Một trong những sai lầm của Liên Xô trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là

Khi ấy, một câu hỏi cứ văng vẳng trong chúng tôi: Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô do Lênin sáng lập, từng lãnh đạo giai cấp công nhân Nga lật đổ ách thống trị của Sa hoàng, xây dựng thành công Nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên lại tan rã? Vì sao một đảng từng lãnh đạo nhân dân chống lại sự can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc, bảo vệ thành quả cách mạng, đánh bại phát-xít Đức trong chiến tranh Vệ quốc vĩ đại và đóng góp to lớn cho thắng lợi của thế giới trong Chiến tranh thế giới thứ hai lại mất địa vị cầm quyền sau 74 năm với bao trang sử vẻ vang?

Một trong những sai lầm của Liên Xô trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là

Chúng tôi đã tìm thấy phần nào câu trả lời chính từ những nhà báo tiền bối ở Báo Quân đội nhân dân.

Ngày 22-4-1990, hơn một năm trước ngày Liên Xô sụp đổ hoàn toàn, Thiếu tướng Trần Công Mân, Tổng Biên tập Báo Quân đội nhân dân trong bài viết “Cuộc chiến đấu chưa kết thúc” đã đưa ra cảnh báo chính xác khi xuất hiện trào lưu ở Liên Xô và nhiều nước XHCN, nhiều người né tránh, không nhắc đến Đảng Cộng sản, đến CNXH. Nêu ra và cũng tự trả lời, ông khẳng định niềm tin mãnh liệt vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào tương lai của CNXH.

Một trong những sai lầm của Liên Xô trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là

Không riêng ông, những nhà lãnh đạo lớn của đất nước ta từ ngày đó đã nhìn thấy “tử huyệt” dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và nhìn rõ Đảng ta, đất nước ta, nhân dân ta cần phải làm gì.

Tháng 4-1992, đồng chí Nguyễn Phú Trọng (nay là Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam) đã có bài viết hết sức sâu sắc với tựa đề “Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã?” đăng trên Tạp chí Cộng sản. Đồng chí chỉ ra 5 nguyên nhân chủ yếu: Không xác lập đúng đắn sự lãnh đạo của Đảng, buông lơi công tác xây dựng Đảng; phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê nin là nền tảng tư tưởng của Đảng; Coi nhẹ hoặc phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ;xa rời quần chúng, mất uy tín nghiêm trọng trước nhân dân, không được nhân dân ủng hộ;Từ bỏ chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, thổi lên ngọn lửa kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi.

Một trong những sai lầm của Liên Xô trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là

Thật ra, sai lầm, sự chệch hướng đã diễn ra từ khá lâu. Nguyên nhân đến từ sự thay đổi lãnh đạo và đường hướng chiến lược của Đảng Cộng sản Liên Xô, được đánh dấu bằng Đại hội XX tháng 2-1956. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Nikita Khrushchev đã trình bày một báo cáo bí mật mang tên "Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó", trong đó quy chụp, thêu dệt rất nhiều vấn đề và hạn chế hệ thống Đảng và Nhà nước Xô viết cho lãnh tụ quá cố Joseph Stalin.

Một trong những sai lầm của Liên Xô trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là

Người dân Litva (nước thành viên của Liên Xô) tụ tập ở thủ đô Vilnius vào ngày 12-1-1990 

để đòi tách khỏi Liên Xô. Litva là nước cộng hòa Xô viết đầu tiên tuyên bố độc lập. Ảnh: Getty.

Đồng thời, trong báo cáo chính trị chính thức của một Đại hội Đảng sau này cũng đề ra những sách lược mới nhằm "chung sống hòa bình", "thi đua hòa bình" và "quá độ hòa bình" với chủ nghĩa tư bản. Đây là một sự đảo ngược 180 độ trong quan điểm và chiến lược của Đảng Cộng sản Liên Xô so với chính họ trước đây, hay còn gọi là "xét lại".

Các nhà phân tích cao cấp của CIA trong báo cáo mang mã hiệu SRS-1 thực hiện không lâu sau sự kiện Đại hội XX đã cho rằng, ekip của Nikita Khrushchev hành động như vậy là để đập bỏ hoàn toàn di sản của thời đại Stalin, nhằm xây dựng một hệ thống mới của riêng họ. Trong những kỳ Đại hội Đảng tiếp theo, ekip của Tổng Bí thư Khrushchev tiếp tục sa đà trên con đường xét lại, đến Đại hội XXII năm 1961, họ còn xác định "nguy cơ chủ nghĩa tư bản hồi phục ở Liên Xô đã không còn", "Liên Xô sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trong 20 năm", xây dựng "đảng toàn dân", "nhà nước toàn dân".(Theo "Mùa đông năm 1991"- Media 21 history film)

Một trong những sai lầm của Liên Xô trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là

Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev (giữa) đang nói chuyện với cư dân Vilnius, Litva

vào ngày 11-1-1990 trong một nỗ lực làm chậm lại quá trình ly khai của nước cộng hòa này. Ảnh: AP.

