản quy phạm pháp luật được ban hành điều chỉnh cả vấn đề cần áp dụng tập quán. Ví dụ cụ thể trong luật Dân sự 2015, khoản 1 điều 471 đã có quy định về họ, hụi, biêu, phường; vấn đề này cũng đã được Chính phủ ban hành riêng trong Nghị định số 144/2006/NĐ-CP. - Thứ hai, có trường hợp quy định của pháp luật là cho phép áp dụng tập quán nhưng cơ quan tố tụng lại tránh việc áp dụng tập quán. 3.3. Kết luận Ở Việt Nam, tập quán pháp không phải vấn đề mới nhưng còn nhiều vấn đề phức tạp. Pháp luật nước ta về tập quán pháp đã hình thành từ lâu nhưng vẫn còn một số những hạn chế. Để nâng cao hiệu quả áp dụng tập quán trong pháp luật, cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp chứ không chỉ riêng hoàn thiện khung pháp luật về công nhận và áp dụng tập quán pháp. Một vài đề xuất nhằm góp phần giúp việc áp dụng tập quán trở nên hiệu quả hơn như đẩy mạnh và mở rộng việc tập hợp, văn bản hóa tập quán; phát huy vai trò của các cá nhân, tổ chức trong công nhận và áp dụng tập quán pháp. |