Hình ảnh miếng trầu trong văn học dân gian

Nhà cung cấp thông tin(ICP): Thông tấn xã Việt Nam | ISSN : 1606 - 0261 Giấy phép số 137/GP-BTTTT cấp ngày 17/03/2022 Cơ quan chủ quản: Thông tấn xã Việt Nam | Tổng Biên tập: Nguyễn Thắng Địa chỉ: 79 Lý Thường Kiệt - Hà Nội Tel. (84-24) 3933 2303 | Fax:(84-24) 3933 2291 Email:

Bản quyền © Báo ảnh Việt Nam

GIẢI Mà TRUYỆN TRẦU CAU BẰNG Mà VĂN HÓA DÂN GIANHuyền thoại là phương pháp tư duy của người xưa bắt nguồn từ thể chế xã hộitrong giai đoạn từ chế độ cộng sản nguyên thủy đến thị tộc mẫu quyền, đã trở thànhnguồn cảm hứng cho các sáng tác văn học từ dân gian đến hiện đại. Tư duy huyềnthoại thể hiện trong các thể loại thần thoại, truyền thuyết, sử thi, cổ tích nhưng đậm đặcnhất là ở thần thoại.Cổ tích là thể loại sáng tác vào giai đoạn sau nhưng ảnh hưởng tâm thức huyền thoại.Con người của các thời đại sau, dù đã đoạn tuyệt với các thể chế xã hội cũ nhưng trongtiềm thức sâu kín, tâm thức đồng loại vẫn giữ một vùng lưu trú của các nếp sống cổ xưa.Một ngày nào đó, trong một hoàn cảnh bất ngờ, nó sẽ trỗi dậy một cách vô thức. K.G.Jung, một nhà nghiên cứu văn học theo thuyết tâm lý cho rằng bên dưới cái vô thức cánhân của mỗi người đều có một tầng vô thức tập thể, đó là ký ức chủng loại, thể hiện hànhđộng bản năng chủng loại. Quan niệm của Jung đã dẫn đến một trào lưu phê bình “cố mẫuthần thoại” rất thịnh hành ở phương Tây nửa cuối TK XX. Sau này nó mở rộng cho cả việcnghiên cứu văn học nói chung. Nó chủ trương đi tìm cố mẫu cho các hình tượng, môtíptrong văn học, đặc biệt là các cố mẫu văn hóa. Những hiện tượng và môtíp lặp đi lặp lạitrong văn học hiện đại sẽ được giải thích là những biểu hiện của các cố mẫu có từ xa xưađã tồn tại trong vô thức tập thể loài người mà các nhà văn là người đại diện (1).Truyện Trầu cau đã có sự đan xen giữa tâm thức phụ quyền và tâm thức mẫu quyềntrong việc xây dựng hệ thống các hành động, chi tiết, biểu tượng. Theo lý thuyết phức hợpthì có thể gọi đây là sự chồng xếp các yếu tố tư tưởng xã hội khác nhau trong quá trìnhsáng tạo tác phẩm dân gian. Tâm thức phụ quyền đã được tác giả dân gian thể hiện chi tiếtcô gái buộc phải chọn người anh làm chồng và lý giải mối quan hệ bộ ba: anh, em, chị dâutheo sự nhầm. Ban đầu là chị dâu ôm nhầm em chồng. Chi tiết này đã có trong ba bản:bản Trầu cau của Vũ Ngọc Phan kể trong Hợp tuyển văn học Việt Nam, tập I, 1972,bản Sự tích trầu cau và vôi của Nguyễn Đổng Chi trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam,tập I,in lần thứ tư, 1972 (KTTCT), bản kể trong Tình sử Việt Nam của Trúc Khuê. Việc chịdâu ôm nhầm em chồng được lý giải một cách hiển nhiên là hai anh em giống nhau nhưđúc. Hai người đi làm về tối, người chị dâu thấy một người bước vào, cứ ngỡ là chồngmình, liền ôm chầm lấy âu yếm, nhưng đó là người em. Nguyên nhân của sự ôm nhầm nàyxuất phát từ hai lý do: lý do thứ nhất là hai anh em giống nhau như đúc, lý do thứ hai mớilà cơ bản: cô gái thương hai người như nhau, nhưng cô gái buộc phải chọn lấy người anhbởi luật chế độ phụ quyền, em không được có vợ trước anh. Nếu là chế độ mẫu quyền thìcô gái có quyền lấy người nào mình thích, không phải nhọc công làm phép thử người nàoanh, người nào em. Sự giống nhau như đúc đã gây cho sự nhận diện khó khăn, lại thêmtình cảm yêu thương của cô gái đối với hai người cũng giống nhau nên những nét riêng củahai người vốn đã rất ít ỏi cũng bị xóa nhòa. Có thể người phụ nữ không hề biết mình bịnhầm nếu như người em chồng không kêu lên. Truyện cây cau trong Lĩnh Nam chíchquái (LNCQ) ở TK XV không nói đến chi tiết “hai anh em giống nhau như đúc” nên cũngkhông có chi tiết “cô gái họ Lưu ôm nhầm người em chồng”. Một chi tiết khác quan trọnglà bản của LNCQ “Hai anh em thấy nàng thì rất vừa ý, muốn kết làm vợ chồng”. Ở vănbản này, tâm thức phụ quyền rõ hơn biểu hiện trong việc chủ động cưới xin là người contrai.Về tâm thức mẫu quyền, truyện này thể hiện một thực tế về mối tình tay ba mà chi tiếtôm nhầm em chồng là dấu tích của gia đình mẫu quyền còn nằm trong tiềm thức người phụnữ. Người phụ nữ trong xã hội mẫu quyền có quyền lấy nhiều chồng, một lúc có thể lấy cảanh và em, hai anh em cùng chung một vợ. Cô gái đã yêu hai người như nhau được lý giảivì hai người giống nhau như đúc nhưng cũng có thể là từ vô thức, cô đã yêu một lúc haingười con trai. Khi cô gái vẫn yêu cả hai người thì sự ôm nhầm đó là cố tình hay