Ngôn ngữ tự sự là gì


Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

CHƢƠNG 3.

NGÔN NGỮ TỰ SỰ VÀ GIỌNG ĐIỆU TỰ SỰ TRONG TRUYỆN

NGẮN NGUYỄN CÔNG HOAN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8

NĂM 1945.

Nằm trong tính toàn vẹn của cơ cấu nghệ thuật, tác phẩm văn học là

một cơ thể sinh động, có sự thống nhất của nhiều yếu tố mà ở đấy bao giờ

ngôn ngữ cũng là điểm khởi đầu, đồng thời là điểm tựa.

Ngôn ngữ trong văn học nghệ thuật cũng giống như màu sắc trong hội

họa, âm thanh trong âm nhạc, đường nét trong kiến trúc. Nó là chất liệu trực

tiếp và duy nhất, là yếu tố không thể thiếu được của văn chương. Đối với

người nghệ sĩ, quá trình sáng tạo văn học, xét về một phương diện nào đó, là

quá trình điều hành, tổ chức ngôn ngữ theo một cơ cấu riêng mang tính chủ

quan. ở đây ngôn ngữ vừa là một phương tiện vừa là một trong những vật liệu

cơ bản để khách quan hóa những hình tượng trong tư duy nghệ thuật của

người nghệ sĩ.

Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng nhất của tiểu thuyết. Trước đây ngôn

ngữ luôn được coi như một công cụ để truyền đạt tưởng và tình cảm của con

người. Do đó đối với tiêu chuẩn cao nhất, sự tìm tòi khả năng thể hiện của

ngôn ngữ là khả năng tái hiện thế giới hiện thực và thế giới nội tâm một cách

chuẩn xác, sống động mà quan trọng nhất chính là vấn đề cá tính hóa cho

ngôn ngữ của các nhân vật trong tiểu thuyết. Martin Heidegger nhận xét:

Ngôn ngữ là ngôi nhà của tồn tại, Ludwing Wittgenstein quan niệm: Nghĩ

đến một ngôn ngữ có nghĩa là nghĩ đến một phương thức sống, Wolfgang

Kayser lại cho: Bên ngoài ngôn ngữ thì không có thế giới.

Từ ngôn ngữ, các nhà nghiên cứu lại chỉ ra rằng: Một chuyện kể có một

cốt truyện dựa trên một hành động mà nhân vật tạo ra và trải nghiệm, và có



99



Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

một người kể chuyện kể về nó. Như vậy chắc chắn rằng, trong câu chuyện

không thể không có người kể chuyện. Với một người kể chuyện bằng xương

bằng thịt hiện diện trước mắt thì việc tiếp nhận quá dễ dàng. Nhưng liệu qua

những dòng chữ in trên văn bản, ta sẽ tiếp nhận một cách đầy đủ và thấu đáo?

Và người kể chuyện như vậy có thể có một giọng điệu rõ ràng để ta nắm bắt?

3.1. Ngôn ngữ tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan trƣớc

Cách mạng tháng 8 năm 1945.

3.1.1. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đánh dấu sự trưởng thành và

hoàn thiện của ngôn ngữ văn xuôi quốc ngữ

Có thể nói, về mặt ngôn ngữ văn học ngòi bút Nguyễn Công Hoan có

những đóng góp đáng kể vào sự phát triển của nền văn xuôi Việt Nam hiện

đại. Có mặt trên văn đàn từ khi văn xuôi chữ quốc ngữ còn chập chững non

trẻ, những tác phẩm văn học trong 50 năm sáng tác của ông là một bằng

chứng điển hình sinh động cho sự trưởng thành nhanh chóng kì diệu và ngày

càng hoàn thiện của ngôn ngữ văn xuôi quốc ngữ.

