Làng kim liên xưa hà nôi giờ là gì năm 2024

(HNMĐT)- Làng Kim Liên (nay thuộc phường Kim Liên, quận Đống Đa) tên gốc là Kim Hoa, vào năm Tân Sửu (1841), vì kỵ húy mẹ Vua Thiệu Trị là Hồ Thị Hoa nên đổi gọi là Kim Liên. Đây là một trong 36 phường của Kinh đô Thăng Long thời Lê.

(HNMĐT)- Làng Kim Liên (nay thuộc phường Kim Liên, quận Đống Đa) tên gốc là Kim Hoa, vào năm Tân Sửu (1841), vì kỵ húy mẹ Vua Thiệu Trị là Hồ Thị Hoa nên đổi gọi là Kim Liên. Đây là một trong 36 phường của Kinh đô Thăng Long thời Lê.

Sang thời Nguyễn, phường được đổi thôn (làng) và là một trong 23 thôn, trại, phường thuộc tổng Tả Nghiêm (sau đổi thành tổng Kim Liên), huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, từ năm 1915 thuộc huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (năm 1941 đổi thành Đại lý đặc biệt Hà Nội), có dân số tương đối đông (năm 1926, làng có 1586 nhân khẩu).

Ngoài làm ruộng, trồng màu (đồng ruộng của làng nay là các dãy nhà cao tầng của khu tập thể Kim Liên), làng có nghề nhuộm vải nâu, nên làng còn có tên là Đồng Lầm. Phía Đông của làng có hai hồ lớn là hồ Bảy Mẫu và hồ Ba Mẫu. Đây là nơi xưa kia dân làng lấy bùn để “nhấn bùn” cho vải màu nâu ngả sang màu đen. Xưa kia làng còn có sông Kim Ngưu - một nhánh của sông Tô Lịch chảy qua, xuống Cầu Dền, Vĩnh Tuy thì chia thành nhiều nhánh xuống các làng xã huyện Thanh Trì. Nghề nhuộm nâu, sông Kim Ngư (sông Dài) cùng với hai hồ lớn là ba nét đặc trưng của làng Kim Liên - Đồng Lầm xưa. Ca dao cũ :

Đồng Lầm có vải nâu non, Có hồ cá rộng, có con sông dài.

Đầu làng Kim Liên (chỗ ngã tư Đại Cồ Việt - Kim Liên hiện nay) vào giữa thế kỷ XIX trở về trước có một cửa ô gọi là Ô Kim Hoa, hay Ô Kim Liên, tên dân gian gọi là Ô Đồng Lầm. Đây chính là một cửa ô mở qua tường phía Nam của tòa thành đất vòng giữa bao bọc khu dân cư của Kinh thành Thăng Long về phía Đông. Trên địa phận của làng còn có địa danh Mộng Kiều là nơi diễn ra trận đánh giữa Vua Lê Tương Dực dẹp tan quân của Trần Cảo vào năm Canh Ngọ - 1510 mà sử cũ đã ghi.

Thời Lê - Trịnh, làng Kim Liên cùng với làng Trung Tự là dân “tạo lệ”, chuyên trách việc thờ cúng ông Nguyễn Hy Quang (1634 - 1692), đỗ Tam trường thi Hội, làm quan Thị lang, dạy các thế tử họ Trịnh, được ban tước Hiển Quận Công, sau khi mất được phong Phúc thần.

Thời phong kiến, làng Kim Liên có ông Trần Vĩ (1564 - ?) đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn, niên hiệu Hoằng Định, đời Vua Lê Kính Tông (năm 1604), làm quan đến Tả Thị lang bộ Lại, kiêm Đông các Đại Học sĩ, tước Hương Quận công, được cử đi sứ sang nhà Minh; về trí sĩ; khi mất được tặng Thượng thư, hàm Thiếu bảo.

Làng Kim Liên có ngôi đình thờ Cao Sơn đại vương. Hiện nay có nhiều thuyết khác nhau về lai lịch của vị thần này: là Sơn Tinh, là chú ruột của Sơn Tinh hoặc là một trong 50 người con theo Lạc Long Quân đi xuống khai phá vùng đồng bằng. Làng còn có ngôi đền cũng thờ Cao Sơn, được xây dựng vào năm Canh Ngọ - 1510, được coi là ngôi đền trấn giữ phía Nam thành Thăng Long. Trong đền còn tấm bia do Hoáng giáp Lê Tung soạn năm 1510, kể về việc thần Cao Sơn đã âm phù Lê Tương Dực đánh dẹp Lê Uy Mục. Bia đã bị mờ nên được khắc lại vào năm Nhâm Thìn đời Cảnh Hưng (1772).

