Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng nghĩa là gì

Home - Review - Phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ) – Văn mẫu lớp 11

Prev Article Next Article

Phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ) – Bài số 1

  Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) là nhà thơ lớn của dân tộc ta trong nửa đầu thế kỉ XIX. Văn chương lỗi lạc, có tài kinh bang tế thế, lưu danh sử sách. Lúc sống cuộc đời một hàn sĩ, lúc cầm quân chinh chiến, lúc làm lính thú, lúc làm đại quan. Vinh nhục đã từng, thăng trầm đã trải, nhưng lúc nào ông cũng hăm hở chí nam nhi, sòng phẳng với nợ tang bồng, sống vì một khát vọng phi thường:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất,

Phải có danh gì với núi sông”.

  Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Công Trứ vô cùng rạng rỡ, cho thấy một cá tính sáng tạo rất độc đáo được thể hiện tuyệt đẹp qua bài phú Nôm “Hàn nho phong vị phủ”, và trên 60 bài thơ hát nói cực kì tài hoa. “Bài ca ngất ngưởng” là một trong những bài thơ hát nối kiệt tác trong nền thơ ca dân tộc. Bài hát nói này có hai khổ dôi tất cả có 19 câu thơ đầy vần điệu, nhạc điệu trầm bổng, réo rắt, lúc khoan thai, lúc hào hùng, đọc lên nghe rất thú vị. Hắt nói là một thể thơ dân tộc, có bố cục chặt chẽ, chất thơ, chất nhạc kết hợp rất hài hoà, hấp dẫn.

  Nguyễn Công Trứ về trí sĩ năm 1848, sau gần 30 năm làm quan với triểu Nguyễn. Bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” được ông viết sau khi đã về trí sĩ tại quê nhà. Bài thơ vang lên như một lời tự thuật vể cuộc đời, qua đó ông Hi Văn tự hào vể tài năng, đức độ và công danh của mình, biểu lộ một cá tính, một phong cách sống tài tử, phóng khoáng ở đời.

  “Ngất ngưởng” nghĩa là không vững, ở chỗ cheo leo dễ đổ, dễ rơi (Từ điển tiếng Việt). Trong bài thơ này nên hiểu “ngất ngưởng” là một con người khác đời, một cách sống khác đời và bất chấp mọi người. Và ngất ngưởng đã được Nguyễn Công Trứ nâng lên thành bài ca, thành điệu tâm hồn với tất cả niềm tự hào và sự say sưa hiếm thấy.

  Khổ đầu cất cao một tiếng nói, một lời tuyên ngôn của đấng nam nhi, đấng tài trai. Rất trang trọng và hào hùng: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” — mọi việc trong vũ trụ chằng có việc nào không là phận sự của ta. Một cách nói phủ định để khẳng đinh tâm thế của một nhà nho chân chính. Mà đâu chỉ có một lần? Lúc thì ông viết: “Vũ trụ giai ngô phận sự” (Những việc trong vũ trụ đểu thuộc phận sự của ta ~-Nợ tang bồng0; “Vũ trụ chức phận nội” (Việc trong vũ trụ là chức phận của ta – Gánh trung hiếu). Có cái tâm thế ấy, chính vì “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”. Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. “Tài bộ” là tài năng lớn, nhiều tài năng. Chữ “lồng” trong câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. “Vào lồng là vào khuôn phép vua chúa cái nơi chật hẹp, tù túng trái với cái tài đội trời đạp đất của ông” (Lê Trí Viễn). Có người lại giải thích: “lồng là trời đất, vũ trụ”. Nguyễn Công Trứ đã nhiều lần nói: “Đã mang tiếng ở trong trời đất”, hoặc “Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn” (trần hoàn: cõi đời, cõi trần). Cách hiểu thứ hai hợp lí hơn, vì có vào lồng vũ trụ thì mới có ý chí đua tranh, như ông nói:

“Chí làm trai nam bắc tây đông,

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”.

  Sau khi đã xưng danh, nhà thơ tự khẳng định tâm thế mình, “tài bộ” mình, chí namnhi của mình mang tầm vốc vũ trụ.