Đây thực chất đều là những tính toán không có cơ sở và là sự đoạn tuyệt với học thuyết Marxist-Leninist chính thống về Đảng. Đó là một cuộc khủng hoảng đường lối chưa từng có trong lịch sử cầm quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô.

Nikita Khrushchev buộc phải từ chức Tổng Bí thư vào năm 1964, nhưng sự hỗn loạn mà ekip của ông ta tạo ra đã được gieo mầm. Những cán bộ trẻ tuổi của Đảng Cộng sản Liên Xô vào những năm ấy như Mikhail Gorbachev, Alexander Yakovlev, Eduard Shevardnadze...đều đã bị tác động rất mạnh và có những chuyển biến về tư duy, quan điểm bởi cuộc xét lại của Khrushchev.

Lịch sử sau này định danh họ là "những đứa con của Đại hội XX". Chính những nhân vật này, khoảng 30 năm sau, khi trở thành những rường cột của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, đã một lần nữa tiếp tục cuộc cải tổ năm xưa còn dang dở. Cuộc cải tổ ở Liên Xô từ năm 1987 trở đi đã ngày càng xa rời các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội Marx- Lenin, kết cục tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô, tan rã Liên bang Xô viết là điều tất yếu.

Một trong những sai lầm của Liên Xô trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là

Mikhail Gorbachev, người nắm giữ cương vị Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1985 đã chính thức phát động công cuộc cải tổ. Ban đầu, sự nghiệp này nhận được sự hưởng ứng và đồng thuận rất lớn trong đảng và trong xã hội sau khi Liên Xô đã phải trải qua một thập kỷ trì trệ.

Tuy nhiên, Gorbachev cũng như nhiều "đứa con của Đại hội XX" khác, những cải cách của ông ta dần rời xa những vấn đề mang tính chất nguyên tắc. Từ năm 1987, ekip Gorbachev không ngừng sử dụng các thủ thuật chính trị để nhằm làm chia sẽ đảng, cô lập hóa nhóm người chống đối lại những cải tổ của họ.

Tại Đại hội Đại biểu Nhân dân bất thường lần thứ III giữa tháng 3-1990, họ đã thông qua nghị quyết mang tên Thiết lập chức vị tổng thống và sửa đổi bổ sung Hiến pháp Liên Xô. 7 điều trong Hiến pháp Liên Xô bị sửa đổi, trong đó nghiêm trọng nhất là Điều 6.

Từ "Đảng Cộng sản Liên Xô là lực lượng lãnh đạo và là hạt nhân của chế độ chính trị, nhà nước và xã hội Liên Xô" bị sửa thành "Đảng Cộng sản Liên Xô, các chính đảng khác và công đoàn, đoàn thanh niên, đoàn thể xã hội và phong trào quần chúng khác, thông qua đại biểu của mình bầu vào Xô viết đại biểu nhân dân và các hình thức khác tham gia vạch ra chính sách của nhà nước Xô viết, công việc quản lý nhà nước và xã hội".

Các ông trùm chiến lược, chiến lược gia và chính khách cỡ bự của chủ nghĩa tư bản đều hoan hỷ ăn mừng rằng đây là hồi chuông báo tử, rằng chủ nghĩa xã hội (CNXH) sẽ diệt vong vào cuối thế kỷ 20. Ta nhận định hoàn toàn ngược lại. Sự sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu kéo theo thoái trào của phong trào cộng sản và công nhân thế giới là một tổn thất lớn, nhưng đó là tạm thời chứ không phải tất yếu, tin rằng, các nước XHCN còn lại sẽ giữ vững trận địa, đảng cộng sản và công nhân sẽ khôi phục hoạt động trong điều kiện mới, và xu thế XHCN sẽ tiếp tục đi dưới hình thức này hay hình thức khác.

