Ở nhà Ngô giúp việc cho vua được gọi là gì

Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước thế kỉ X đến thế kỉ XV


  • Bước đầu xây dựng nhà nước độc lập ở thế kỉ X

          - Năm 938, Ngô Quyền xưng vương, xây dựng chính quyền mới.
          - Năm 944, Ngô Quyền mất. Anh (em) vợ là Dương Tam Kha tự lập ngôi.
          - Các nơi không chịu khuất phục, nhiều thủ lĩnh tức lên cát cứ một vùng, đem quân đánh chiếm lẫn nhau.
          - Năm 950, con trai thứ của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn lật đổ Dương Tam Kha, giành lại ngôi.
          - Năm 965, Ngô Xương Văn bị phục binh bắn chết ở Thái Bình. Con trai Ngô Xương Xí nối nghiệp, nhà Ngô ngày càng suy yếu, sau lui về đóng giữ đất Bình Kiều.
          - Năm 966, hình thành đủ 12 sứ quân, sử gọi là “Loạn 12 sứ quân”.
          - Từ năm 951, Đinh Bộ Lĩnh đã bắt đầu tập hợp dân chúng, chiêu mộ binh lính, thành lập đội quân chống nhà Ngô và các sứ quân khác.
          - Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh thành công dẹp hết đám loạn quân, lên ngôi hoàng đế hiệu Đinh Tiên Hoàng.

         => Nhà Đinh đã xây dựng nên nhà nước quân chủ sơ khai.

  • Phát triển và hoàn chỉnh bộ máy nhà nước phong kiến từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV
                        + Tổ chức bộ máy nhà nước

          - Năm 1010, Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long.

          - Năm 1054, Lý Thánh Tông Dời đổi tên nước thành Đại Việt

          - Từ thế kỉ XI đến XV, trải qua các triều đại Lý, Trần, Hồ, Lê, chính quyền trung ương được tổ chức ngày một chặt chẽ:  vua đứng đầu, nắm giữ mọi quyền hành, giúp việc cho vua có các tể tướng, đại thần và các cơ quan: sảnh, viện, đài.

          - Đất nước được chia thành các trấn, lộ, phủ, châu, huyện để cai trị.

          - Đơn vị hành chính cơ sở là xã.

          - Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi lập ra nhà Lê. Khôi phục quốc hiệu Đại Việt. Tổ chức nhà nước theo quy mô thời Trần, Hồ.

          - Từ nửa sau thế kỉ XV, vua Lê Thánh Tông tiến hành cải cách hành chính, chia đất nước thành 13 đạo thừa tuyên, mỗi đạo có 3 ty trông coi các mặt dân sự, quân sự và an ninh.

          - Tuyển chọn quan lại thông qua thi cử.

    

Ở nhà Ngô giúp việc cho vua được gọi là gì
     
Ở nhà Ngô giúp việc cho vua được gọi là gì
 

                   Bộ máy nhà nước triều Lý                                                Bộ máy nhà nước triều Trần                                                         Bộ máy nhà nước triều Lê Sơ

                         + Luật pháp và quân đội

          - Nhà Lý ban hành bộ Hình thư.

          - Nhà Trần ban hành bộ Hình thư.

          - Nhà Lê ban hành một bộ luật đầy đủ với hơn 700 điều mang tên Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức), quy định tội danh và hình phạt để bảo vệ quyền hành của giai cấp thống trị và một số quyền lợi của nhân dân và đất nước.

          - Quân đội được tổ chức quy củ gồm hai bộ phận: cấm binh và ngoại binh (lộ binh), được tuyển chọn theo chế độ “ngụ binh ư nông”.

          - Vào thời Trần, nhà nước cho phép vương hầu được mộ quân đánh giặc khi có chiến tranh.

                         + Hoạt động đối ngoại và đối nội

          - Nhà nước quan tâm nhân dân và nhân dân có nghĩa vụ đi lính, lao dịch, nộp thuế, chăm lo bảo vệ đê điều.