  Ông Hi Văn là một người có thực tài và thực danh. Học hành thi cừ, ông dám thí thố với thiên hạ: “Cái nợ cẩm thư phải trả xong”. Năm 1819, Nguyễn Công Trứ đỗ Thủ khoa trường Nghệ An. Làm quan võ, giữ chức Tham tán; làm quan văn, là Tổng đốc Đông (Hải Dương và Quảng Yên). Tiếng tăm lẫy lừng “Làm nên đấng anh hùng đâuu đấy tỏ” (“Chí anh hùng”). Đứng trên đỉnh cao danh vọng bời có văn võ toàn tài, bởi có “gốm thao lược”, và chính lúc đó ông Hi Văn mới trở thành “tay ngất ngưởng”, một con người hơn đời và hơn thiên hạ. Câu thơ với cách ngắt nhịp (3-3-4-3-3-2), ba lần điệp lại chữ “khi” đã tạo nên một giọng điệu hào hùng, thể hiện một cốt cách phí thường, một chí khí vô cùng mạnh mẽ:

“Khi Thủ khoa! khi Tham tán! khi Tổng đốc Đông,

Gồm thao lược! đã nên tay! ngất ngưởng”.

Bốn câu tiếp theo (khổ giữa), ý thơ mở rộng, tác giả tự hào, khẳng định mình là một con người, một kẻ sĩ có tài kinh bang tế thế. Thời loạn thì xông pha trận mạc, giữ trọng trách trước ba quân: “Bình Tây cờ Đại tướng”. Thời bình thì giúp nước giúp vua, làm “Phủ doãn Thừa Thiên”. Đó là năm 1847, Nguyễn Công Trứ đã lên tới đỉnh cao nhất danh vọng. Ông đã từng nói: “Lúc làm Đại tướng, ta chẳng lấy thế làm vinh, lúc làm lính thú, ta cũng chẳng lấy thế làm nhục”. Sau 30 năm làm quan, Nguyễn Công Trứ vể trí sĩ ở quê nhà, năm đó, ông vừa tròn 70 tuổi (1848):

“Đô môn giải tổ chi niên,

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”.

Trở lại đời thường, cụ Thượng Trứ đã hành động một cách ngược đời, hình như để giễu đời với tất cả sự ngất ngưởng. Vị đại quan thuở nào “ngựa ngựa xe xe” nay chỉ cưỡi bò vàng và cho bò đeo đạc ngựa. Cả người và bò vàng đều ngất ngưởng. Như một sự thách đố với “miệng thế”. Cho đến nay dân gian vẫn cười và truyền tụng bài thơ đề vào chiếc mo cau của ông Hi Văn thuở nào:

“Xuống ngựa, lên xe, nọ tưởng nhàn.

Lợm mùi giáng chức với thăng quan.

Điền viên dạo chiếc xe bò cái,

Sẵn tấm mo che miệng thế gian”.

Tám câu tiếp theo trong hai khổ dôi nói lên một cách sống ngất ngưởng. Xưa kia là một vị đại thần, một danh tướng — “tay kiếm cung” — thế mà nay sống cuộc đời hiền lành, bình dị “nên dạng từ bi”. Đi vãn cảnh chùa, đi thăm thú những danh lam thắng cảnh “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”, ông đã mang theo “một đôi dì”, nhũng nàng hầu xinh đẹp với “gót tiên đủng đỉnh”…

“Kìa núi nọ phau phau mây trắng,

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì.

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng…”

Ông đã sống hết mình và chơi cũng hết mình. “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng” là một tứ thơ độc đáo. Câu thơ tự trào gợi ít nhiều hóm hỉnh. Bụt cười, hay thiên hạ cười? Hay ông Hi Văn tự cười mình? Đã thoát vòng danh lợi rồi, thì chuyện “được, mất” là lẽ đời, như tích “Thất mã tái ông” mà thôi, cũng chẳng bận tâm làm gì! Chuyện “khen, chê” của thiên hạ, xin bỏ ngoài tai, như ngọn gió đông (xuân) phơi phới thổi qua. Có bản lĩnh, có tự tin về tài đức của mình mới có thái độ phủ định như thế, dám sống vượt lên trên mọi thế tục. Có biết Nguyễn Công Trứ là một nhà nho được đào luyện nơi cửa Khổng sân Trình, một vị đại quan của triều Nguyễn thì mới thấy được một phần nào cá tính cốt cách khác đời, một nhân cách khác đời, rất phóng túng, phong tình và tài tình hiếm thấy của ông. Không quan tâm đến chuyện “được, mất”, bỏ ngoài tai mọi lời thị phi, khen chê, ông đã sống một cách nhi nhiên, hổn nhiên, vô cùng thảnh thơi, vui thú. Tuy ngất ngưởng mà trong sạch, thanh cao. Đây là hai câu thơ tuyệt hay trong “Bài ca ngất ngưởng”:

“Khi ca / khi tửu / khi cắc / khi tùng /

Không Phật / không Tiên / không vướng tục”.

