Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.43 KB, 5 trang )
Phong cách lãnh đạo độc đoán ứng dụng trong kinh doanh I. Khái niệm và phân loại 1. Khái niệm phong cách lãnh đạo Phong cách lãnh đạo cá nhân là dạng hành vi người đó thực hiện khi thực hiện các nổ lực ảnh hưởng của những người khác theo nhận thức của đối tượng. Phong cách lãnh đạo được coi như một nhân tố quan trọng trong quản lý, nó không chỉ thể hiện tính khoa học và tổ chức mà còn thể hiện tài năng, chí hướng và nghệ thuật chỉ huy của người lãnh đạo. Trong lãnh đạo kết quả công việc phụ thuộc vào phương thức, phương pháp và cách thức làm việc. Nghệ thuật của người lãnh đạo được thể hiện ở chỗ họ biết lựa chọn cho mình phương thức, phương pháp và cách thức làm việc tối ưu. Phong cách lãnh đạo khoa học sẽ góp phần thực hiện có hiệu quả các mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra, và ngược lại nó sẽ cản trở quá trình đạt đến mục tiêu và hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ. Trong thực tế cuộc sống, người ta thường nói tính hơn là phong cách. Như vậy, người ta đã bỏ ra tình huống và môi trường, mà phong cách thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa các tính và môi trường. Cá tính là cái khó thay đổi, nhất là ở độ tuổi chín mùi, còn môi trường và tình huống là cái có thể biến đổi do tác động của con người. Môi trường trước hết là khung cảnh hiện tại của doanh nghiệp, tập hợp các thói quen và truyền thống tạo nên cái đặc trưng riêng, phân biệt các doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác. Khi nghiên cứu về lãnh đạo, ngoài những nét đặc trưng riêng biệt còn rút ra những nét chung, điển hình trong phong cách lãnh đạo, phản ánh những yếu tố chủ quan và khách quan trong hoạt động. ở mỗi người lãnh đạo chúng ta có thể tìm thấy cả những chung cho người lãnh đạo và những nét riêng biệt của từng người. Vì thế khi nghiên cứu các nhà lãnh đạo của họ, tâm lý học xã hội đã tập trung làm sáng tỏ những nét điển hình và các kiểu người lãnh đạo.
2. Phân loại các phong cách lãnh đạo Các nhà tâm lý học đã dựa trên những nét đặc trưng chung của từng nhóm người lãnh đạo-phong cách lãnh đạo để chia ra 3 kiểu người lãnh đạo: Phong cách lãnh đạo độc đoán chuyên quyền Phong cách lãnh đạo dân chủ Phong cách lãnh đạo tự do Mỗi phong cách lãnh đạo trên đều có những điểm tích cực và hạn chế nhất định, chúng khác nhau ở một số điểm cơ bản như: cách truyền đạt mệnh lệnh, cách thiết lập mục tiêu, ra quyết định, quá trình kiểm soát. II. Đặc điểm phong cách lãnh đạo độc đoán, chuyên quyền 1. Khái niệm: Phong cách lãnh đạo độc đoán, chuyên quyền là phong cách mà theo đó nhà quản trị triệt để sử dụng quyền lực hay uy tín chức vụ của mình để tác động đến người dưới quyền. 2. Các đặc điểm cơ bản:
Thiên về sử dụng mệnh lệnh Luôn đòi hỏi cấp dưới sự phục tùng tuyệt đối Thường dựa vào năng lực, kinh nghiệm, uy tín chức vụ của mình để tự đề ra các quyết định rồi buộc họ phải làm theo ý muốn hay quyết định của nhà quản trị. Nhà quản trị chú trọng đến hình thức tác động chính thức thông qua hệ thống tổ chức chính thức. 3. Ưu nhược điểm Ưu điểm Ưu điểm của phong cách độc đoán là nó cho phép giải quyết một cách nhanh chóng các nhiệm vụ. Nhược điểm