          - Đoàn kết với các dân tộc ít người.

          - Triều cống phương Bắc nhưng luôn giữ tư thế của một quốc gia độc lập.

          - Quan hệ thân thiện với Lan Xang, Champa, Chân Lạp.

Nhà Ngô (chữ Nôm: 茹吳, chữ Hán: 吳朝, Hán Việt: Ngô triều) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, truyền được hai đời nhưng có tới ba vị vua, kéo dài từ năm 939 đến năm 965. Khoảng thời gian xen giữa từ 944 đến 950 còn có Dương Bình Vương tức Dương Tam Kha. Khác với các triều đại quân chủ Việt Nam sau này, các vua nhà Ngô vẫn xưng tước vương mà chưa xưng đế hiệu trên phạm vi toàn lãnh thổ do họ cai trị.

Ở nhà Ngô giúp việc cho vua được gọi là gì

Tĩnh Hải quân

939–965

Cương vực của Tĩnh Hải quân và có thể là của nhà Ngô trong một vài năm (Xem mục Hành chính).

Ở nhà Ngô giúp việc cho vua được gọi là gì

Bản đồ các quận huyện thời Ngô

Thủ đôCổ LoaNgôn ngữ thông dụngViệt ngữ và Hán ngữ trung đạiTôn giáo chính

Phật giáo, Đạo giáo, Cảnh giáo[1]Chính trịChính phủQuân chủVua 

• 939-944

Ngô Vương (đầu tiên)

• 944-950

Dương Tam Kha

• 965

Ngô Xương Xí (cuối cùng) Lịch sử 

• Chiến tranh chống Nam Hán

938

• Ngô Quyền lên ngôi

939

• Loạn 12 sứ quân

965 Kinh tếĐơn vị tiền tệTiền xu

Tiền thân
Kế tục
Ở nhà Ngô giúp việc cho vua được gọi là gì
Bắc thuộc lần 3
Nhà Đinh
Ở nhà Ngô giúp việc cho vua được gọi là gì

Sau khi tiêu diệt nhà Tùy, nhà Đường tiếp tục sửa sang chế độ hành chính và sự phân chia châu quận, tiếp tục cai trị An Nam. Cho đến giữa thế kỷ IX, nhà Đường có biến loạn; một hào trưởng người Hồng Châu là Khúc Thừa Dụ, năm 905 nổi lên. Khúc Thừa Dụ đánh đuổi quan lại và binh lính nhà Đường, chiếm giữ phủ thành, xưng Tiết độ sứ, năm 906, nhà Đường phải công nhận. Năm sau, nhà Đường mất.

Trong lúc họ Khúc đang tìm cách xây dựng chính quyền tự chủ ở An Nam, ở miền Nam Trung Quốc, Tiết độ sứ Quảng Châu là Lưu Nham đã cát cứ, dựng nước Nam Hán, ở phía Bắc là nhà Lương. Năm 917, Khúc Thừa Mỹ kế nghiệp Khúc Hạo, sai sứ sang nhà Lương xin quy phục, hành động này làm Nam Hán nổi giận. Vua Nam Hán là Lưu Cung sai Lý Khắc Chính[2] đem quân sang, bắt được Khúc Thừa Mỹ, Nam Hán chiếm giữ An Nam.

Năm 931, Dương Đình Nghệ phát binh từ Ái Châu ra bắc đánh bại quân Nam Hán, xưng là Tiết độ sứ. 7 năm sau, năm 937, Dương Đình Nghệ bị nha tướng của mình là Kiều Công Tiễn giết, cướp quyền, thần phục Nam Hán. Được tin Kiều Công Tiễn phản nghịch và thấy việc quy phục nước Nam Hán là nguy hại cho cuộc tự chủ mà họ Khúc và họ Dương đã xây dựng nền móng, Ngô Quyền, là nha tướng và con rể của Dương Đình Nghệ, lúc ấy đang cai quản Ái Châu, phát binh tiêu diệt Kiều Công Tiễn.[3]