Cách ngắt nhịp 2, nghệ thuật hoà thanh (bằng, trắc), lối nhấn, lối diễn tả trùng điệp (khi… không..,) đã tạo cho câu thơ phong phú về nhạc điệu, biểu lộ một phong thái ung dung, yêu đời, ham sống, thanh cao chẳng vướng chút bụi trần. Có đọc to và hát lên, có lắng nghe tiếng đàn đáy, nhịp phách, tiếng trống chầu, ta mới cảm được chất thơ, chất nhạc hoà quyện trong những vẩn thơ đẹp như thế! Đúng là ngất ngưởng mà tài hoa, tài tử.

Xem thêm:  Phân tích bài thơ Vội vàng (Xuân Diệu) – Văn mẫu lớp 11

Khổ xếp của bài hát nói chỉ có 3 câu. Câu cuối gọi là câu keo chỉ có 6 từ. Nên ghi đúng như văn bản ‘Tuyến tập thơ ca trù” – NXB Văn học 1987 mớí đúng thi pháp:

“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,

Nghĩa vua, tôi cho vẹn đạo sơ chung,

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”

Nguyễn Công Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thần thuỷ chung, trọn vẹn “nghĩa vua tôi”. Ông đã viết trong bài “Nợ tang bồng”:

“Chí tang bồng hẹn với giang san,

Đường trung hiếu, chữ quân thân là gánh vác”.

Tài năng, công danh mà Nguyễn Công Trứ để lại cho đất nước và nhân dân có kém gì Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kỳ, Phú Bật – những anh tài đời Hán, đời Tống bên Trung Quốc. Hai so sánh gần xa, trong ngoài, phương Bắc và phương Nam, tác giả đã kết thúc bài hát nói bằng một tiếng “ông” đĩnh đạc, hào hùng: “Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”. Cái bản ngã phi thường của nhà thơ đã được phô bày cực độ.

Tóm lại, với Nguyễn Công Trứ, thì phải có thực tài, thực danh, phải “vẹn đạo vua tôi” mới trở thành “tay ngất ngưởng”, “ông ngất ngưởng” được. Và cách sống ngất ngưỏng của Nguyễn Công Trứ thể hiện chất tài hoa, tài tử, không ô trọc, không vướng tục”, cũng không thoát li. Ngất ngưởng thế mới sang trọng.

Cái nhan đề, thi đề “Bài ca ngất ngưởng” của ông Hi Văn rất độc đáo. Cách bộc lộ bản ngã của nhà thơ cũng rất độc đáo. Một thế kỉ sau, thi sĩ Tản Đà cũng có nhiều bài thơ hát nói, thơ trường thiên đậm đặc chất “ngông”. Một đằng ngất ngưởng mà tài danh, một đằng ngông mà chán đời và lãng mạn.

Thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Các câu thơ chữ Hán đem lại sự bề thế, uyên bác. Chất thơ, chất nhạc phối hợp hài hòa, lôi cuốn, hấp dẫn.

Trong nền thi ca cổ điển Việt nam, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà… là nhũng nhà thơ cự phách để lại một số bài hát nói tuyệt tác. Nguyễn Công Trứ đã tạo nên một giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng, chất tài tử hoà nhập với chí anh hùng, nợ tang bồng, chí nam nhi. Đó là phong cách nghệ thuật, là cốt cách, là bản sắc thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ. “Bài ca ngất ngưởng” đích thực là “Bài ca từ đáy lòng” của ông Hi Văn cho ta nhiều thú vị.

Phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ) – Bài số 2

Nếu được phép hiểu con người một cách giản đơn thì nhìn vào cụ Uy Viễn tướng công ta sẽ thấy rõ hai nét: thấm nhuần đến chân tơ kẻ tóc đạo trung hiếu Nho gia và ý thức rất rõ về tài đức của mình, cố đem hết tài đức ấy cống hiến để làm nên sự nghiệp và danh tiếng để đời. Chí hướng và nhiệt huyết ấy ít ai bì kịp.

Nguyễn Công Trứ – ông quan kinh bang tế thế lại có một tâm hồn nghệ sĩ: cống hiến thì hết mình nhưng việc xong, công thành, lại tự thưởng mình được vui chơi – vui chơi thanh nhã: Nợ tang bồng một khi đã trang trắng thì vỗ tay reo và thơ túi rượu bầu, hoặc hẹn với những ông cao tiên án sĩ nào đó ở tận chốn thâm sơn cùng cốc và thả hồn theo nào địch nào đàn…

Có thể coi Bài ca ngất ngưởng là một bài tự thuật ngắn gọn có ý nghĩa tổng kết cuộc đời và tính cách Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ. Lời lẽ gọn mà vẫn đủ. Điệu thơ gửi vào thể ca trù nhiều tự do, ít khuôn phép, là thơ mà cũng là ca, là nhạc:

Vũ trụ nội mạc phi phận sự, Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông, Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng. Lúc bình Tây cờ đại tướng, Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên. Đô môn giaỉ tổ chi niên, Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng. Kìa núi nọ phau phau mây trắng, Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi. Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì. Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng. Được mất dương dương người thái thượng, Khen chê phơi phới ngọn đông phong. Khi ca, khi tửu, khi cúc, khi tùng, Không Phật, không tiên, không vướng tục. Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

Không rõ nhan đề bài này tự cụ đặt ra hay người sưu tập đưa vào, nhưng tinh thần chung vẫn là nói lên sự ngất ngưởng. Không chi ở đầu đề mà toàn bài còn có thêm bốn chữ nữa, một sự cố ý trùng lặp thành điệp khúc, đúng vào chỗ tóm tắt và đúc kết một ý bày lên trên hay ẩn giấu ở dưới.

Phong thái ấy của Nguyễn Công Trứ vốn có từ nhỏ nhưng nó bộc phát mạnh mẽ và không giấu giếm nhất là sau thời điểm đô môn giải tổ chi niên (được trả ấn tư quan, vua cho về nghỉ). Bởi dù sao một thái độ ngất ngưỡng như thế không bao giờ được phép lọt vào mắt vào tai các vua chuyên chế của triều Nguyễn. Cho nên mở bài vẫn phải phô ra cái nét thứ nhất (như bên trên đã giãi bày): Vũ trụ nội mạc phi phận sự, tác giả đặt mình ngang tầm vũ trụ nhưng rồi cũng khiêm tốn, kín mà hở nói tiếp ngay: Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. Vào lồng là vào khuôn phép vua chúa nhưng vẫn là chật hẹp, tù túng trái với cái tài bộ đội trời đạp đất của ông.

Nhà thơ vừa mới tự đề cao vai trò mình trong vũ trụ ở câu thứ nhất thì lập tức tự cho mình đã đem cái tài ba ấy nhốt vào lồng ở câu thứ hai nhưng dù sao nổi hẳn lên sự khoan khoái, tự hào khi nhắc tới đôi cái mốc của đời mình, dù mỗi sự kiện chỉ nhắc đến bằng vài chữ, như bất cần, không có gì quan trọng:

Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông, Lúc bình Tây, cờ đại tướng,

Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.

Giọng thơ kể toàn chuyện lớn lao hiển hách mà nghe như nói chơi. Đỗ Thủ khoa (đỗ đầu cử nhân khoa thi Hương), làm Tham tán quân sự…. những chức vị ấy nói sơ qua cũng được. Nhưng làm đến Tổng đốc Hai An( Hải Dương và Quảng Yên), một chức quan to đầu tỉnh hay lĩnh chức đại tướng bình Tây (xứ Tây Nam nước ta) ma chỉ gọi cộc lốc khi Tổng đốc Đông và bình Tây cờ đại tướng thì thật sự Nguyễn Công Trứ không coi những chức tước ấy là điều vẻ vang lớn nhất đối với mình. Tất cả chỉ là phận sự trong vũ trụ, đến tay mình thì làm, cái cốt yếu đã làm hết lòng hết sức. Chẳng phải cụ đã từng nói: Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục đó sao?. Cho nên, câu tổng kết: Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng khẳng định: đối với công danh, dù Tổng đốc, dù đại tướng cụ coi cũng nhẹ tênh. Đó là một loại ngất ngưởng.

Tiếp theo là một hành động ngất ngưởng hơi bất thường: người giàu sang thì cưỡi ngựa, còn cụ lại cưỡi bò và cho bò đeo đạc ngựa:

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

Người đời bảo cụ khác người, có kẻ lại cho là cụ đặt mình lên trên dư luận. Xét ra có thể còn xa hơn thế: cụ cho bò đeo đạc ngựa cũng là một cách chơi ngông. Hơn nữa, hành động ấy xảy ra ngay sau ngày cụ nghỉ việc quan. Vừa nêu rõ năm tháng mình thôi đeo ấn vua ban, đô môn giải tổ chi niên ( giải  tổ có nghĩa là cởi dây đeo án) thì lại cho ngay bò mình cười đeo đạc ngựa để cho nó cũng ngất ngưỡng như mình?. Ai suy diễn ra điều này chắc không khỏi cho hành vi của cụ là xấc xược, phạm thượng. Đó là hai thứ ngất ngưỡng.

Xem thêm:  Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương – Văn mẫu lớp 11

Ba là ngất ngưởng cả với Bụt:

Kia núi nọ phau phau mây trắng. Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưỡng.