Thời kì trước đấy, dù đã cố gắng cải tiến, đổi mới, thì trong truyện ngắn

Nguyễn Bá Học và Phạm Duy Tốn, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, và ngay cả Tố

Tâm của Hoàng Ngọc Phách được coi là một sự kiện làm đảo lộn bao nhiêu

quan niệm có tính chất cổ truyền về hai chữ văn chương vẫn đầy rẫy câu

văn biền ngẫu, nhiều điển tích, điển cố, từ cổ Hán  Việt. Đến văn chương Tự

lực Văn đoàn  cùng song hành với Nguyễn Công Hoan  dù đã đề ra chủ

trương phải dùng một lối nói giản dị, dễ hiểu, ít chữ Nho, một lối văn thật có

tính cách An Nam, nhưng lại đi vào xu hướng gia công đẽo gọt để chuyên

chở lý tưởng về một cuộc sống sang trọng, nhiều mơ mộng lãng mạn. Và vì

thế, chàng và nàng là cách xưng hô tối cao, như được độc tôn trong

văn chương Tự lực Văn đoàn.



100



Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

Với truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, phải nói rằng ở một số truyện

thời kì 1920  1923 như Sóng vũ môn có những đoạn văn còn dài dòng,

rườm rà và hơi cổ, như khi Nguyễn Công Hoan miêu tả cảnh thí sinh nhập

trường thi: Các quan vào trường tế một tuần dùng lễ tam sinh. Nửa đêm hôm

30, mưa phùn lầy đường, trời tối như mực, gió thổi lạnh buốt. Xứ Quý ăn cơm

xong sắp sửa các đồ dự bị vào trường, xắn quần vén áo, ngọn đuốc cầm tay;

người nhà quảy lều, chiếu, yên, chõng theo sau, hai người lững thững bước ra

phố. Đi được nửa đường, Quý gặp cậu Tư con cụ lớn bố bèn rủ nhau cùng đi.

Ngoài phố nhấp nhô ngọn đuốc, chỗ xa chỗ gần cùng hướng trường thi thẳng

tới, như một đám đom đóm kéo quân (Sóng vũ môn).

Nhưng từ những năm 1929, 1930 trở đi, ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan đã thể hiện rõ sự lệch chuẩn, sự độc đáo riêng biệt đối với ngôn

ngữ văn chương phổ biến cùng thời. Nguyễn Công Hoan đã có một ngôn ngữ

sống động, phong phú, gần với cuộc sống với những câu văn sáng sủa, ngắn

gọn và linh hoạt. Đó là một cách viết truyện ngắn nôm na có chủ định rõ

ràng: Tôi chú ý nhất là làm cho câu văn giản dị, sáng sủa, dễ hiểu cho lỗ tai

bình thường của người Việt Nam. Nghĩa là làm thế nào đặt câu văn viết như

lời nói chuyện, và phải cố làm thế, dù đó là một khó khăn cho người cầm bút

mang cố tật ăn nói bằng văn chương (Đời viết văn của tôi). Không một nhà

truyện ngắn nào những năm 30 mà ngôn từ mang được khả năng tượng hình,

biểu đạt hành động sống một cách sống động rắn rỏi, cứng cáp như Nguyễn

Công Hoan. Hãy xem cái cảnh lên cơn nghiền của một cô gái thèm chưng

diện: Xong đâu đấy, cô lận đôi giầy mang cá, ôm cái ví đầm, đến trước tủ

gương mà đứng. Cô quay đằng trước. Cô quay đằng sau. Cô đi đi. Cô lại lại.