Năm 938, Ngô Quyền tập hợp lực lượng từ Ái Châu ra đánh Kiều Công Tiễn. Công Tiễn sai sứ sang cầu cứu Nam Hán. Vua Nam Hán là Lưu Nghiễm phong cho con là Vạn vương Hoằng Tháo (hoặc Hồng Tháo)[4] làm Giao vương, rồi sai Tháo đem quân sang cứu. Nghiễm tự mình đóng quân ở Hải Môn làm thanh viện. Ngô Quyền hạ thành Đại La, giết Công Tiễn rồi bày trận trên sông Bạch Đằng đón quân Nam Hán.

 

Tranh ghép đá mô phỏng trận Bạch Đằng 938

Tháng 11 năm 938, thủy quân của Hoằng Tháo bị Ngô Quyền đánh tan trong trận Bạch Đằng. Hoằng Tháo bị giết chết, Lưu Nghiễm thu thập tàn binh quay về.[4]

Năm 939, Ngô Quyền lên ngôi, tức là Tiền Ngô Vương, đóng đô ở Cổ Loa, lập Dương thị làm vương hậu; đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục.[5]

Các bộ chính sử của Việt Nam như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử Thông giám cương mục,... đều không chép rõ việc trị nước của Ngô Quyền.

 

Trung[liên kết hỏng] Quốc và Việt Nam (923-936).

  nhà Hậu Đường

  Ngô (吳)

  Ngô Việt (吳越)

  Mân (閩)

  Sở (楚)

  Nam Hán (南漢)

  Tĩnh Hải quân (靜海軍)

  Kinh Nam (荆南)

Năm 944, Tiền Ngô Vương mất, sai Dương Tam Kha giúp lập thái tử. Dương Tam Kha là anh (có sách nói là em) Dương Thái hậu cướp ngôi, tự xưng Dương Bình Vương.

Con trưởng Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập chạy trốn về Nam Sách (Hải Dương). Dương Tam Kha lấy Ngô Xương Văn, con thứ của Ngô Quyền, làm con nuôi. Dương Tam Kha 3 lần sai quân đi bắt Ngô Xương Ngập mà không bắt được vì hào trưởng Nam Sách là Phạm Lệnh Công che chở cho Xương Ngập.

Năm 950, Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn đi đánh Thái Bình. Ngô Xương Văn thuyết phục được 2 tướng Đỗ Cảnh Thạc và Dương Cát Lợi dẫn quân quay lại lật đổ Dương Tam Kha giành lại ngôi vua. Xương Văn không giết Dương Tam Kha mà giáng xuống làm Chương Dương công.

Năm 950, Ngô Xương Văn tự xưng làm Nam Tấn Vương, đóng đô ở Cổ Loa. Ngô Xương Văn cho người đón anh trai Ngô Xương Ngập đang trốn ở Nam Sách trở về.

Ngô Xương Ngập cũng làm vua, tự xưng là Thiên Sách Vương (951–954). Lúc đó cùng tồn tại hai vua là Nam Tấn Vương và Thiên Sách Vương. Lên ngôi vương, Ngô Xương Ngập lấn át quyền hành của Ngô Xương Văn khiến Xương Văn bất bình rút lui việc chính sự[6].

Nhưng chỉ được 3 năm, đến năm 954, Ngô Xương Ngập bị bệnh chết, chỉ còn một mình Nam Tấn vương Ngô Xương Văn làm vua.

 

Tượng ngựa bằng gốm thế kỷ X

 

Ấm đồng thời Ngô

Lúc nhà Ngô suy yếu, một số thủ lĩnh địa phương nổi dậy cát cứ không thần phục triều đình.