Người lãnh đạo theo phong cách này có thái độ ứng xử lạnh nhạt, quan cách, hay can thiệp vào công việc của người khác nên không tận dụng được sức sáng tạo của những người dưới quyền. Những người lãnh đạo độc đoán chuyên quyền dễ gây ra tình trạng bất ổn của doanh nghiệp, tạo cơ sở để phát sinh bè phái, ảnh hưởng đến công việc chung. Phong cách lãnh đạo độc đoán, chuyên quyền nhà quản trị là người có tính quyết đoán cao và dứt khoát khi đưa ra các quyết định quản trị, họ nắm bắt được thời cơ, cơ hội kinh doanh... Tuy vậy với phong cách này triệt tiêu tính sáng tạo của nhân viên cấp dưới, làm cho nhân viên cấp dưới có tâm lý lo sợ, có thể mang đến sự chống đối của cấp dưới. III. Ứng dụng phong cách lãnh đạo độc đoán, chuyên quyền trong quản trị kinh doanh: Kiểu quản lý mệnh lệnh độc đoán được đặc trừng bằng việc tập trung mọi quyền lực vào tay một mình người quản lý, người lãnh đạo-quản lý bằng ý chí của mình, trấn áp ý trí và sáng kiến của mọi thành viên trong tập thể. Phong cách lãnh đạo này xuất hiện khi các nhà lãnh đạo nói với các nhân viên chính xác những gì họ muốn các nhân viên làm và làm sao mà không kèm theo bất kì lời khuyên hay hướng dẫn nào cả. Nhà lãnh đạo sẽ là các huấn luyện viên tốt và đầy đủ các năng lực và trình độ. Nhờ đó, nhân viên sẽ được động viên để học hỏi những kĩ năng mới. Đây sẽ là môi trường hoàn toàn mới cho các nhân viên. Ngoài ra, trong trường hợp tập thể đang trong giai đoạn bắt đầu hình thành là giai đoạn tập thể chưa ổn định, mọi thành viên thường chỉ thực hiện công việc được giao theo nhiệm vụ, nhà lãnh đạo nên sử dụng phong cách độc đoán. Cũng cần độc đoán với: những người ưa chống đối; không có tính tự chủ; thiếu nghị lực, kém sáng tạo. Với một số tình huống đòi hỏi ta phải hành động khẩn trương và kịp thời, chẳng hạn như hỏa hoạn. Mỗi nổ lực phải dốc hết vào xử lý tình huống.
Những lúc này doanh nghiệp cần một sự lãnh đạo cứng rắn và uy quyền như phong cách lãnh đạo độc đoán.
Hay khi có sự bất đồng trong tập thể, trước sự thù địch, chia rẽ nội bộ, nhà quản trị cần phải áp dụng kiểu lãnh đạo độc đoán, sử dụng tối đa quyền lực của mình... Sau đây là ví dụ điển hình về người lãnh đạo thành công theo phong cách lãnh đạo độc đoán: Steve Jobs một nhà lãnh đạo đã gặt hái vô số thành công, đưa Apple từ một công ty không tên tuổi trở thành một đế chế hùng mạnh, một đại gia tên tuổi trong lĩnh vực công nghệ thông tin và công nghiệp giải trí. Thông thường, khi nhắc đến phong cách lãnh đạo độc đoán, người ta thường có những thành kiến không hay đối với nhà lãnh đạo sử dụng phong cách lãnh đạo đó. Họ nghĩ rằng những nhà lãnh đạo ấy thường lạm dụng quyền lực để buộc cấp dưới phục tùng theo mệnh lệnh của mình. Như có người đã từng nói: Dân chủ không tạo nên những sản phẩm tuyệt vời. Để làm được điều đó, các anh cần một nhà độc tài thông thái . Với Steve Jobs dường như ông đã đồng tình với câu nói này và ông lựa chọn cho mình một phong cách lãnh đạo duy nhất, đó là phong cách lãnh đạo độc đoán. Thực