Cô uốn éo. Cô thướt tha. Rồi cô đứng yên. Cô ngắm. Cô bàn. Cô tán. Cô bình

phẩm Cô khoái lắm! Rồi trong độ nửa giờ, ngắm chán, cô trút hết bộ cánh

ra, xin thau nước lau kĩ cái mặt, rồi mặc quần áo thâm đi về (Cô Kếu, gái tân



101



Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

thời). Đây là một chớp mắt ở chợ khi thằng bé mới nứt mắt nai đã đi ăn

cắp được Nguyễn Công Hoan chớp lấy: Bà bán hàng rau đứng dậy, quảy

gánh lên vai, đi chỗ khác. Bà hàng thịt sờ lại ruột tượng. Bà hàng bún riêu nắn

lại túi tiền. Bà hàng lê bấm cô hàng bánh đúc. Chị bán bánh rán đưa mắt cho

bác bán khoai (Thằng ăn cắp). Và đây nữa là cảnh thằng bé ăn cắp bị đánh

hội đồng: Chửi. Kêu. Đấm. Đá. Thụi. Bịch. Cẳng chân. Cẳng tay. Như mưa

vào đầu. Như mưa vào lưng. Như mưa vào chân nó. Vẫn chửi. Vẫn kêu.

Vẫn đấm. Vẫn đá. Vẫn thụi. Vẫn bịch. Vẫn cẳng chân. Vẫn cẳng tay. Vẫn đòn

càn. Vẫn đòn gánh. Đáng kiếp! (Bữa no đòn). Thật khó có cách nào miêu tả

hành động sống động hơn thế: ở đây có cả hình và tiếng, có âm thanh và ánh

sáng, có hành động và tâm trạng, có khách thể cuộc sống và chủ thể tác giả

đóng vai trò người kể chuyện. Tất cả hòa quyện lại trong một đoạn văn gọn

ghẽ, thành một bức tranh trước mắt người đọc, tưởng như có thể nhìn thấy,

nghe thấy và sờ thấy!

Thế nên, ngay từ năm 1932, Trúc Hà đã nhận ra ở truyện ngắn Nguyễn

Công Hoan một ngọn bút mới, Không réo rắt như một cung đàn, không

nhẹ nhàng như một bài thơ [39, 47]. đối lập với những xu hướng văn chương

lãng mạn đương thời với lối văn lôi thôi, cầu kì hoa mỹ. Năm 1944, Vũ Ngọc

Phan cảm nhận được một thứ văn rất vui, có nhiều cái bất ngờ của một

người kể chuyện rất có duyên [39, 63].

Để có được những câu văn ngắn gọn, dễ hiểu, những trang viết sinh

động, linh hoạt, Nguyễn Công Hoan đã tự xác định cho mình một cách viết

riêng, như ông tâm sự trong cuốn hồi kí Đời viết văn của tôi: Trong nghề

viết văn, cách đặt câu là việc khá quan trọng. Tôi thường cố gắng sao cho câu

văn của tôi được gọn, gẫy và rõ. Cho nên tôi thường chỉ đặt những câu ngắn.

Phải để một câu quá hai dòng là điều vạn bất đắc dĩ và là sự khổ tâm của

tôi Quả thực, những câu văn ngắn như trên không chỉ làm câu văn nhẹ,



102



Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

người đọc dễ thở, được nghỉ ngơi, mà quan trọng hơn là chúng đã vẽ nên

những bức tranh rất thực, rất sống động.

Lối viết văn mới mẻ này phần nào có lẽ còn do Nguyễn Công Hoan

chịu ảnh hưởng của văn học Pháp những năm học ở trường Nam sư phạm.

Trong số đó, Alêchxăng Đuyma là nhà văn ông đặc biệt yêu thích và đã có

ảnh hưởng ít nhiều tới phương pháp sáng tác của ông. Hơn nữa, ông chịu ảnh

hưởng lớn của văn Tản Đà, thơ Tú Xương, văn học dân gian, truyện tiếu lâm

và báo chí văn học đương thời. Nhưng điều quan trọng là ông biết tiếp thu

những điều hay tốt, biết gạn lọc những tinh tế nhuần nhuyễn vào ngòi bút của

mình, biến nó thành máu thịt của câu văn ông, chứ không phải là sự bắt

chước, rập khuôn thô thiển, sống sượng. Chính vì những ưu điểm đó, ông

được độc giả chấp nhận dễ dàng nhanh chóng chinh phục độc giả ngay từ

những truyện ngắn đầu tay in trên mục: Xã hội ba đào kí.