Năm 951, Đinh Bộ Lĩnh ở động Hoa Lư – con Thứ sử châu Hoan đã mất là Đinh Công Trứ – dựa vào vùng núi khe hiểm yếu, không chịu tuân lệnh triều đình. Hai vua Ngô muốn cất quân đi đánh; Bộ Lĩnh sợ, sai con là Đinh Liễn vào triều làm con tin để ngăn chặn việc xuất quân. Hai vua Ngô vương trách Bộ Lĩnh không tự mình đến chầu, rồi bắt giữ Đinh Liễn đem theo quân đi đánh Hoa Lư.

Quân Ngô tấn công hơn một tháng, không đánh nổi. Hai vua Ngô bèn treo Đinh Liễn lên ngọn sào, sai người bảo Bộ Lĩnh, nếu không chịu hàng thì giết Liễn. Nhưng Bộ Lĩnh vẫn không thần phục, lại sai hơn 10 tay nỏ nhắm con mình mà bắn[7]. Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn kinh sợ nói rằng:

"Ta treo con nó lên là muốn để nó đoái tiếc con mà ra hàng cho chóng. Nó tàn nhẫn như thế, còn treo con nó làm gì."

Vì vậy hai anh em vua Ngô không giết Đinh Liễn mà đem quân về.

Sau khi Thiên Sách vương mất, thủ lĩnh ở quận Thao Giang là Chu Thái quật cường không thần phục nhà Ngô. Nam Tấn vương thân chinh đi đánh, chém được Chu Thái. Từ trận thắng ấy, Nam Tấn vương sinh kiêu[6]. Năm 965, ông đi đánh thôn Đường và thôn Nguyễn ở Thái Bình, bị phục binh bắn nỏ chết.

Ngô Xương Văn chết, con của Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí nối nghiệp, nhưng thế lực ngày càng yếu kém. Theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, trong triều đình Cổ Loa, các đại thần họ Kiều, họ Dương làm loạn (có sách lại nói các đại thần làm loạn là Lã Xử Bình và Kiều Tri Hựu)[6]. Xương Xí phải lui về giữ đất Bình Kiều (có sách nói Bình Kiều ở Hưng Yên, lại có thuyết cho rằng ở Thanh Hóa[8]).

Từ năm 966, hình thành 12 sứ quân cát cứ, sử sách gọi là loạn 12 sứ quân, trong đó có người trong hoàng tộc nhà Ngô (Ngô Xương Xí, Ngô Nhật Khánh), các tướng nhà Ngô (Phạm Bạch Hổ, Đỗ Cảnh Thạc, Kiều Công Hãn) và số lớn là các thủ lĩnh địa phương tự nổi dậy (Kiều Thuận, Trần Lãm, Nguyễn Khoan, Nguyễn Thủ Tiệp, Nguyễn Siêu, Lý Khuê, Lã Đường). Thời kỳ này kéo dài đến năm 968 thì bị Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong và lập ra nhà Đinh.

 

Trung[liên kết hỏng] Quốc thời nhà Hậu Tấn (936-947) và nhà Hậu Hán (947-950). Việt Nam bắt đầu tự chủ ở phía Nam.

  Hậu Tấn (後晉) và Hậu Hán (後漢)

  Hậu Thục (後蜀)

  Kinh Nam (荆南)

  Sở (楚)

  Nam Đường (南唐)

  Ngô Việt (吳越)

Sau năm 945, lãnh thổ nước Mân trước đây bị phân chia giữa Nam Đường, Ngô Việt và Thanh Nguyên quân

  Thanh Nguyên quân (清源軍)

  Nam Hán (南漢)

Thời Ngô, lãnh thổ chỉ còn 8 châu (so với 12 châu thời Tự chủ) là:[9]