Đình và đền Kim Liên (hay còn gọi là đền Cao Sơn) là trấn phía nam trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long xưa, gồm bốn ngôi đền: Đền Quán Thánh (trấn giữ phía bắc kinh thành); Đền Bạch Mã (trấn giữ phía đông kinh thành); Đền Voi Phục (trấn giữ phía tây kinh thành); Đền Kim Liên (trấn giữ phía nam kinh thành). So với ba ngôi đền kia thì đền Kim Liên được xây dựng muộn hơn (khoảng thế kỷ 16 - 17).

Đình đền Kim Liên

Đình và đền Kim Liên (hay còn gọi là đền Cao Sơn) là trấn phía nam trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long xưa, gồm bốn ngôi đền: Đền Quán Thánh (trấn giữ phía bắc kinh thành); Đền Bạch Mã (trấn giữ phía đông kinh thành); Đền Voi Phục (trấn giữ phía tây kinh thành); Đền Kim Liên (trấn giữ phía nam kinh thành). So với ba ngôi đền kia thì đền Kim Liên được xây dựng muộn hơn (khoảng thế kỷ 16 - 17).

Đền Kim Liên thờ Cao Sơn Đại Vương. Tại di tích có tấm bia đá với bài tựa "Cao Sơn đại vương thần từ bi minh" do sử thần Lê Tung soạn năm 1510, nói về công lao của thần Cao Sơn. Nội dung cho biết: Khi vua Lê Tương Dực cầm quân dẹp loạn, khôi phục cơ nghiệp của vua Lê Thái Tổ, có ba vị đại thần là Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Hoàng Dụ và Nguyễn Văn Lữ cùng đem quân đi chinh phạt. Đến địa phận huyện Phụng Hoá (nay là di tích đền Láo, xã Văn Phương, Nho Quan, tỉnh Ninh Bình) thì thấy cảnh núi rừng rậm rạp có ngôi đền cổ ghi bốn chữ "Cao Sơn đại vương". Rất lấy làm lạ, vua quan bèn khẩn cầu thần phù trợ. Quả nhiên sau mười ngày đã thành công. Vì thế, vua Lê Tương Dực cho xây dựng đền thờ thần Cao Sơn ở Phụng Hóa. Sau vì nhớ ơn thần đã ngầm giúp dẹp loạn ở Đông Đô, năm 1509, vua cho xây dựng lại đền thờ to đẹp hơn ở phường Kim Hoa gần Thăng Long thời bấy giờ (nay là Kim Liên).

Sau này, dân làng Kim Liên đã xây thêm cổng tam quan ở phía trước cổng đền, ngay sát đầm Kim Liên và bổ sung thêm một số kiến trúc mới, tạo thành đình Kim Liên. Ngoài Cao Sơn Đại Vương, trong đền và đình Kim Liên còn thờ Tam Phủ, thờ Mẫu, và thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đình được xây dựng trên một gò đất cao ở phía đông đầm Kim Liên. Cổng đình và cửa chính điện đều hướng về phía tây, trông ra đầm Kim Liên (đầm này nay không còn do bị lấp đi để làm đường vành đai 1). Kiến trúc của đình bao gồm hai phần: phần phía trước gò có một cổng trụ biểu, hai dãy giải vũ hai bên sân gạch rộng và phần kiến trúc chính của di tích nằm trên gò đất cao. Đi hết khoảng sân trên thì qua chín bậc gạch cao được xây bằng những viên gạch vồ có kích thước lớn thời Lê Trung Hưng nối hai bộ phận kiến trúc trên.