Chúng tôi cho rằng, yếu tố nổi trội, bao trùm có khả năng chi phối các

yếu tố mang tính đặc trưng của ngôn ngữ tự sự truyện ngắn Nguyễn Công

Hoan, biến văn ông trở thành một kiểu văn hiện thực trào phúng ngồn ngộn

chất sống, chính là lối văn nôm na gần với cuộc sống, cố tượng hình cuộc

sống mà chính Nguyễn Công Hoan đã tự xác định cho mình như một lối đi

riêng: Truyện thế nào, cứ viết nôm na như thế

3.1.2. Sự sinh động, phong phú, gần gũi với ngôn ngữ đời sống

Trong hồi kí Đời viết văn của tôi, Nguyễn Công Hoan có nhắc nhiều

đến thời kì làm nghề godautre  thời kì mà ông luôn bị bọn quan lại ghen

ghét thù oán, do bản tính cương trực, ngang ngạch và đặc biệt luôn chĩa ngòi

bút châm biếm, đả kích vào chế độ quan trường. Chính vì vậy mà người thầy

giáo thường cứ bị đổi đi rất nhiều nơi như Hải Dương, Nam Sách, Kinh Môn,

Trà Cổ, Lào Cai Nhưng chúng không biết rằng chính những bôn ba cực

nhọc của nghề lại giúp ông có một vốn sống phong phú, một sự hiểu biết sâu



103



Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

sắc về tâm lí, ngôn ngữ, lời ăn tiếng nói của nhiều loại người trong xã hội.

Ông từng tâm sự: Nghề dạy học là nghề gần gũi vì người ta tin rằng nghề làn

thaayd không phải là nghề làm hại người. Bao nhiêu phụ huynh đến với tôi là

từng ấy người sẵn sàng cho tôi biết đời sống của họ Thế là 20 năm trong

giáo giới, tôi lại được học thêm ở cuốn sách thiên nhiên những điều rất hay

trong những trang rộng lớn và vô tận. Tôi được biết thêm nhiều nhân vật từ

cách ăn mặc, cử chỉ đến các sinh hoạt thường và bất thường cho đến cách

nghĩ ngợi và ăn nói (Đời viết văn của tôi).

Những vốn sống được thu lượm, tích lũy dần dần đó đã giúp ông thật

linh hoạt, tự nhiên trong việc sử dụng từ ngữ, khẩu ngữ, ngôn ngữ đời sống

sinh động, phong phú, để từ đó xây dựng ngôn ngữ nhân vật, xây dựng ngôn

ngữ và gọng điệu người kể chuyện trong những truyện ngắn của mình.

Ngôn ngữ trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan là ngôn ngữ của đời

sống, ông đưa lời ăn tiếng nói của quần chúng lao động vào vào văn chương

một cách chọn lọc, khiến văn chương mất hết vẻ đài các xa vời như trước, mà

thành ngôn ngữ tự nhiên, thoải mái, gần gũi với đời sống. Chẳng hạn, khi ông

tả một tên tư sản khoe chó và tự mãn về con chó của mình: Ông chủ đắc ý

cười ha hả, vuốt vẻ, vui thú như được cậu con hay chữ vậy (Răng con chó

nhà tư sản). Điều này khiến truyện của ông mang một sắc thái sinh động rất

đặc biệt.

Ngôn ngữ đời sống trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan còn là ngôn

ngữ giàu kịch tính  tức là ngôn ngữ có tính hành động, tính khẩu ngữ và

được tính cách hóa.

Về tính hành động của ngôn ngữ, điều dễ nhận thấy là trong truyện

ngắn của ông, số lượng từ loại động từ hoạt động với tần số cao, tạo nên kịch

tính cao độ ngay trong câu văn:



104



Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

Nhưng nó vẫn nhai, vẫn nuốt. Rồi biết thế nguy, nó không nhai, trợn

mắt lên để nuốt chửng. Rồi lại hấp tấp ngốn luôn miếng nữa.