vô tìnhcũng không còn quan trọng nữa. Lý trí là vô tình, là không có chủ ý nhưng tâm thức dẫnđường. Định chế hôn nhân phụ quyền buộc người phụ nữ phải lấy người anh nhưng tìnhcảm thì cô ta vẫn muốn yêu cả hai người hoặc có thể muốn lấy người em hơn. Thậm chíkhi người anh đã có vợ, người anh ít gần gũi với em như trước, người em hơi buồn thìngười con gái, với bản chất bao dung có thể yêu người em hơn. Vũ Ngọc Phan cũng chorằng “ở truyện này, có thể người chồng chính là người anh và người chồng phụ là ngườiem”(2). Khi chuyển sang chế độ phụ quyền, người phụ nữ trong tâm linh vẫn coi người emchồng như chồng mình. Theo Nguyễn Xuân Lạc thì ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu cũngcho rằng “truyện có thể xuất hiện lần đầu tiên trong xã hội nguyên thủy vào giai đoạn màngười đàn bà còn có nhiều chồng…”(3). Trong các bản kể của các dân tộc thiểu số ở NghệAn, dân tộc Cơ tu ở Quảng Nam và Thừa Thiên Huế liên quan đến trầu, cau, vôi đều kể vềngười đàn bà có hai chồng (KTTCT).Sự nhập nhằng trong thể chế xã hội buổi giao thời là dù đã xuất hiện chế độ phụquyền nhưng sinh hoạt vẫn theo nếp mẫu quyền hoặc có sự đan xen hai thể chế xã hộitrong cộng đồng dân cư. Hai anh em cùng đi ở trong nhà họ Lưu được kể là do mồ côinhưng đây là dấu tích của chế độ mẫu quyền khi con trai lấy vợ phải ở nhà vợ và theo bảnkể của Vũ Ngọc Phan và Nguyễn Đổng Chi thì người chủ động kết hôn là cô gái họ Lưu.Yếu tố này thể hiện tâm thức mẫu quyền trong việc quyết định hôn nhân thuộc vế ngườiphụ nữ. Chi tiết ôm nhầm là một chi tiết mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Nó là chi tiết vềsự nhập nhằng giữa lý trí và tình cảm trong mối tình tay ba. Yêu thương một lúc cả hainhưng buộc phải chọn lấy một người làm chồng thì quả là sự lựa chọn khó khăn. Lý trí thìbuộc cô phải chọn nhưng tâm thức thì đâu phải khi nào cũng rạch ròi. Việc chia tay giữangười em với anh và chị dâu biểu hiện một sự rạn nứt mô hình gia đình thị tộc trong buổiđầu của chế độ phụ quyền. Sự ghen tuông của người anh là một ý thức sở hữu của ngườiđàn ông đối với người đàn bà trong xã hội phụ quyền.Ba nhân vật thật đẹp và không có ai đáng ghét, có trách chăng thì trách người anhnông nổi. Cô gái mặc dù yêu thương hai người như nhau nhưng vẫn chọn người anh làmchồng theo tôn ti luật lệ mà xã hội phụ quyền đặt ra. Cô yêu cả hai người mà chỉ chọn lấyngười anh là một việc làm hoàn toàn chủ động theo nguyên tắc ứng xử hợp lẽ của chế độphụ quyền. Hai người con trai thì học hành chăm chỉ, hiền lành, đẹp trai, lại sống đúngmực và hết lòng thương yêu nhau. Ba con người đó thật là đẹp và họ cần cho nhau. Sự việcôm nhầm ấy, người em hoàn toàn trong sáng. Có bản kể người em kể lại cho người anh biếtchị dâu ôm nhầm mình. Người em bỏ nhà ra đi có nhiều lý do. Lý do đầu tiên là cảm thấybuồn, cô đơn khi thấy người anh tỏ ra nghi kị, lạnh nhạt đối với mình. Lý do thứ hai làtránh cho chị dâu cảm thấy khó xử, nói như Hoàng Tiến Tựu là “để cho quan hệ vợ chồngcủa anh được yên ổn”(4). Cả hai lý do ấy đều hợp tình và là xu thế tất yếu. Người anh saukhi thấy người em bỏ nhà ra đi tối không thấy về liền đi tìm em và cảm thấy hối hận vì đãhiểu nhầm em, nghi kỵ em rồi lạnh nhạt với em. Khi thấy hai người ra đi không về, ngườivợ cũng đi tìm. Tác giả dân gian đã không dùng kiểu kết thúc có hậu theo hướng anh emgia đình sum họp, hòa thuận như xưa. Cách kết thúc đó là không thực tế. Nếu người anhtìm được em, liệu người em có chịu về ở chung không, mà nếu về thì sự khó xử vẫn cứ xảyra. Nếu hai anh em ở với nhau thì người phụ nữ phải ra đi, nếu vậy thì không những ngườianh buồn mà người em cũng thấy áy náy, không yên. Sự va chạm, nghi kỵ, hiểu lầm là mộtthực tế khó tránh khỏi khi trong gia đình chỉ có một người phụ nữ với hai người đàn ôngmà cả hai người, cô đều thương yêu.Tác giả dân gian đã không nỡ cho họ chia lìa nên cho họ hóa thân để ở gần nhau, ômấp quấn quýt nhau, thành một biểu tượng đẹp đẽ về tình anh em, chồng vợ. Tác giả đã xâydựng cho cây trầu (sự hóa thân của người vợ) leo lên ôm ấp lấy cây cau (sự hóa thân củangười chồng) để biểu hiện tình cảm vợ chồng thủy chung, gắn bó. Theo Nguyễn Xuân Lạc,“Dây trầu quấn quanh thân cau vừa mang ý nghĩa âu yếm trong tình cảm vợ chồng, vừabiểu thị người chồng là trụ cột gia đình”(5). Sự hóa thân này vẫn theo tâm thức phụ quyền,như một sự minh chứng cho tấm lòng thủy chung trong sáng