Một trong những sai lầm của Liên Xô trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là

Lãnh tụ V.I.Lenin phát biểu tại Quảng trường Đỏ nhân kỷ niệm một năm Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Ảnh: Topwar.ru 

Câu trả lời bước đầu đã có vào cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21. CNXH không hề diệt vong. Các nước XHCN còn lại không những giữ vững trận địa mà còn định hướng vững vàng cho sự phát triển tiến lên. Từ vùng Trung-Nam Mỹ đã phát sinh phong trào XHCN kiểu Mỹ Latinh, khởi đầu từ Venezuela rồi lan ra một số nước khác... Chủ nghĩa tư bản thế giới không thể chứng minh được rằng nó là lực lượng thống trị toàn cầu và xã hội tư bản là xã hội tốt đẹp cuối cùng của loài người. Ngay giữa lúc thế giới tư bản chủ nghĩa huênh hoang về sức sống dài lâu của nó cũng lâm vào khủng hoảng cục bộ, rồi đến khủng hoảng toàn diện hơn, kể từ năm 2008 đến nay, vẫn còn chưa hoàn toàn hồi phục. Thế giới từ lưỡng cực thành đơn cực, rồi nay lại thành đa cực. Các nước thuộc các chế độ chính trị, xã hội khác nhau đều tham gia "toàn cầu hóa" và "hội nhập quốc tế", vừa cạnh tranh, vừa hợp tác dưới nhiều cung bậc khác nhau.

Điểm qua như thế để thấy rõ rằng, gần 30 năm qua, xung quanh vấn đề nên theo hay không theo CNXH, diễn biến tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và trong xã hội ở nước ta cũng không thuần nhất và khá phức tạp, nhưng về cơ bản vẫn kiên định con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

Quan điểm "phê phán quan điểm cho rằng CNXH sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, vì thế Việt Nam không nên và không thể gắn liền mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH" không phải bây giờ mới có mà đã có từ lâu, từ sau khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Nhưng từ đó đến nay, những kẻ chống đối không còn nói nhẹ nhàng như thế, họ thẳng thừng đòi "Đảng Cộng sản Việt Nam tự giác và chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng CNXH, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa...". Và đến thời điểm chúng ta đang tiến hành "phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc cuộc đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ", có người mang danh đảng viên, còn ngạo mạn nói rằng, trong lựa chọn đường lối, Đảng ta đã sai lầm không chỉ từ Hội nghị thành lập Đảng (năm 1930) mà là từ Hội nghị Tua (năm 1921). Ý tứ đằng sau những giọng điệu ấy là gì, chắc mỗi người chúng ta đều biết.

 Với quan điểm ấy, họ đã sai lầm ít nhất là ở 8 điểm sau đây:

 Về sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu:

Thứ nhất: Sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình xây dựng CNXH, chứ không phải sự sụp đổ của CNXH nói chung, với tư cách là một nấc thang phát triển của xã hội loài người, theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Thứ hai: Chế độ Xô viết ngay từ lúc mới ra đời ở Nga sau Cách mạng Tháng Mười (năm 1917) và sau này trên toàn Liên bang Xô viết, đã tỏ rõ được tính ưu việt so với các chế độ chính trị-xã hội trước đó. Chính quyền Xô viết thực sự là chính quyền của công-nông-binh và của nhân dân lao động nói chung. Nhờ tính ưu việt đó, nó đã đánh thắng cuộc chiến tranh can thiệp của các nước đế quốc sau Cách mạng Tháng Mười, lập lại hòa bình và xây dựng chế độ mới, thực hiện công nghiệp hóa và tập thể hóa nông nghiệp thành công, đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của phát xít Đức-Nhật, dẫn tới sự ra đời của hệ thống XHCN thế giới. Vào thập niên 60 và 70 của thế kỷ 20 sự nghiệp xây dựng CNXH ở Liên Xô đạt được những thành công lớn, khiến cho Đảng và Nhà nước Xô viết ngộ nhận là CNXH đã xây dựng xong và chủ trương Liên Xô bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Sự thật thì cũng thời gian đó, nhiều nhược điểm và khuyết tật trong nội bộ Nhà nước Xô viết cũng bắt đầu hé lộ, nhất là khi so sánh với những bước phát triển của hệ thống tư bản chủ nghĩa thời đó. Nếu vì sự sụp đổ sau này mà phủ nhận sạch trơn những gì chế độ Xô viết đã giành được là một sai lầm trong cách nhìn lịch sử.

Thứ ba: Vào những năm cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 của thế kỷ 20, sau khi phát hiện sự chậm trễ của mình, Liên Xô đề ra chính sách cải tổ; các nước XHCN Đông Âu cũng đề ra cải cách. Cải tổ và cải cách nhằm mục tiêu tăng tốc về kinh tế và thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi hơn. Sai lầm của Liên Xô và các nước Đông Âu lúc đó là đã sa vào chủ nghĩa đa nguyên, đa đảng đối lập, buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng, gây hoang mang, dao động trong đông đảo quần chúng, dẫn đến hỗn loạn xã hội, khiến cho ở Đông Âu, chính quyền bị các thế lực thù địch cướp lấy, còn Liên Xô thì chia rẽ sâu sắc trong nội bộ lãnh đạo, cuối cùng chính quyền cũng lọt vào tay nhóm chống đối trong Bộ Chính trị, những kẻ chống chính quyền Xô viết từ rất sớm. Không thấy nguyên nhân trực tiếp của sự sụp đổ là ở đây, mà coi sự sụp đổ là tất yếu của chính quyền Xô viết cũng là sai lầm trong cách nhìn lịch sử.