Hay hiệu quả của cách dùng động từ để diễn tả không khí sôi động, náo

nhiệt, mất trật tự của buổi họp chợ, như bày ra trước mắt người đọc một bức

tranh hiện thực đời sống hết sức chân thực, sinh động:

Người ta chen nhau, đẩy nhau, cản nhau. Một tốp người đi, một tốp

người lại. Tranh nhau đi lại rồi mắc nghẽn ở lối hẹp, ùn lại. Người ta đẩy

nhau. Một bà đương chổng mông, mặc cả bìa đậu, bị giúi ngã xấp xuống mẹt

hàng. Một chuỗi của chẳng ngon bày ra để hiến các ông bà ông vải. Nheo

nhéo. (Bữa no đòn)

Về tính khẩu ngữ và tính cách hóa, ta có thể đọc trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan nhiều đoạn đối thoại đa giọng điệu, mang tính khẩu ngữ,

rất gần gũi với đời sống hàng ngày:

Bác Phô gái, dịu dàng, đặt cành cau lên bàn, ngồi xổm ở xó cửa, gãi

tai, nói với ông lý:

- Lạy thầy, nhà con thì chưa cất cơn, mấy lại sợ thầy mắng chửi, nên

không dám đến kêu. Lạy thầy, quyền phép trong tay thầy, thầy tha cho nhà

con, đừng bắt nhà con đi xem đá bóng vội.

- Ồ, việc nhà quan không phải như chuyện đàn bà của các chị!

- Thì lạy thầy, thế này, làng ta thì đông, thầy cắt ai không được. Tại

nhà con ốm yếu, nên xin thầy hoãn cho đến lượt sau.

- Ốm gần chết cũng phải đi. Lệnh quan như thế. Ai cũng lấy cớ ốm

yếu mà không đi thì người ta đá bóng cho chó xem à?

- Thưa thầy, giá nhà con khỏe khoắn, thì nhà con chả dám kêu. Nhưng

thưa thầy, từ đây lên huyện, những chín cây-lô-mếch, sợ nhà con đi nắng thì

cảm, rồi phải lại thì oan gia.



105



Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

- Đây không biết, mà đây cũng không nghe đâu. Vợ chồng thu xếp với

nhau thế nào, đây mặc kệ!

- Thưa, hay con nghỉ buổi chợ để đi thay nhà con có được không ạ?

- Không! Phải là đàn ông kia? chứ nữ nhân ngoại tộc, ai kể.

Người đàn bà thở dài:

- Thế thì con biết làm thế nào được! (Tinh thần thể dục)

Chỉ trong một đoạn thoại ngắn, ta có thể hiểu được tính cách, hoàn

cảnh và tầng lớp của mỗi nhân vật. Bác Phô gái là cùng dinh, tình cảnh khó

khăn, chồng ốm đau, nhà nghèo, bác muốn xin di thay chồng xem bóng đá.

Do vậy, giọng Bác nhún nhường, van lơn, dùng nhiều từ đưa đẩy thưa, thưa

thầy, lạy thầy để láy lòng ông lý. Bác lại là người ít học, nên ki lô mét, bác

nói là cây lô mếch. Còn ông lý đầy quyền hành, lời ông là lời quát nạt, đe

dọa, có phần nhẫn tâm. Ông có chút chữ nghĩa nên dùng từ nữ nhân ngoại

tộc, nhưng lại tỏ ra thiếu văn hóa: đi đá bóng cho chó nó xem à?

3.1.2.1. Cách đặt tên, gọi tên nhân vật

Cách đặt tên nhân vật cũng rất giản dị như người ta gọi nhau trong đời

sống hàng ngày: tên riêng giản dị của những người dân lao động nghèo: Phô,

Cốc, Tiêu, Mấu, Mùi, Tam, Lan, tên riêng của giới nghệ sĩ thì Lê Văn Tầm,

Tiếp Như, Hồng Sơn, Việt Sĩ, Lê, Nguyễn, giới quan lại thì ít dùng tên

riêng: Hinh, Lê Thăng mà dùng nhiều đại từ gọi nhân vật như: quan ông,

quan bà, bà ấy, ngài, tầng lớp dưới chủ yếu dùng đại từ nó.