của người vợ mà việc ôm emchồng chỉ vì nhầm mà thôi. Đây là xu hướng lý tưởng theo đạo đức phụ quyền. Nhưng bảntrong LNCQ thì khi hóa kiếp, Lang (người em) hóa thành câu cau còn Tân (người anh) hóathành tảng đá và tất nhiên, dây trầu (chị dâu) sẽ bò lên quấn cây cau. Một số tác giả chorằng phải chăng bản kể của LNCQ có gì nhầm lẫn chăng? Thực ra, đây là kiểu cổ xưa hơn,phản ánh một tâm thức mẫu quyền, người vợ vẫn yêu người em hơn, muốn chung sống vớingười em hơn trong khi chế độ phụ quyền bắt buộc cô phải lấy người anh làm chồng. Cóbản kể dây trầu bò quanh tảng đá rồi mới leo lên cây cau như muốn ôm ấp cả hai người,đấy phải chăng là tâm lý có hai chồng của người vợ trong chế độ mẫu quyền.Trầu - cau - vôi hòa làm một thành một vị cay nồng ấm áp, màu đỏ tươi như tình máumủ anh em, tình vợ chồng nồng thắm. Nhân vật người em là một nhân vật nhạy cảm trongmối quan hệ anh em, chồng vợ trong gia đình thị tộc, gia đình lớn trong đó các thế hệ ởchung với nhau. Nhân vật người em là một phép thử nghệ thuật để đo tấm lòng thân thiếtruột thịt giữa anh và em, tình cảm thủy chung giữa vợ với chồng. Nếu em bỏ đi mà anhkhông đi tìm thì rõ ràng anh không còn thương em, chồng bỏ đi mà vợ không đi tìm là vợkhông còn yêu chồng. Dù có trải qua sự hiểu lầm, nghi kị, ghen tuông hoặc những biếnđộng trong đời sống thì tình cảm gắn bó keo sơn giữa anh em, vợ chồng cũng không gì laychuyển được. Trong hình ảnh tự nhiên cũng vậy, tảng đá vôi là mối liên kết, chất xúc táckết liền trầu cau thêm nồng thắm, nếu chỉ có trầu cau mà không có vôi thì thật là nhạt nhẽo,vô vị. Nếu có trầu mà không có cau thì thiếu sự mặn nồng. Hình ảnh đẹp đẽ ấy đã đi vào cadao:Có trầu mà chẳng có cauLàm sao cho đỏ môi nhau thì làmCảm hứng nghệ thuật cho câu chuyện bắt đầu từ cảnh trí thiên nhiên và phong tục ăntrầu. Người ta lý giải tại sao cả ba thứ: trầu, cau, vôi không quan hệ gì với nhau, gặp nhaulại miệng ăn môi đỏ, nồng nàn say mê đến vậy. Từ hình ảnh trầu - cau - vôi, tác giả liên hệđến mối quan hệ xã hội: sự nồng ấm ấy chỉ có trong mối quan hệ vợ chồng, anh em. Conđường nghệ thuật của truyện Trầu cau là từ cảnh trí thiên nhiên (trầu - cau - vôi) và phongtục ăn trầu đến mối quan hệ anh em, chồng vợ hoặc giải thích cảnh trí thiên nhiên vàphong tục ăn trầu bằng câu chuyện về mối quan hệ anh em, chồng vợ. Phong tục ăn trầu cóthể có trước thời vua Hùng nhưng dân gian muốn câu chuyện có một chứng nhân lịch sửnên đã đưa nhân vật Hùng Vương vào. Vì thế mà có ý kiến xếp truyện này vào truyềnthuyết. Nguyễn Xuân Lạc cũng cho rằng: “Phải chăng tục ăn trầu đã gợi nên mối tình này?Có phải rằng tục ăn trầu xa xưa ấy (cùng với tục làm bánh chưng bánh dày, tục dựng câynêu ngày tết… của tổ tiên) mà nhân dân ta đã sáng tạo nên câu chuyện tình cảm động nàychăng?... Họ đã lồng đề tài xã hội vào đề tài thiên nhiên, vào câu chuyện phong tục, và đãkết thúc bằng việc đồng nhất các quan hệ tình cảm của ba con người kia với sự hài hòa củathiên nhiên (trầu - cau - vôi)”(6). Đấy cũng là cảm hứng nghệ thuật chung cho các truyệncổ tích lý giải các sự tích.Như vậy, câu chuyện này trong quá trình lưu truyền đã có sự chuyển dịch chủ đề, biểutượng. Ban đầu, truyện có thể kể về mối quan hệ giữa người vợ với hai người chồng là anhem hay là tình cảm anh em trong quan hệ với một người vợ trong xã hội thị tộc mẫu quyền.Sau này, các nhà nho đã soạn lại theo mẫu hình quan hệ phụ quyền. Sự gia công của các nhànho đã thể hiện rõ trong việc Hán hóa tên các nhân vật cho hợp với hình ảnh trầu, cau, vôirồi muốn mọi người tin là có thật nên truyền thuyết hóa hay cổ tích lịch sử hóa bằng việcdựng lên nhân vật Hùng Vương để lý giải nguyên do tục ăn trầu. Nhưng tâm thức mẫu quyềnvẫn còn len lỏi trong việc xử lý các tình tiết, dù tâm thức phụ quyền vẫn nổi trội. Thông quaviệc lý giải tục ăn trầu của người Việt, tác giả dân gian muốn ca ngợi tình cảm thắm thiếtthủy chung gắn bó keo sơn giữa vợ chồng, anh em trong một gia đình và đó cũng là lối sốngtình nghĩa của người Việt. Dù có trải qua sự đổi thay mô hình xã hội thì mối quan hệ cốt lõivợ - chồng, anh - em vẫn mặn nồng, trong sáng, thủy chung. Hình ảnh trầu - cau - vôi mãimãi vẫn là biểu tượng đẹp của tình anh em, vợ chồng. Đây là truyện vừa có yếu tố thầnthoại thể hiện trong quan niệm vạn vật có linh hồn, có sự hóa thân, hóa kiếp của triết lý Phậtgiáo và Đạo giáo, có yếu tố truyền thuyết trong mối quan hệ xã hội nhưng cơ bản vẫn làtruyện cổ tích lý giải phong tục tập quán gắn với quan hệ anh em, gia đình. Sự hóa thân củaba nhân vật ở bên cạnh nhau là sự hóa thạch một mô hình gia đình thị tộc lý tưởng, dấu ấncủa trầm tích văn hóa cổ xưa._______________1. Nguyễn Văn Dân, Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học Xã hội, HàNội, 2004, tr.152.2. Đinh Gia Khánh, Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, Nxb Khoa học Xã hội, HàNội, 1989, tr.245.3, 5, 6. Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Xuân Lạc, Giảng văn văn học dân gian, Nxb Giáo dục,Hà Nội, 1995, tr. 111, 115, 117.4. Hoàng Tiến Tựu, Bình giảng truyện dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1996, tr.72.Nguồn: Tạp chí VHNT số 308, tháng 2-2010Lên trênSự tích trầu cau, ý nghĩa của trầu cau với văn hóa người ViệtNgười Việt Nam ta từ xưa đã có nét văn hóa ăn trầu cau hay buộc phải có Trầu Cau trongcác nghi lễ cưới hỏi tới ngày nay. Hẳn không ai là không biết đến sự tích buồn và man mácchất thơ này. Hãy cùng tìm hiểu lại về sự tích đậm đà bản sắc dân tộc này nhéCha Tân và Lang là người to cao nhất trong vùng đã từng được vua Hùng triệu về PhongChâu ban thưởng và đặt tên là Cao, từ đó gia đình lấy tiếng Cao làm họ. Hai anh em lớnlên thì cha mẹ lần lượt qua đời, cả anh lẫn em quyến luyến nhau không rời nửa bước.Người cha trước khi mất có gửi gắm Tân cho một đạo sĩ học Lưu nhưng khi Tân đến theohọc thì Lang không chịu ở nhà một mình, chàng cũng cố xin cùng học với anh một thể.Nhà họ Lưu có một cô con gái cùng tuổi với họ. Để tìm hiểu xem người nào là anh, ngườinào là em, nàng bày ra một mẹo nhỏ. Giữa lúc họ đang đói, nàng chỉ dọn cho họ một bátcháo với một đôi đũa. Đứng sau khe vách nàng thấy người này nhường cháo cho người kiaăn, nàng lẩm bẩm “À, ra anh chàng vui tính kia là anh”. Từ đó, giữa Tân và cô gái có nhiềucuộc gặp gỡ, tình yêu giữa 2 người ngày một khăng khít.Thấy thế đạo sĩ họ Lưu vui lòng gả con gái cho Tân. Sau khi cưới, 2 vợ chồng đến ở mộtngôi nhà mới, có Lang ở chung với vợ.Từ khi người anh có vợ thì thương yêu giữa hai anh em không được thắm thiết nữa. Ngườiem rất là buồn, nhưng người anh vô tình không để ý đến.Một hôm hai anh em cùng lên nương, tối mịt mới về, người em vào nhà trước; chàng vừabước chân qua ngưỡng cửa thì người chị dâu ở trong buồng chạy ra lầm chàng là chồngmình, vội ôm chầm lấy. Người em liền kêu lên, cả hai đều xấu hổ. Giữa lúc ấy, người anhcũng bước vào nhà. Từ đấy người anh nghi em có tình ý với vợ mình, càng hững hờ với emhơn trước.Một buổi chiều, anh chị đều đi vắng cả, người em ngồi một mình nhìn ra khu rừng xa xa,cảm thấy cô quạnh, lại càng buồn tủi, vùng đứng dậy ra đi.Chàng đi, đi mãi cho đến khu rừng phía trước mặt, rồi theo đường mòn đi thẳng vào rừngâm u. Trời bắt đầu tối, trăng đã lên, mà chàng vẫn cứ đi. Đi đến một con suối rộng nướcsâu và xanh biếc, chàng không lội qua được, đành ngồi nghỉ bên bờ. Chàng khóc thổn thức,tiếng suối reo và cứ reo, át cả tiếng khóc của chàng. Đêm mỗi lúc một khuya, sương xuốngmỗi lúc một nhiều, sương lạnh thấm dần vào da thịt chàng, chàng chết mà vẫn ngồi trơ trơ,biến thành một tảng đá.Người anh cùng vợ về nhà, không thấy em đâu, lẳng lặng đi tìm, không nói cho vợ biết.Theo con đường mòn vào rừng, chàng đi mãi, đi mãi, và sau cùng đến con suối xanh biếcđang chảy cuồn cuộn dưới ánh trăng và không thể lội qua được, đành ngồi bên bờ suối, tựamình vào một tảng đá. Chàng có ngờ đâu chính tảng đá là em mình! Sương vẫn xuống đều,sương lạnh rơi lã chã từ cành lá xuống. Chàng rầu rĩ khóc than hồi lâu, ngất đi và chếtcứng, biến thành một cây không cành, mọc thẳng bên tảng đá.Ở nhà, vợ không thấy chồng đâu, vội đi tìm và cũng theo con đường mòn đi vào rừngthẳm. Nàng đi mãi, bước thấp bước cao, rồi cuối cùng gặp con suối nước sâu và xanh biếc.Nàng không còn đi được nữa. Nàng ngồi tựa vào gốc cây không cành mọc bên tảng đá, vậtmình than khóc. Nàng có ngờ đâu nàng đã ngồi tựa vào chồng mình và sát đó là em chồng.Nàng than khóc, nhưng tiếng suối to hơn cả tiếng than khóc của nàng. Đêm đã ngả dần vềsáng, sương xuống càng nhiều, mù mịt cả núi rừng, nàng vật vã khóc than. Chưa đầy nửađêm mà nàng đã mình gầy xác ve, thân mình dài lêu nghêu, biến thành một cây leo quấnchặt lấy cây không cành mọc bên tảng đá.Về sau chuyện ấy đến tai mọi người, ai nấy đều thương xót. Một hôm, vua Hùng đi quachỗ ấy, nhân