Cưỡi bò lên thăm chùa ở núi Nãi mây phủ trắng phau, cụ tự cười mình là: Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi. Kì thực đó chỉ là cái dạng thôi. Bởi theo hầu cụ có một đoàn gót son tiên nữ đủng đỉnh một đôi dì là các cô ả đầu. Không những chẳng từ bi chút nào má còn bất kính là đằng khác. Tuy vậy nhưng vẫn rất tự nhiên. Và cụ khiến Bụt không những chẳng chau mày quở trách mà còn nực cười độ lượng với ông quan thượng già.

Đến chùa, cụ đâu có lễ Phật mà bày tiệc hát ca, một tiệc hát ả đầu có đàn địch, trống phách hẳn hoi. Nhà chùa chắc cũng vì nể uy danh cụ mà làm lơ. Cụ được tất cả tục lụy mà lâng lâng bay bổng trên chín tầng mây, phơi phới luồng ấm mát của gió xuân:

Được mất dương dương người thái thượng. Khen chê phơi phới ngọn đông phong. Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.

Không Phật, không Tiên, không vướng tục.

Cá tính thượng thư bốc lên hết cỡ trong roi chầu tài hoa của cụ. Bấy giờ thì mọi sự đời: cái được, cái mất, miệng khen, miệng chê… tất cả đều coi là cỏ rác. Hồn cụ lâng lâng ở cõi gió mây trong lành, cao khiết. Lời thơ vút lên hào hứng: Được mất dương dương người thái thượng. Khen chê phơi phới ngọn đông phong. Con người bay bổng trên tầm cao, trong say sưa âm nhạc của điệu ca, tiếng trống: Khi ca/ khi tửu / khi cắc/ khi tùng. Dù cuộc vui bày trong cửa Phật có các cô tiên tham dự mà mình vẫn trong sạch, thanh cao: Không Phật / không Tiên / không vướng tục.

Đây là đoạn ý thơ rõ nhất và cũng là đoạn hay nhất của bài thơ. Hai câu trước trải dài, thanh thoát cao siêu như tấm lòng không còn vướng chút bụi trần trong nhịp điệu thênh thênh thì hai câu sau là nhịp ca, nhịp trống, nhịp phách, nhịp rượu chúc mừng, rồi dồn lên rối rít để chấm dứt ở một chữ mang thanh trắc đục, mạnh, chấm dứt câu thơ mà cũng là nện mạnh dùi xuống mặt trống để tự thưởng, tự hào, tự khẳng định cái tài tình, cái khoáng đạt của tâm hồn mình.

Riêng mấy câu thơ ấy cũng đủ bộc lộ tâm tình của Uy Viễn tướng công, giúp ta hiểu được phần nào cái ngất ngưởng và Bài ca ngất ngưởng này của cụ.

Kết thúc bài thơ, Nguyễn Công Trứ cũng phải trở lại cái điệp khúc nhàm chán của đạo sơ chung với triều Nguyễn, mặc dù câu đó chỉ đặt giữa một câu tự đánh giá cao và một câu như muốn thách thức với cả triều đình:

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

Nội dung ngất ngưởng bất chấp dư luận, bất cần mọi sự đã tìm được ở thể ca trù một âm điệu hoàn toàn thích hợp: câu ngắn, câu dài tùy ý, vần liền từng cặp xen lẫn đều đặn bằng trắc; niêm luật tự do, đối không bắt buộc, âm điệu quyết định ở trạng thái tâm hồn nhà thơ: bi thương, hùng tráng, cười cợt…

Giọng điệu bài thơ mang nét độc đáo của tác gia: tự hào gần như tự phụ, thậm chí đến ồn ào. Hai nét lớn trong tính cách cụ không hề che giấu: công tích lớn mà kể coi như chuyện thường tình, còn thú chơi ngông thì lại đề cao tột bậc.

Phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ) – Bài số 3

Nếu được phép hiểu con người một cách giản đơn thì nhìn vào cụ Uy Viễn tướng công ta sẽ thấy rõ hai nét: thấm nhuần đến chân tơ kẽ tóc đạo trung hiếu Nho gia và ý thức rất rõ về tài đức của mình, cố đem hết tài đức ấy cống hiến để làm nên sự nghiệp và danh tiếng để đời. Chí hướng và nhiệt huyết ấy ít ai bì kịp. Nguyễn Công Trứ – ông quan kinh bang tế thế lại có một tâm hồn nghệ sĩ: cống hiến thì hết mình nhưng việc xong, công thành, lại tự thưởng mình được vui chơi – vui chơi thanh nhã: Nợ tang bồng một khi đã trang trắng thì vỗ tay reo và thơ túi rượu bầu, hoặc hẹn với những ông cao tiên ẩn sĩ nào đó ở tận chốn thâm sơn cùng cốc và thả hồn theo nào địch nào đàn…

Có thể coi Bài ca ngất ngưởng là một bài tự thuật ngắn gọn có ý nghĩa tổng kết cuộc đời và tính cách Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ. Lời lẽ gọn mà vẫn đủ. Điệu thơ gửi vào thể ca trù nhiều tự do, ít khuôn phép, là thơ mà cũng là ca, là nhạc:

Vũ trụ nội mạc phi phận sự,

Ong Hi Văn tài bộ đã vào lồng.

Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.

Lúc bình Tây cờ đại tướng,

Có khi vỏ Phủ doãn Thừa Thiên.

Đô môn giải tổ chi niên,

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

Kìa núi nọ phau phau mây trắng,

Tay kiếm cung mù nên dạng từ bi.

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.

Được mất dương dương người thái thượng,

Khen chê phai phới ngọn đông phong.

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,

Không Phật, không Tiên, không vướng tục.

Chẳng Trái, Nhạc cũng vàn phường Hàn, Phú.

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

Không rõ nhan đề bài này tự cụ đặt ra hay người sưu tập đưa vào, nhưng tinh thần chung vẫn là nói lên sự ngất ngưởng. Không chỉ ở đầu đề mà toàn bài còn có thêm bốn chữ nữa, một sự cố ý trùng lặp thành điệp khúc, đúng vào chỗ tóm tắt và đúc kết một ý bày lên trên hay ẩn giấu ở dưới.

Phong thái ấy của Nguyễn Công Trứ vốn có từ nhỏ nhưng nó bộc phát mạnh mẽ và không giấu giếm nhất là sau thời điểm đô môn giãi tổ chi niên (được trả ấn từ quan, vua cho về nghỉ). Bởi dù sao một thái độ ngất ngưởng như thế không bao giờ dược phép lọt vào mắt vào tai các vua chuyên chế của triều Nguyễn. Cho nên mở bài vẫn phải phô ra cái nét thứ nhất (như bên trên đã giãi bày): Vũ trụ nội mạc phi phận sự, tác giả đặt mình ngang tầm vũ trụ nhưng rồi cũng khiêm tốn, kín mà hở nói tiếp ngay: Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. Vào lồng là vào khuôn phép vua chúa nhưng vẫn là chật hẹp, tù túng trái với cái tài bộ đội trời đạp đất của ông.

Nhà thơ vừa mới tự đề cao vai trò mình trong vũ trụ ở câu thứ nhất thì lập tức tự ché mình đã đem cái tài ba ấy nhốt vào lồng ở câu thứ hai nhưng dù sao vẫn nổi hẳn lên sự khoan khoái, tự hào khi nhắc tới đôi cái mốc của đời mình, dù mỗi sự kiện chỉ nhắc đến bằng vài chữ, như bất cần, không có gì quan trọng:

Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,

……………………………………………………..

Lúc bình Tây, cờ đại tướng,

Có khi về Phú doãn Thừa Thiên.

Giọng thơ kể toàn chuyện lớn lao hiển hách mà nghe như nói chơi. Đổ Thủ khoa (đỗ đầu cử nhân khoa thi Hương), làm Tham tán quân sự…, những chức vị ấy nói sơ qua cũng được. Nhưng làm đến Tổng đốc Hải An (Hải Dương và Quảng Yên), một chức quan to đầu tỉnh hay lĩnh chức đại tướng bình Tây (xứ Tây Nam nước ta) mà chỉ gọi cộc lốc khi Tổng đốc Đông và bình Tây, cờ đại tướng thì thật sự Nguyễn Công Trứ không coi những chức tước ấy là điều vẻ vang lớn nhất đối với mình. Tất cả chỉ là phận sự trong vũ trụ, đến tay mình thì làm, cái cốt yếu đã làm hết lòng hết sức. Chẳng phải cụ đã từng nói: Làm tổng đốc tỏi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục đó sao? Cho nên, câu tổng kết: Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng khẳng định: đối với công danh, dù Tổng dốc, dù đại tướng cụ coi cũng nhẹ tênh. Đó là một loại ngất ngưởng.

Xem thêm:  Phân tích hình ảnh Nồi cháo cám trong truyện ngắn Vợ nhặt

Tiếp theo là một hành động ngất ngưởng hơi bất thường: người giàu sang thì cưỡi ngựa, còn cụ lại cưỡi bò và cho bò đeo đạc ngựa:

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

Người đời bảo cụ khác người, có ke lại cho là cụ đặt mình lên trên dư luận. Xét ra có thể còn xa hơn thế: cụ cho bò đeo đạc ngựa cùng là một cách chơi ngông. Hơn nữa, hành động ấy xảy ra ngay sau ngày cụ nghỉ việc quan. Vừa nêu rõ năm tháng mình thôi đeoấn vua ban, đô môn giải tổ chi niên (giải tổ có nghĩa là cởi dây đeo ấn) thì lại cho ngay bò mình cưỡi đeo đạc ngựa để cho nó cũng ngất ngưởng như mình?! Ai suy diễn ra điều này chắc không khỏi cho hành vi của cụ là xấc xược, phạm thượng. Đó là hai thứ ngất ngưởng.