Tên riêng đi với đại từ chỉ ngôi nhân xưng: Bác Phô gái, anh Ba Cốc,

anh cu Mấu, anh đĩ Mùi, chị Tam, bác Lanchị Cu, con Đỏ, thằng Quýt

Nhưng nhiều khi tên gọi ấy mang chứa ý nghĩa bất ngờ. Chẳng hạn,

Phong và Nguyệt là hai tên có vẻ lãng mạn, nhưng lại tố cáo chuyện phong



106



Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

tình, gió trăng của hai người. Hay để mỉa mai kẻ dốt nát mà muốn có tên

văn chương, nhà văn đặt tên nhân vật để nói ngay cái tầm thường của y: Lê

Văn Tầm. Hoặc mỉa mai một kẻ đầy ảo tưởng, nhà văn lại đặt cho hắn một cái

tên rất kêu: Lê Hùng Dũng.

Những tên gọi giản dị, đời thường ấy không phải tác giả có được một

cách ngẫu nhiên, dễ dàng. Câu chuyện ông kể về cách đặt tên truyện ngắn

Kép Tư Bền cho ta thấy rõ được sự lựa chọn kỹ càng, sát sao của ông khi đặt

tên nhân vật: Đến tên Kép Tư Bền, tôi phải nghĩ kĩ hơn mới tìm ra. Đây là

một anh kép hát người Sài Gòn. Tên Sài Gòn, thường đặt dưới thứ bậc như

hai, ba tư Kép ở Quảng Lạc hồi ấy tôi đã thuộc những tên như Sáu Phủ,

Bảy Nhã, Tám Hương. Sáu, bảy, tám thì cố nhiên mang sắc thái Sài Gòn rồi,

nhưng Phủ, Nhã, Hương thì tên người Hà Nội cũng được, Huế cũng được. Tôi

nhớ Sài Gòn hay nói Phước, Thạch chứ không nói Phúc, Thịnh. Nhưng chưa

đặc biệt Sài Gòn bằng cái tên gì nó nôm na. Ngày ấy có ông hội đồng quản

hạt là Trương Văn Bền. Thấy tiếng Bền nó Sài Gòn quá, không thể lẫn với Hà

Nội, với Huế được, tôi mới đặt tên cho vai chính của truyện là Kép Tư Bền

(Đời viết văn của tôi).

3.1.2.2. Cách so sánh táo bạo, chơi chữ độc đáo.

Ngôn ngữ Nguyễn Công Hoan thường sử dụng cách so sánh ví von,

giàu hình ảnh như cách nói, lối nói quen thuộc của dân tộc. Đôi khi ông sáng

tạo những lối so sánh táo bạo và ác liệt.

Những so sánh nho nhỏ mà rất độc đáo bất ngờ và thú vị, như ông so

sánh cái ngực của chị vợ anh lính da đen Samandji đầy như cái ví của nhà tư

sản chứ không như cái óc của ông nghị ngay cả trước ngày họp hội đồng

(Samandji). Hoặc khi nói đến cái áo dài của một cô đào thì thật đến căng lườn

đến độ tức anh ách như một bài thơ thất luật (Đào kép mới).



107



Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

So sánh đôi khi còn để nói cạnh, nói móc một hiện tượng:

Tôi tưởng tượng như bị nhốt trong một cái chuồng hổ, hay nguy hiểm

hơn, bị nhốt vào hội quán để bắt nghe diễn thuyết (có lẽ nhằm vào những

cuộc diễn thuyết của Hội Khai trí tiến đức khoảng năm 1933).