dân đem chuyện ba người kể lại cho vua nghe và đến xem. Vua bảo thử lấy lácây leo và lấy quả ở cái cây không cành nghiền với nhau xem sao, thì thấy mùi vị cay cay.Nhai thử, thấy thơm ngon và nhổ nước vào tảng đá thì thấy bãi nước biến dần ra sắc đỏ.Nhân dân gọi cái cây mọc thẳng kia là cây cau, cây dây leo kia là cây trầu, lại lấy tảng đá ởbên đem về nung cho xốp để ăn với trầu cau, cho miệng thơm, môi đỏ.Tình duyên của ba người tuy đã chết mà vẫn keo sơn, thắm thiết, cho nên trong mọi sự gặpgỡ của người Việt Nam, miếng trầu bao giờ cũng là đầu câu chuyện, để bắt đầu mối lươngduyên, và khi có lễ nhỏ, lễ lớn, cưới xin, hội hè, tục ăn trầu đã trở nên tục cố hữu của dântộc Việt Nam.Cho anh một miếng trầu vàngMai sau anh trả cho nàng đôi mâmYêu nhau chẳng lấy được nhauCon lợn bỏ đói, buồng cau bỏ giàAnh về cuốc đất trồng cauCho em trồng ké dây trầu một bênMai sau trăm họ lớn lênCau kia ra trái làm nên cửa nhà.Xem phim sự tích trầu cau dưới góc nhìn của điện ảnh:Các tình tiết trong phim đã được đôi chút thay đổi nhưng vẫn giữ được cái hay cái đẹptrong câu truyệnBài thơ hay về sự tích trầu cau:Vôi trầu đỏ thắm tình ưaTrầu cau vấn vít duyên xưa tới giờVì tình cốt nhục, phải lơEm đành hóa đá bên bờ sông sâuThương em, anh biến thành cauTình thâm huynh đệ trước sau chu toànVì tình thiếp phải theo chàngThành trầu quấn quýt thủy chung vẹn trònTình chàng, duyên thiếp, nghĩa emTrầu cau nồng thắm lại thêm vôi hồngChuyện xưa lục bát mấy dòngMừng mùa duyên thắm tình nồng sắt sonTrầu Cau Trong Đời Sống Văn Hóa Dân TộcPhạm Thị NhungNgày nay, qua nhiều sách vở và các tài liệu khảo cổ, người ta được biết trầu cau là hai loại câyđã xuất hiện rất lâu đời ở các vùng Trung Ấn, Ðông Nam Á và ở một số quần đảo trên TháiBình Dương; như trong di chỉ khảo cổ thuộc văn hóa Hòa Bình, hạt cau đã được tìm thấy trêndưới một vạn năm (1). Tại các nơi đây đã có nhiều dân tộc có tục ăn trầu như các dân tộc thiểusố xưa ở miền nam nước Trung Hoa (kể từ lưu vực sông Dương tử trở xuống), tức người TrungHoa miền nam ngày nay, các dân tộc Thái Lan, Miến Điện, các dân tộc Việt-Mên-Lào, kể cảcác dân tộc thiểu số như người Thái, Tày, Nùng, Mường, Dao, Thượng... trên bán đảo ĐôngDương, cùng các dân tộc trên quần đảo Nam Dương, Mã Lai, Phi Luật Tân; và ở Ấn Độ cũngcónhiềunơidânchúngcótụcăntrầu(2).Có lẽ người xưa, do kinh nghiệm mà có, đã biết sử dụng vôi, trầu, cau, cũng như các loại lá, rễ,quả của nhiều thứ cây khác tìm được để bảo vệ sức khỏe, phòng ngừa hay trị bệnh. Quả thực,ăn trầu đã giúp cho cơ thể được ấm nóng chống lạnh, chống sơn lam thủy khí; ăn trầu lại sạchmiệng,Sựrănglợivàtíchxươngtrầucốtđượccaubồidưỡng,-vữngÝmạnh.nghĩa.Riêng tại xứ ta, tục ăn trầu tất nhiên đã có rất sớm, ngay tục dùng trầu cau làm sính lễ cưới hỏithay muối (vì người xưa cho muối là quí nhất) có thể cũng có đã lâu, nhưng chưa biết bắt đầutừ thời điểm nào. Phải đợi đến cuối thế kỷ thứ XV, sách Lĩnh Nam Chích Quái của Trần ThếPháp ra đời, nó mới được ghi chép lại thành một truyện tích rõ ràng, có một nguồn gốc mangnhiềuýnghĩathâmthúy.Theo tài liệu của Bùi Văn Nguyên, dịch giả cuốn Tân Đính Lĩnh Nam Chích Quái của VũQuỳnh, thì Trần Thế Pháp trong bài đề tựa sách của mình, có cho biết, chính ông là người đãsưu tập được cuốn Lĩnh Nam Chích Quái Lục, bản gốc, của một tác giả khuyến danh, có lẽkhởi thảo vào đời Trần. Sách chép những chuyện huyền hoặc, quái dị trong nước từ xưa đếnnay, căn cứ vào lời kể của dân gian và chỉ được phổ biến trong từng địa phương.Được sách, họ Trần bèn nghiên cứu cho sáng tỏ đầu đuôi sự việc rồi chép lại, có sắp xếp vàchỉnhlývềnộidungmộtsốtruyện.Sau đó, tác giả Vũ Quỳnh rồi Kiền Phú (đời hậu Lê) cũng dựa vào bản gốc để viết lại L.N.C.Q.theo sự sắp đặt riêng của mình. Đặc biệt trong cuốn Tân Đính L.N.C.Q., Vũ Quỳnh đã bổ xungnhiều chi tiết, thêm nhiều truyện mới và viết bằng một hình thức mới mẻ, hấp dẫn hơn.SựtíchTrầuCautrongL.N.C.Q.