Đình chính gồm Nghi môn, Đại bái và Cung cấm. Nghi môn là một nếp nhà ba gian, xây kiểu tường hồi bít đốc. Trên các bộ phận kiến trúc các họa tiết trang trí được thể hiện sinh động, công phu mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Nhà Đại bái gồm 5 gian mới được thành phố tôn tạo trong dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long-Hà Nội, với kiểu dáng kiến trúc truyền thống. Hậu cung là một nếp nhà ba gian dọc, gian cuối cùng là nơi thờ Cao Sơn Đại Vương và hai nữ thần phối hưởng (Tôn nữ Động Hồ Trưng Vương (công chúa con gái vua Lê) và Huệ Minh công chúa). Đình được sửa sang, tu bổ năm 2009.

Di vật quan trọng tại đình Kim Liên ngoài tấm bia đá "Cao sơn Đại Vương thần từ bi minh" còn có 39 đạo sắc phong cho thần Cao Sơn Đại Vương, trong đó có 26 đạo thời Lê Trung Hưng, 13 đạo thời nhà Nguyễn, sớm nhất trong số đó là sắc phong có niên đại Vĩnh Tộ năm thứ hai (1620).

Hội đền và đình Kim Liên được tổ chức vào ngày 16 tháng 3 âm lịch hàng năm. Trước đây, lễ hội đình Kim Liên thường diễn ra từ ngày 11/3 đến 16/3 âm lịch nhưng nay chỉ gói gọn trong hai ngày 15 - 16/3, chính hội là ngày 16 (ngày sinh của Thần). Ngoài lễ chính còn các lễ sóc vọng hàng tháng, lễ Kỳ an và lễ kỷ niệm ngày hoá của thần vào ngày 12 tháng 8 âm lịch.

Vào dịp lễ hội, không khí ở đây rất tưng bừng. Sáng ngày 15 diễn ra hội cắt tóc với các tay thợ trẻ vào cuộc đua tài trước sự "giám sát" kỹ lưỡng và công bằng của một ban giám khảo toàn các bậc cao niên có uy tín và tay nghề trong làng. Trống điểm ba hồi, các anh thợ trẻ dong gương ghế "vào xới" khoe tài. Từ cách choàng khăn đến cách cầm kéo, khua kéo, những đường cắt tỉa... và sau cùng là thời gian để hoàn thành một kiểu đầu đều được chấm điểm một cách tỉ mỉ. Bởi làng Kim Liên này xưa nay vẫn nổi tiếng với những "tay thợ" vừa cắt tóc, vừa múa kéo như một thứ nghệ thuật với những tiếng lách cách đều đặn và vui tai, cả cách quàng khăn đúng theo chiều gió vừa để giữ gìn sức khoẻ cho người cắt tóc, vừa thể hiện phong cách diệu nghệ và cũng để quảng bá và phát triển một làng nghề truyền thống của người Hà Nội. Sau cuộc thi là các trò chơi đẩy gậy, đập niêu… buổi tối là liên hoan ca múa nhạc.

Trong ngày chính hội (16/3), 6 giờ sáng người làng đã làm lễ Tế ở chính điện. Các bậc "bô lão" trong đội tế nam của làng thành kính đứng trước sân đình tế cáo với Thượng Đẳng thần Cao Sơn Đại Vương, "mở lối đi linh thiêng" để người dân bước vào ngày chính hội 16/3 âm lịch cùng những đại lễ bái rất bài bản của đội tế lễ mũ mão cân đai chỉnh tề. Vang vọng và linh thiêng còn ở tiếng thỉnh chiêng trống dứt khoát... Sau đó, lễ dâng hương kính cẩn diễn ra trước sân đình, rồi các dòng họ dâng những mâm cỗ cầu kỳ tái hiện ẩm thực của người Hà Nội. Đã từng có những mâm cỗ 7 tầng chất ngất, đẹp như một tác phẩm nghệ thuật nhưng mang đầy đủ ý nghĩa của mối giao hoà giữa con người và trời đất... Để làm được mâm những mâm cỗ ấy, người ta phải cầu kỳ chuẩn bị nguyên liệu cả tháng trời. Tiếp sau đó là lễ rước với 4 kiệu: Long đình, kiệu ông, kiệu bà và kiệu võng, người dân theo địa phận của làng đi từ phố Kim Hoa đến Đào Duy Anh rồi trở về đình Kim Liên tạo nên một hình ảnh rất đẹp.

Trong lễ hội đình và đền Kim Liên còn có nhiều trò chơi truyền thống như: chọi chim, cờ người, bóng bàn, thi đấu võ thuật thu hút đông đảo nhân dân trong và ngoài vùng tham gia.