Có khi so sánh để châm biếm sâu cay:

Quan ngắm một lúc, hai con mắt sáng quắc như hai ngọn đèn giời

(nhưng đây là con mắt sáng quắc vì thấy gái!)

Hay so sánh hóm hỉnh để gây cười:

và một cái áo dài sặc sỡ, chi chít những hoa là hoa, vẽ rắc rối như

thời cục nước tàu (Cô Kếu, gái tân thời).

Cái bụng Nguyệt vài tháng nữa thì tròn bằng cái thúng (Oẳn tà roằn).

Nhà hát Tây hôm ấy có cái vẻ ton nghiêm của một vị thượng quan

mặc lễ phục

So sánh để chua chát, mỉa mai:

Ban đêm trộm cắp như rươi

Cứ sáng tinh sương, lính cỏ đã chia nhau đứng các đường xua người ta

như xua vịt (Cấm chợ).

.. người ta ngờ, người ta canh, người ta giữ, coi nó như một con chó

đói (Thằng ăn cắp).

Chỉ vì số nó chẳng tốt như bà lão cụt, như thằng bé lòa (Cái vốn để

sinh nhai).

So sánh là một biệp pháp tu từ rất thường được các nhà văn sử dụng.

Trong văn học hiện thực phê phán, Nam Cao ưa dùng những so sánh suy tư

triết lý đầy dằn vặt, Ngô Tất Tố hay dùng so sánh kết hợp cái thâm thúy của



108



Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan

một nhà nho tri thức với cái mộc mạc chính xác pha màu hài hước của văn học

dân gian, Vũ Trọng Phụng mang tâm trạng hờn uất mãnh liệt dồn vào những so

sánh châm biếm đả kích quyết liệt, để lộn trái những đối tượng vô nghĩa lí.

Đặc điểm riêng của Nguyễn Công Hoan là lối so sánh táo bạo và ác liệt. Ông

cũng hay dùng so sánh để trào phúng hay đá móc. Nhưng nếu như Vũ Trọng

Phụng thường tạo ra nét nhòe ngữ nghĩa, bắt người đọc phải liên tưởng để

ngẫm nghĩ về thâm ý của tác giả, thì sự gai góc của lối viết văn Nguyễn Công

Hoan thường lộ ra mạnh mẽ, táo bạo trực tiếp trên bề mặt văn bản.

Như vậy so sánh không chỉ là biện pháp tu từ mà còn là phong cách, là

tư tưởng của mỗi nhà văn.

Nguyễn Công Hoan cũng thường sử dụng ngôn ngữ đời sống một cách

sáng tạo. nâng cao, kết hợp với nghệ thuật chơi chữ. Nhưng điều đáng nói ở

đây là cách chơi chữ của ông có cái gì rất riêng. Cái riêng ấy chính là chất

hỏm hỉnh, láu lỉnh của ngôn ngữ người kể chuyện. Cách chơi chữ ở Nguyễn

Công Hoan có nhiều dạng khác nhau:

Ông đặt nghĩa đen, nghĩa bóng lấp lửng bên nhau, như nói về một ông

thích chơi đồ cổ thì trong nhà có duy nhất một cô con gái có thể bị ngờ là

tân, còn thì tuốt tuồn tuột là cổ (Bộ ấm chén cổ).

Có khi dùng từ trong truyện ông lại đảo ngược danh từ tạo sắc thái hóm

hỉnh, tinh nghịch như câu: Quyển Mịt mù bị mù mịt ở xó tối (Mánh

khóe).

Đặc biệt nhất là cách chơi chữ mà Nguyễn Công Hoan thường sử dụng

khi đặt tên truyện ngắn của mình, đó chính là cách để ông gây sự tò mò, thích

thú, để gây cười hoặc để gieo vào lòng người đọc một nỗi niềm day dứt.

Chẳng hạn, ông đảo ngược danh từ gợi nên một sự chua xót cho hai thân phận

của hai loại người dưới đáy xã hội trong truyện ngắn có tên Người ngựa ngựa



109