tế cho thấy, qua 12 năm ở Apple với cương vị là giám đốc điều hành, dưới sự lãnh đạo tài tình của ông, Apple đã tạo ra những sản phẩm vô cùng tuyệt vời có thể kể đến như Ipod, Iphone, Imac, Macbook Air,... Tuy nhiên, không chỉ mang lại những thành công vang dội, phong cách lãnh đạo độc đoán của ông cũng tạo ra những hệ quả tiêu cực. Ông thường xuyên áp đặt những suy nghĩ khác người của mình lên người khác. Ông hay đưa ra những quyết định một cách độc đoán trong chóp mắt, khiến không ít lần Jobs làm mọi người phải ngạc nhiên sững sờ. Sự ra đời của chiếc máy Imac năm 1997 chính là minh chứng cho sự độc đoán của ông. Với ý tưởng kỳ lạ về thiết kế như quả cầu trong phim khoa học viễn
tưởng, Jobs đã nhận được 38 lý do từ chối từ bộ phận kỹ sư, họ cho rằng ý tưởng này là không thể thực hiện được. Nhưng Jobs đã gạt phất đi và khẳng định Tôi là tổng giám đốc và tôi nghĩ rằng ta làm được . Tuy nhiên, không phải lúc nào Jobs cũng đúng. Việc ra những quyết định mang tính độc đoán mà không bàn bạc kỹ lưỡng và tham khảo ý kiến của mọi người đã đưa Jobs đối mặt với những sai lầm chết người. Một ví dụ điển hình là vào trước 1985, trong khi các hãng máy tính sản xuất phần cứng khác ứng dụng phần mềm điều hành của Microsoft, thì Jobs lại khăng khăng tự nghiên cứu và sản xuất phần mềm điều hành riêng cho máy của mình. Tuy nhiên, khi sản xuất ra thì phần mềm đã lỗi thời so với các đối thủ cạnh tranh khác. Trước khi Jobs tiếp quản, khu công sở có một bầu không khí cho thoải mái. Các nhân viên thích đi loanh quanh hút thuốc và tán gẫu trong sân khu liên hiệp R&D. Vài nhân viên có vẻ tiêu phí hầu hết thời gian để ném thức ăn cho chó của họ. Jobs bắt buộc phải có những quy tắc mới. Ông ra lệnh là không cho hút thuốc tại bất cứ nơi nào trong tổ chức. Rồi ông cấm chó vào công sở, lấy cớ vì chó bẩn thiểu và vài người dị ứng với chó. Các nhân viên đã rất bất bình và cho rằng Jobs không hiểu họ. Mọi người đang nhận thức rằng Jobs có thể khẳng định uy quyền của mình ở bất cứ mặt nào trong công ty. Mọi việc trong Apple đã, đang và sẽ đi theo tầm nhìn của nhà giám đốc độc đoán
này, từ quy định cấm hút thuốc, cách nấu nướng có lợi cho sức khỏe đến việc biên tập những mẫu quảng cáo trên truyền hình. Steve Jobs có thái đọ rất khắc khe đối với nhân viên của mình, ông luôn hỏi sự hoàn hảo đến từng chi tiết và không chấp nhận một sai sót nào dù là nhỏ nhất. Ông còn nổi tiếng với tính lạm quyền cá nhân, bởi ông có thể sa thải bất cứ một nhân viên nào trong cơn nóng giận. Nhân viên cấp cao của ông tại Apple đã làm việc với Jobs nhiều năm liền, trong số đó một số người đã phải ngậm ngùi ra đi, họ cho rằng, tuy Jobs tàn bạo, nhưng khi ở bên ông, họ chưa bao giờ làm việc tốt hơn thế. Ông cũng khét tiếng trong việc la hét các giám