đãcónộidungnhưthếnào?Vào thời xa xưa, có hai anh em nhà họ Cao, một người tên Tân, một người tên Lang (tân langcó nghĩa là cây cau) rất mực thương yêu nhau. Khi cha mẹ qua đời, hai anh em đến trọ họcnhàôngthầyhọLưu.Thấy Tân và Lang vừa học giỏi, vừa đẹp người đẹp nết, ông thầy yêu quí như con. Cô con gáicủathầycũngđemlòngquyếnluyến,muốnchọnngườianhlàmchồng.Hai anh em Tân và Lang sát tuổi nhau, dung mạo lại giống nhau như khuôn đúc, cô gái khôngsao đoán được ai là anh, ai là em. Nhân dịp biếu cháo, cô cố ý chỉ đưa tới một bát cháo vớimột đôi đũa rồi rình xem, thấy Lang cung kính mời Tân ăn trước cô mới biết Tân là anh, và xinchađượcgánghĩacùngchàng.Vợ chồng Tân và Xuân Phù (tên cô gái, xuân phù có nghĩa là trầu không mùa xuân) sống rấthạnh phúc. Hai anh em Tân và Lang vẫn ở bên nhau, nhưng Lang nhận thấy từ ngày anh cóvợ, tình anh đối với mình không còn quyến luyến như xưa, trong khi ấy người anh vô tìnhkhông hề hay biết. Đã thế lại xẩy ra chuyện hiểu lầm. Một hôm hai anh em đi làm đồng vềmuộn, Lang về trước, nàng Lưu tưởng chồng, chạy ra vồn vã âu yếm. Lang vội lên tiếng, cảhai đều biết là nhầm nên rất ngượng. Tân về,biết chuyện để dạ nghi ngờ, từ đó tỏ ra lạnh nhạtvớiemhơn.Lang buồn tủi âm thầm bỏ nhà ra đi. Chàng lang thang trong rừng cho tới khi kiệt sức, chết đihóathânthànhcâycaubênbờsuốivắng.Thấy em không về, Tân ân hận, xót xa. Chàng lặng lẽ lên đường tìm em. Tân cũng đã tới bờsuối nọ, ngồi bên cây cau than khóc. Khi thân xác rũ liệt, chàng chết hóa thân thành tảng đávôi,nằmsátbêngốccau.Nàng Lưu chờ chồng mãi chẳng thấy trở về, quá nhớ thương nên lại đi tìm. Một chiều kia nàngcũng tới được bờ suối định mệnh. Nàng ngồi trên tảng đá khóc miết... đến khi hồn lìa khỏi xácthìhóathânthànhcâytrầukhông,leobámtrênthânđá.Gia đình họ Lưu đi tìm con, được biết chuyện bèn lập miếu thờ. Người đương thời rất cảm kíchtrước tình anh em khăng khít, tình vợ chồng thắm thiết, thủy chung của anh em vợ chồng họCaonênthườngđếnđốtnhang,chiêmbái,cầucúng(3).Một hôm vua Hùng thứ tư nhân dịp tuần du qua đấy, thấy có miếu thờ, lại được dân sở tại kểcho nghe câu chuyện thương tâm kia thì vô cùng cảm động. Ngài bảo lấy trầu cau ăn thử mớikhám phá ra một mùi vị thơm cay, nồng ấm, và khi nhổ nước cốt trầu xuống tảng đá vôi lạithấy hiện ra sắc đỏ tươi như máu, nhà vua cho là quý bèn truyền lấy giống về trồng, xa gần bắtchước làm theo. Ngài còn xuống lệnh cho thần dân từ nay sẽ nhất thiết dùng trầu cau trongcác dịp cưới hỏi, và trong các buổi hội họp lớn, nhỏ. Tục ăn trầu ở nước ta có từ đó.Sau khi đọc sự tích Trầu Cau trong Lĩnh Nam Chích Quái, ta nhận thấy, truyện được ghi chéplại không những có kết cấu chặt chẽ, lại phối hợp được cả hai yếu tố hiện thực lẫn huyền hoặcmột cách khéo léo. Như thế , các tác giả của nó đã khiến một câu chuyện truyền khẩu vụn vặt,còn mờ nhạt trong dân gian trở thành một truyện cổ tích có đầu đuôi, vừa lý thú hấp dẫn, vừahàmchứanhiềuýnghĩathâmthúy.Quả vậy, ở giai đoạn đầu, truyền có tính hiện thực với dấu vết thời đại, với những tên tuổi rõràng, có ý nghĩa, với những tình tiết hợp tình, hợp lý, tự nhiên. Ở giai đoạn cuối, truyện trở nênhuyền hoặc: hai anh em họ Cao và vợ người anh vì không hiểu nhau nên đã tự chia lìa. Chỉ đếnkhi cả ba người cùng chết đi và chết bên nhau, người em hóa cây cau, người anh hóa phiến đávôi và vợ người anh hóa cây trầu không, họ mới có được sự cảm thông hoàn toàn; từ nay họ sẽmãi mãi gắn bó bên nhau và kết hợp thành một qua miếng trầu tình nghĩa. Ở đó, một dòngnước đỏ tươi như máu được tiết ra, tượng trưng cho tình gia đình muôn đời thiêng liêng, bềnchặt.Trần Thế Pháp, cũng như các tác giả đời Lê khác, khi viết lại sự tích Trầu Cau nói riêng, dàndựng lại những huyền thoại dân gian trong Lĩnh Nam Chích Quái nói chung, hiển nhiên đã cóhậu ý đề cao những giá trị cũ của dân tộc, với mục đích phổ biến để giáo dục con em theo tinhthần 24 điều dụ của vua Lê Thánh Tông (4). Có lẽ bắt đầu từ đấy (cuối thế kỷ XV) các truyệncổ tích, thần thoại nói chung, truyện Trầu Cau nói riêng mới được truyền bá rộng rãi trong toànquốc. Riêng trong sự tích Trầu Cau, ta thấy các tác giả muốn giải thích cho mọi người hiểurằng, dân tộc ta đã có một đời sống văn hóa khá cao ngay từ thuở xa xưa, từ thời Hùng Vươngkia (theo Đại Việt Sử Lược, vào khoảng thế kỷ thứ VII trước Tây lịch) (5). Ngay từ thuở đó xãhội Việt Nam đã có truyền thống lấy gia đình làm gốc, anh em biết thương quý nhau, trên kínhdưới nhường; vợ chồng lấy nhau vì tình vì nghĩa, và người đàn bà đã biết trọn niềm chung thủyson sắt với chồng... Không phải đợi đến khi người Trung Hoa sang đô hộ nước ta, giáo hóa ta,dântamớibiếtthếnàolàhiếuđễ,thếnàolàtiếtnghĩa.Và cũng vì sự tích Trầu Cau có ý nghĩa sâu sắc như thế nên tục ăn trầu của dân ta đã đượcthăng hoa, trở thành một mỹ tục mang tính chất đặc thù của một nền văn minh cổ Ðông NamÁ.Mỹ tục ăn trầu này đã gắn liền với những sinh hoạt văn hóa, từ đời sống vật chất hằng ngày đếnđờisốngtinhthầncủadântatrướckianhưthếnào?