Ba là ngất ngưởng cả với Bụt:

Kìa núi nọ phau phau mây trắng,

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,

Bụt cũng hực cười ông ngất ngưởng.

Cưỡi bò lên thăm chùa ở núi Nài mây phủ trắng phau, cụ tự cười mình là: Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi. Kì thực đó chỉlà cái dạng thôi. Bởi theo hầu cụ có một đoàn gót sen “tiên nữ” đủng đỉnh một đôi dì là các cô ả đầu. Không những chẳng từ bi chút nào mà còn bất kính là đằng khác. Tuy vậy nhưng vẫn rất tự nhiên. Và cụ khiến Bụt không những chẳng chau mày quở trách mà còn nực cười độ lượng với ông quan thượng già.

Đến chùa, cụ đâu có lễ Phật mà bày tiệc hát ca, một tiệc hát ả đầu có đàn địch, trống phách hẳn hoi. Nhà chùa chắc cũng vì nể uy danh cụ mà làm lơ. Cụ được tất cả tục lụy mà lâng lâng bay bổng trên chín tầng mây, phơi phới luồng ấm mát của gió xuân:

Được mát dương dương người thái thượng,

Khen chê phơi phới ngộn dông phong.

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,

Không Phật, không Tiên, không vướng tục.

Cá tính thượng thư bốc lên hết cở trong roi chầu tài hoa của cụ. Bấy giờ thì mọi sự đời: cái được, cái mất, miệng khen, miệng chê… tất cả đều coi là cỏ rác. Hồn cụ lâng lâng ở cõi gió máy trong lành, cao khiết. Lời thơ vút lên hào hứng: Được mất / dương dương người thái thượng. Khen chê / phai phới ngọn đông phong. Con người bay bống trên tầm cao, trong say sưa âm nhạc của điệu ca, tiếng trống: Khi ca / khi tửu / khi cắc /khi tùng. Dù cuộc vui bày trong cửa Phật có các cô tiên tham dự mà mình vẫn trong sạch, thanh cao: Không Phật / không Tiên / không vướng tục.   

 Đây là đoạn ý thơ rõ nhất và cũng là đoạn hay nhất của bài thơ. Hai câu trước trải dài, thanh thoát cao siêu như tấm lòng không còn vướng chút bụi trần trong nhịp điệu thênh thênh thì hai câu sau là nhịp ca, nhịp trống, nhịp phách, nhịp rượu chúc mừng, rồi dồn lên rối rít đẻ chấm dứt ở một chữ mang thanh trắc đục, mạnh, chấm dứt câu thơ mà cũng là nện mạnh dùi xuống mặt trông để tự thưởng, tự hào, tự khẳng định cái tài tình, cái khoáng đạt của tâm hồn minh.

Riêng mấy câu thơ ấy cũng đủ bộc lộ tâm tính của Uy Viễn tướng công, giúp ta hiểu được phần nào cái ngất ngưởng và Bài ca ngất ngưởng này của cụ.

Kết thúc bài thơ, Nguyễn Công Trứ cũng phải trở lại cái điệp khúc nhàm chán của đạo sơ chung với triều Nguyễn, mặc dù câu đó chỉ đặt giữa một câu tự đánh giá cao và một câu như muốn thách thức vơi cả triều đình:

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

Nội dung ngất ngưởng bất chấp dư luận, bất cần mọi sự đã tìm được ở thể ca trù một âm điệu hoàn toàn thích hợp: câu ngắn, câu dài tùy ý, vần liền từng cặp xen lẫn đềuđặn bằng trắc; niêm luật tự do, đối không bắt buộc, âm diệu quyết định ở trạng thái tâm hồn nhà thơ: bi thương, hùng tráng, cười cợt…

Giọng điệu bài thơ mang nét độc đáo của tác giả: tự hào gần như tự phụ, thậm chí đến ồn ào. Hai nét lớn trong tính cách cụ không hề che giấu: công tích lớn mà kế coi như chuyện thường tình, còn thú chơi ngông thì lại đề cao tột bực.