đốc và các nhân viên của công ty một cách không thương tiếc. Bên cạnh đó, Jobs còn là người nổi tiếng quá khắt khe với công đoàn, ông đã áp dụng nhiều biện pháp để đàm phán với đại diện công đoàn như: dọa phá sản, thuê ngoài,...để có thể đạt được những thỏa thuận có lợi cho Apple. Chính vì vậy, không khí làm việc luôn căng thẳng và nghẹt thở dưới áp lực của công việc và đòi hỏi nghiêm khắc từ vị giám đốc. Cách thức điều hành của Jobs trong công việc: Là cha đẻ của 103 bản quyền của Apple, mọi thứ từ giao diện của iPod đến hệ thống hỗ trợ cho bộ thang máy được dùng trong các cửa hàng bán lẻ của Apple, ông luôn có sự tham gia và giám sát đến từng chi tiết nhỏ nhất. Ông không thể yên tâm mọi thứ sẽ hoàn hảo khi không có sự giám sát chặt chẽ trong mọi khâu. Biện pháp trừng phạt của Apple là hết sức nghiêm khắc: với bất khì ai vi phạm nguyên tắc im lặng, dù là vô tình hay chỉ là sự vi phạm chút xíu đếu phải nhận án phạt thường là sa thải ngay lập tức. Điển hình là Edward Eigerman một người đã có từng 4 năm kinh nghiệm làm kỹ sư cho Aplle đã bị đuổi khỏi hãng hồi năm 2005 khi đồng nghiệp của anh dính líu vào vụ tiếc lộ một vài phác thảo về phần mềm mới cho khách hàng. Mặc dù không liên quan nhưng Eigerman bị đuổi vì là bạn của thủ phạm. Nhìn chung, tuy đôi lúc phong cách lãnh đạo của Steve có dấy lên không ít dư luận nhưng có thể thấy dưới sự lãnh đạo của Steve, Apple đã lấy lại vị thế thủ lĩnh của mình bằng những đột phá trong công nghệ số. Năm 1997, Jobs quay trở lại với Qủa táo đã tạo nên cơn sốt lớn trên thị trường, nhanh chóng đưa Apple sánh vai với các đối thủ như Dell, Hewlett Packard. Nhờ tài cầm quân của Steve Jobs, Apple phát triển mạnh mẽ, liên tục vương tới những lãnh địa vốn không phải là thế mạnh của họ với những phát minh độc đáo. Trên thị trường máy tính: phải kể đến là sự trở lại đường đua trên thị trường máy tính của Apple khi Steve Jobs tiếp quản lại vào những năm 1997-1998 với các dòng máy tính được thay đổi kiểu dáng và sản xuất với nhiều màu sắc khác nhau. Hệ điều hành OSX của Apple cũng được hoàn thiện không ngừng với giao diện người sử dụng còn ấn tượng hơn cả
Window. Với những cách tân liên tục, các dòng máy tính của Apple ngày càng được tiêu thụ nhiều, như máy tính xách tay Powerbook, máy để bàn iMax G5. Với dòng máy iMax, ngành máy tính thế giới lại phải sững sờ trước óc sáng tạo và ý tưởng táo bạo của Steve Jobs. Máy với kiểu dáng ấn tượng và một hệ điều hành có khả năng hỗ trợ tất cả các ứng dụng quan trọng. Loại máy này còn có màn hình phẳng mỏng với bàn phím và con chuột điều không
dây. Màn hình chứa luôn cả đầu đọc DVD, cả loa âm thanh, cả CPU, ổ đĩa và chỉ cần 1 dây duy nhất để lấy nguồn điện. Trong năm 2007 Apple cũng cho ra mắt hệ điều hành Leopard và được đánh giá là đối thủ xứng tầm với Window Vista. Mục tiêu của Steve Jobs và Apple là tập trung sản xuất ra những sản phẩm tốt nhất thế giới chứ không phải trở thành công ty lớn mạnh nhất thế giới. Và không chỉ hoạt động trên lĩnh vực máy tính đơn thuần, Steve Jobs còn lái Apple sang lĩnh vực giải trí và ở đây ông đã đạt được những thành công vang dội nhât. IV. Kết luận - Những người quá độc đoán, cố chấp thường ít có ai thân cận và trung thành - Lãnh đạo tốt không chỉ là giải quyết vấn đề nhanh chóng và hiệu quả - Tùy vào trường hợp mà sử dụng phong cách độc đoán - Hitler nhờ lãnh đạo độc đoán mà tạo được những thành công vang dội, nhưng cũng vì quá độc đoán, chuyên chuyền nên thất bại.