Để tìm hiểu, chúng ta tất phải dựa một phần lớn vào những tài liệu có từ ngàn xưa, đó chính làloại văn chương bình dân truyền khẩu của dân tộc: thành ngữ, tục ngữ, ca dao và dân ca vậy.1.TrầucaunơiquêhươngChúng ta đều biết, xưa kia trầu cau là hai loại cây được trồng khắp nơi trên quê hương đất nướcđể lấy lá, lấy trái dùng hằng ngày. Từ vua quan cho chí thứ dân, từ đàn ông cho chí đàn bà, ai aicũng thích nhai trầu; nhiều người còn nghiện là đằng khác, nhất là các bà già bình dân, nhaitrầubỏmbẻmsuốtngày,dođómớicókhẩungữ“bàgiàtrầu”.Đặc biệt cây cau chẳng những được dân gian quí hóa bảo nhau trồng ở sân trước nhà – chuốisau cau trước – mà ngay ở Hoàng thành, vào đời Minh Mạng (1820 – 1840), cây cau còn đượcchọn khắc trên đỉnh đồng, có tên Anh Đỉnh, đỉnh thứ tư trong cửu đỉnh, được đặt trước sân ThếMiếu.Với chúng ta, hình ảnh những hàng cau thẳng tắp, cao vút (nhiều khi cao hơn 10 mét), có lámọc thành chùm ở ngọn cây, thân lá xẻ hình lông chim, lung linh trong nắng sớm, đong đưatrước gió chiều hay in hình trên nền trời xanh thẳm vào những đêm trăng sáng; cùng hình ảnhnhững giàn trầu không xanh rờn với những chiếc lá to bằng bàn tay, có hình trái tim duyêndáng nơi góc vườn của nội, của ngoại... đều là những hình ảnh thân quen đã in sâu vào ký ứccủa nhiều người. Ngày nay chúng đã trở thành những hình ảnh biểu tượng cho quê hương trongnỗinhớ,niềmthươngcủabầyconxaxứ.Hoa cau thì mọc thành một chùm lớn, phân nhánh, có mo bọc ngoài. Khi hoa kết trái thì buồngcau nở lớn, mo cau khô, rụng xuống. Câu ca dao sau đây đã mô tả hình ảnh và giới thiệu thờigian cau đơm hoa kết trái một cách thật lý thú:-Đầu rồng đuôi phượng te teMùa đông ấp trứng, mùa hè nở con.Riêng loại cau liên phòng, còn gọi là cau tứ quí thì ra trái cả bốn mùa. Khi được mùa, mỗibuồng cau có đến trên trăm trái, hình bầu bầu và lớn bằng quả trứng gà.Trầu cau không chỉ được trồng để nhà dùng mà nhiều khi còn là nguồn sống của gia đình và lậpnên cửa nên nhà :-Anh về cuốc đất trồng cau,Cho em vun ké dây trầu một bên.Chừng nào trầu nọ bén lên,Cau kia sai trái lập nên cửa nhà.Chả thế, gia đình nào có cả vườn trồng cau sinh lợi đều được kể là một trong những nhà giầucó nơi thôn dã:- Nhà ngói, cây mít- Ruộng sâu, trâu náihayVườn cau, ao cá.Ở nước ta, từ Bắc chí Nam đều có nhiều vùng nổi tiếng trồng trầu cau và sản xuất được nhiềutrầu cau ngon, gửi bán đi các nơi hoặc để xuất cảng.Theo tài liệu của Đỗ Tất Lợi, trước đây (1930) diện tích trồng cau ở ngoài Bắc ước chừng2.500 hectare, chủ yếu là các vùng Hải Dương, Kiến An, Quảng Ninh, Nam Định và Thái Bình.Ca dao cũng có câu:Đồn rằng kẻ Trọng lắm cau,Kẻ Cát lắm luá, kẻ Mau lắm tiền.Ở miền Trung, diện tích trồng cau khoảng 1.400 hectare. Đặc biệt trầu Chợ Dinh với cau NamPhổ đã được ca dao vùng Huế – Thừa Thiên ca tụng hết lời:Trầu Chợ Dinh với cau Nam PhổNon vôi cũng đỏ, thiếu vỏ cũng ngon.Hạt thơm mà xác lại giòn,Được tiếng khen là phải, dậy tiếng đồn không sai.Chợ Dinh và Nam Phổ là hai đại xã nằm đối diện nhau ở hai bên bờ sông Hương, thuộc ngoạibiên thành phố Huế.Trong Nam, cau được trồng nhiều ở Mỹ Tho, Bến Tre, Cần Thơ, nhưng có tiếng hơn cả là trầucau Bà Điểm – Hóc Môn. Bà Điểm – Hóc Môn, một miệt vườn ngoại thành Sài Gòn , có biệtdanh là Mười Tám Thôn Vườn Trầu, chả vì cả mười tám thôn làng nơi đây dân chúng đều trồngtrầu làm nghề chính. Trầu trồng từ vườn nhà này tiếp nối vườn nhà kia, tạo thành một vùng trầuxanh tươi bát ngát.Hiện nay, một phần do chiến tranh tàn phá, một phần do giới trẻ bỏ hẳn tục ăn trầu nên diệntích trồng trọt tất đã giảm nhiều.2. Công dụng của trầu cauTrầu cau rất đa dụng, nhất là cau. Thân cau được dùng làm cột nhà, làm cầu, người ta bắc thànhcầu khỉ hay đóng thành bè thay cầu ván. Mo cau để lợp nhà, làm quạt, làm gầu tát nước, đôi khicòn để đựng đồ như gói tiền, gói vàng hay bọc thức ăn. Tàu cau thì làm chổi quét sân v.v...Trong Đông-y, ngành thuốc Nam, trầu cau được dùng làm thuốc chữa bệnh. Theo Đỗ Tất Lợi,lá trầu giã nhỏ ép lấy nước chữa viêm mủ chân răng hoặc hòa với nước để rửa các vết lở loét,mụn nhọt hay vết chàm của trẻ sơ sinh. Lá trầu giã nhỏ để nguyên chất đắp lên ngực chữa hohen, đắp lên vú cho sữa ngưng chảy.Còn cau thì vỏ cau chữa bụng đầy trướng, bí tiểu, ốm nghén, nôn mửa.Hạt cau khô giúp sự tiêu hóa, viêm ruột, sốt rét, sán