Phân tích bài thơ Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ) – Bài số 4

Khi đã nghỉ hưu ở quê nhà, Nguyễn Công Trứ viết “Bài ca ngất ngưởng” thể hiện phong cách sống của ông. Đây là triết lí sống trong suốt cuộc đời, khi còn là một thư sinh, khi xuất chính hay lúc đã về hưu của ông. “Ngất ngưởng” là từ tượng hình có giá trị biểu đạt, diễn tả ở một vị trí cao chênh vênh, không ổn định liên hệ vào con người là một lối sống khác người: ngông nghênh, thách thức với mọi người, vượt lên thế tục bình thường!

Mở đầu là câu thơ chữ Hán thể hiện lí tưởng nhà Nho: Phận sự của kẻ sĩ là phải coi việc gánh vác trong vũ trụ là bổn phận của mình.

Nhà thơ tự xưng mình là ông – Ông Hi Văn – lần lượt làm các việc: thi đỗ thủ khoa, khi làm Tham tán Quân vụ Bộ hình, khi làm Tổng Đốc An Hải, lúc làm Đại Tướng Bình Tây, lúc làm Phủ doãn Thừa Thiên, nhưng ông không ở lâu chức vụ nào vì luôn luôn bị giáng chức.

Sự nghiệp như thế thật không hổ thẹn với chí lớn kẻ làm trai. Mặc dầu trên đường công danh có những lúc thăng trầm, nhưng cuối cùng ông cũng được ở phẩm tước khá cao dù cái xã hội ấy, ông gọi là cái “lồng”.

Cuộc đời lập nghiệp công danh kéo dài từ năm 1820-1848, ông đã tự chứng minh cái tài song toàn về văn võ một cách hiển hách lừng danh, đến nỗi ông không che giấu khi tự thuật về mình. Một tay ngất ngưởng trên hoan lộ:

“Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng!”.

Sau khi làm xong phận sự, ông không ngần ngại cởi trả áo mão triều đình cáo lão về hưu.

Quãng đời sau cùng của đời Nguyễn Công Trứ là quãng đời không màng danh lợi, hoàn toàn hưởng nhàn theo sở thích cá nhân. Với một tâm hồn tự do và một cuộc sống độc lập, ông đã tha hồ ngất ngưởng cưỡi bò vàng đeo nhạc ngựa tiêu dao đây đó khi chùa, khi núi, lại đèo theo đủng đỉnh một đôi dì. Cách hưởng nhàn hành lạc của ông ở đây thật đến quá quắt, mà có lẽ khôi hài lập dị của một trang nam tử có một thị hiếu riêng, đến nỗi:

“Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng!”

Lối hưởng lạc này có một sinh khí và một tính chất riêng, đó là lối hưởng lạc nhập tục theo chiều phóng khoáng cá nhân, không giống một ai, không Tiên không Phật cũng không tục, nhưng vần trọn nghĩa vua tôi:

“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.

Không Phật, không Tiên, không vướng tục”.

Hưởng nhà hành lạc chỉ là thời kì sau cùng của ông khi làm xong phận sự. Ông muốn mọi người hiểu rằng cuộc đời là trung nghĩa. Biết bao lần lên bổng xuống trầm trên hoan lộ, vì ganh ghét, vì vu cáo, thế mà vẫn giữ vững đức trung quân, ái quốc không hề có một ý tưởng bất mãn.

Bởi vậy khi về hưu vui thú tuổi già, ông sống với một cõi lòng yên vui bình thán, trên không lỗi với vua, dưới không mất lòng dân chúng. Cho nên khi Tiền Hải, Kim Sơn, lúc chống gậy đến chốn triều đình nghị quốc quân đại sự. Năm Tự Đửc thứ 12 ông nghe tin liên quân Pháp, Tây Ban Nha tấn công cửa bể Đà Nẵng, không quản ngại thân già, ông chống gậy đến chốn triều đình dâng sớ kêu vua xin Cầm quân chống giặc. Nhưng vua không cho, vì thây ông đã quá già nua tuổi tác.

Tự xét hiểu mình như thế, nên ông kiêu hãnh ghi phận về mình:

“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung,

Trong triều ai ngất ngưởng như ông”.

Phải chăng đó là lối sống mang cái “chí kh픓ngất ngưởng”. Chẳng những ông không hề sợ ai chê cười mà còn đầy lòng tự hào về cái “đạo sống ngất ngưởng” đó. Tóm tắt lại có bốn cái “ngất ngưởng” làm nổi bật trong đời ông.

Thanh Bình tổng hợp

Thống kê tìm kiếm

  • phân tích bài ca ngất ngưởng
  • bài viết số 2 lớp 11 bài ca ngất ngưởng
  • phân tích bài thơ bài ca ngất ngưởng
  • phân tích bài ca ngất ngưởng lớp 11

Prev Article Next Article