Thứ tư: Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan nêu trên (tuy chưa hết), còn có một nguyên nhân trực tiếp khác nữa là âm mưu và thủ đoạn trong chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đế quốc chủ nghĩa. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, chúng đẩy mạnh chạy đua vũ trang. Trong khi lãnh đạo Liên Xô chủ trương thi đua hòa bình thì chúng một mặt đẩy mạnh chạy đua vũ trang, mặt khác đề ra chiến lược "diễn biến hòa bình" để xóa bỏ CNXH mà không cần chiến tranh và súng đạn. Liên Xô và nhiều nước khác đã sa vào cái bẫy này của chúng mà không tự giác phát hiện.

Về sự lựa chọn độc lập dân tộc gắn liền với CNXH ở Việt Nam.

Thứ năm: Đúng là ngay từ ngày mới thành lập, Đảng ta đã đề ra chủ trương "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới chủ nghĩa cộng sản". Như cách nói ngày nay, đó là làm cách mạng giải phóng dân tộc, tiến lên làm cách mạng XHCN. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với CNXH được đề ra xuất phát từ thực tế tình hình nước ta lúc bấy giờ là thuộc địa của Pháp, cũng xuất phát từ xu thế phát triển có tính quy luật của thời đại mới sau Cách mạng Tháng Mười Nga là tiến lên CNXH. 87 năm qua, những chặng đường phát triển của cách mạng Việt Nam và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đạt được đã chứng minh sự đúng đắn của đường lối này, cớ sao vì sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu mà phải từ bỏ nó?

Thứ sáu: Trong xây dựng CNXH, Việt Nam học tập kinh nghiệm của Liên Xô và các nước XHCN đi trước nhưng hoàn toàn không có sự sao chép. Mô hình xây dựng CNXH ở Việt Nam không phải là mô hình Xô viết của Liên Xô, bởi sự khác biệt cơ bản là ở chỗ, một bên là từ cơ sở của chế độ tư bản đi lên, một bên từ độc lập dân tộc đi lên. Bác Hồ từng nói: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(1). CNXH đối với Bác, như ngày nay chúng ta vẫn nói, là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nhầm lẫn giữa mô hình xây dựng CNXH ở Việt Nam với mô hình Xô viết là một sự sai lầm lớn.

Thứ bảy: Vào những năm Liên Xô và Đông Âu tiến hành cải tổ và cải cách, Việt Nam cũng đề ra đuờng lối đổi mới. Những nhân tố đầu tiên của đổi mới xuất hiện từ những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ 20, nhưng đổi mới toàn diện trở thành đường lối chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam vào cuối năm 1986 theo Nghị quyết Đại hội VI của Đảng. Đổi mới của chúng ta không đi theo vết xe đổ của cải tổ và cải cách ở Liên Xô và Đông Âu. Đảng ta đã nêu rõ 6 nguyên tắc của đổi mới, trong đó vấn đề giữ vững định hướng XHCN, đổi mới chứ không đổi màu là nguyên tắc đầu tiên. Chúng ta cũng bác bỏ quan điểm cho rằng “đổi mới là nửa vời, không nhất quán”. Sự thật là đổi mới của chúng ta qua hơn 30 năm đã đưa lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm cho Việt Nam càng vững bước đi lên trên con đường độc lập dân tộc và CNXH. Đánh đồng đổi mới của Việt Nam với cải tổ và cải cách ở Liên Xô và Đông Âu là một sai lầm có dụng ý.

Thứ tám: Tổng kết 30 năm đổi mới cho thấy: Nhận thức của Đảng ta về CNXH và về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ: "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử"(2) .

Cương lĩnh nêu lên 8 đặc trưng của CNXH mà nhân dân ta xây dựng, trong đó 3 đặc trưng đầu tiên là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.

Thử hỏi, con đường độc lập dân tộc đi lên CNXH xán lạn như vậy tại sao chúng ta phải từ bỏ chỉ vì mô hình XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ?

Trong khi nêu lên 8 sai lầm cơ bản như trên, người viết bài này muốn đặt ra câu hỏi đối với các tác giả đòi chúng ta từ bỏ con đường XHCN, ý đồ thực sự của các vị phía sau đòi hỏi này là gì?

HÀ ĐĂNG, Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (nguồn: Báo QĐND)

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.70.