  • Giao
  • Lục
  • Phúc Lộc
  • Phong
  • Trường
  • Ái
  • Hoan
  • Diễn

Bốn châu: Thang, Chi, Vũ Nga và Vũ An thuộc về Nam Hán. Việc thu hẹp lãnh thổ phía bắc này không được sử sách ghi chép rõ. Theo ý kiến của Đào Duy Anh trong Đất nước Việt Nam qua các đời thì 4 châu này bị Nam Hán chiếm[10], nhưng không rõ vào thời điểm nào: khi Kiều Công Tiễn cầu viện đã để quân Hán tiến vào (937) và Ngô Quyền chưa kịp tập hợp lực lượng tiến ra Đại La (938) hay sau thời điểm trận Đại La, trước trận Bạch Đằng... (cuối năm 938). Theo Nguyễn Khắc Thuần trong Thế thứ các triều vua Việt Nam, không rõ căn cứ theo tài liệu nào, cho rằng Ngô Quyền bàn giao 4 châu này cho Nam Hán "để tiện việc phòng thủ"[9], thì việc này có thể xảy ra sau trận Bạch Đằng hoặc Nam Hán đã chiếm được trước đó mà Ngô Quyền chỉ làm việc công nhận vùng bị mất này thuộc về Nam Hán.

Ngô Quyền tự xưng là Ngô vương, sử sách không xác nhận việc ông quan hệ ngoại giao với các vương triều nào trong số các nước ở phương Bắc thời kỳ Ngũ đại Thập quốc.

Năm 954, Ngô Xương Văn sai sứ sang giao hảo với Nam Hán và xin tiết việt. Vua Nam Hán là Lưu Thịnh nhận giao hảo của Xương Văn. Sau đó Lưu Thịnh âm mưu cho Lý Dư làm sứ cầm cờ "tinh" sang chiêu dụ nhận Tĩnh Hải quân là phiên thần và phong chức Tiết độ sứ cho hắn để cai quản Đô hộ cho Ngô Xương Văn[6].

Được tin Lý Dư sắp vào, Ngô Xương Văn cho ngay người đi sang biên giới ngăn lại. Hai bên gặp nhau ở Bạch châu. Sứ của Xương Văn nói với Lý Dư rằng:

Giặc biển đương làm loạn, đường sá đi lại rất khó.

Lý Dư bèn quay về nước. Đó là lần ngoại giao duy nhất giữa nhà Ngô và Nam Hán trong 21 năm tồn tại.

  • Ngô Quyền
  • Dương Tam Kha
  • Ngô Xương Ngập
  • Dương Như Ngọc
  • Ngô Xương Văn
  • Ngô Xương Xí
  • [Cổ loa ]
  • Đại Việt
  • Trận Bạch đằng (938)

  1. ^ Phu Xuan Ho (1989). CHURCH–STATE RELATIONS IN VIETNAM. Sage Publications, Ltd. tr. 21. ISSN 0265-3788.
  2. ^ Tân Ngũ Đại sử ghi là: Lý Thủ Dung và Lương Khắc Trinh.
  3. ^ Đất nước Việt Nam qua các đời, Đào Duy Anh, Nhà Xuất bản Nhã Nam, 2016, trang 131.
  4. ^ a b Châu Hải Đường (2018), An Nam Truyện – Ghi chép về Việt Nam trong chính sử Trung Quốc xưa. Công ty Cổ phần sách Tao Đàn, Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn. Trang 236.
  5. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội, 1993, bản điện tử, tr. 54.
  6. ^ a b c d Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tiền biên quyển 5[liên kết hỏng]
  7. ^ “Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ quyển 5”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2010.
  8. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr. 112-113.
  9. ^ a b Nguyễn Khắc Thuần, sách đã dẫn, tr. 41.
  10. ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr. 111.

  • Đại Việt Sử ký Toàn thư.
  • Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục.
  • Đào Duy Anh (2005), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nhà Xuất bản Văn hóa thông tin.
  • Nguyễn Khắc Thuần (2008), Thế thứ các triều vua Việt Nam, Nhà Xuất bản Giáo dục.
  • Trần Trọng Kim (1919), Việt Nam sử lược.
  • Châu Hải Đường (2018), An Nam Truyện – Ghi chép về Việt Nam trong chính sử Trung Quốc xưa. Công ty Cổ phần sách Tao Đàn, Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Nhà_Ngô&oldid=68225461”