lãi và bệnh chốc đầu trẻ em.Tất nhiên, công dụng chính của trầu cau là để ăn. Ăn trầu vừa chắc răng, bổ xương, lại vừangon miệng, say sưa vui chuyện; ngoài ra ăn trầu còn để làm đẹp.Một miếng trầu được gọi là khẩu trầu gồm có một lá trầu xanh hay xanh ngả vàng têm sẵn,trong để chút vôi; cộng với một miếng cau, ngoài là vỏ xanh đậm rồi đến cùi có sợi trắng ngà,phía trong, phần trên là thịt trắng phau, dưới là hạt nhờ nhờ lòng tôm; cộng thêm một lát vỏmỏng chuyển dần từ mầu nâu non đến phớt hồng (thường lấy từ rễ các cây chay, mít chay haycây đề ...). Nhìn mầu sắc đã thấy đẹp mắt, khi ăn vào còn có vị ngọt ngọt của cau, cay cay,thơm thơm của lá trầu (toàn thân cây trầu có tinh dầu thơm), chát chát của hạt và vỏ (có chấttanin), cùng cảm nhận được cơ thể đang nóng nóng vì vôi và đầu óc hơi choáng váng say vìtrong hạt cau có chất arécoline làm kích thích thần kinh hệ.Đã vậy, nếu còn được đệm thêm tí quế, tí hồi hay tí thuốc lào, thuốc lá thì miếng trầu ăn vàocàng tăng phần kích thích, làm thêm nóng bừng cơ thể, thêm dậy hồng đôi má và thêm longlanh cặp mắt. Sau nữa, nước cốt trầu có sắc màu đỏ tươi làm hồng thắm đôi môi. Người phụ nữxưa đã biết lợi dụng những ưu điểm này của miếng trầu, nên họ ăn trầu còn để làm đẹp.Làm đẹp cũng phải biết cách và phải có nghệ thuật nữa. Đời nào chả thế, người phụ nữ xưa “cótrầu chẳng để môi thâm” đã đành, mà còn biết cách ăn hai ba miếng trầu liên tiếp nhau, tạo chođược một cặp môi đỏ có đường viền như sợi chỉ, trông thật quyến rũ, được mệnh danh là “môiăn trầu cắn chỉ”. Khác nào ngày nay chị em bạn gái chúng ta, sau khi đã tô son trên đôi môi rồicòn lấy bút lông vẽ thêm một đường son đỏ đậm thật nhỏ quanh vành môi cho đôi môi thêmnổi.Sau hết, trầu cau được sử dụng làm phương tiện giao tiếp xã hội, biểu lộ tình cảm và được dùnglàm lễ vật trong những dịp cưới xin, tang ma, cúng tế gia tiên và thần linh.3. Tục Mời TrầuTục mời trầu ở xứ ta cho thấy, trầu cau là phương tiện không thể thiếu trước nhất trong nhữngnghi thức giao tế hằng ngày ngoài xã hội. Vì “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, là “đầu trò tiếpkhách”, nên chi vừa gặp nhau, sau mấy tiếng chào hỏi, người ta liền mở trầu mời ăn rồi mới nóigì thì nói, bàn gì thì bàn:Có trầu thì giở trầu raTrước là đãi bạn, sau ta với mình.Người ta còn mời trầu để bắt chuyện làm quen:Tiện đây ăn một miếng trầuHỏi rằng quê quán ở đâu chăng là?- Xưa kia ai biết ai đâu,Chỉ vì điếu thuốc, miếng trầu nên quen.Nhất là khi tới chỗ xa lạ, muốn được đón nhận vui vẻ, người khôn ngoan phải có cơi trầu đemra mời chào mọi người để gây thiện cảm. Nếu vì một lẽ gì mà thiếu sót thì họ sẽ vô cùng áynáy, băn khoăn:Nhẽ thì có khẩu trầu hoaHiềm vì chợ vắng, nhà xa thế nào.Nghĩ sao đây, hỡi anh hàoLấy gì tiếp đãi mà chào chị em?Lại nữa, người xưa thường cho rằng ăn trầu lúc nào là được hưởng chút hương vị cuộc đời lúcđó, kẻo thời gian vùn vụt trôi qua, già lúc nào không biết.Lại đây ăn một miếng trầuNữa mai tuyến nhuộm mái đầu huê râm.Trong phạm vi tình yêu và hôn nhân, tục mời trầu đã được người bình dân khai thác triệt để. Vìtrầu cau còn là lễ vật cưới xin nên những hình ảnh, màu sắc, hương vị của trầu, cau, vôi... luônluôn gợi ý cho thanh niên nam nữ liên tưởng tới những chuyện tình yêu, chuyện duyên phậnlứa đôi:Vào vườn hái quả cau non,Anh thấy em giòn muốn kết nhân duyên.Phấn trắng hơn vôi, vôi nồng phấn lạt,Bởi anh thương nàng, mới lạc tới đây- Vôi nồng, trầu thắm ai ơi,Gá duyên chồng vợ ở đời trăm năm.- Trầu xanh, cau trắng, chay hồngVôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên.Thế nên việc mời trầu người khác phái nhiều khi phải hiểu là một cách tỏ tình gián tiếp, vàđồng thời cũng để ướm thử xem tình cảm của người ấy đối với mình ra sao.Thường thì người con trai chủ động, mời trầu trước:Gặp nhau ăn một miếng trầuGọi là chút nghĩa về sau mà chào.và họ đã không quên lợi dụng lúc mời trầu để tán tỉnh các nàng:Trầu ăn là nghĩa, thuốc xỉa là tình,Đội ơn cha mẹ sinh mình dễ thương.- Trầu lên nửa nọc trầu vàngKhéo khen phụ mẫu sinh nàng dễ thương.Nếu người con gái dứt khoát từ chối không nhận trầu thì dù sự từ chối ấy lịch sự, tế nhị đến đâucũng phải hiểu đó là sự từ chối tình yêu:Thưa rằng bác mẹ tôi rănLàm thân con gái chớ ăn trầu người.Còn như người con gái chỉ tỏ ý ngần ngại, vì muốn tìm hiểu thêm tình ý của đối phương:Miếng trầu ăn nặng bằng chì,Ăn rồi em biết lấy gì trả ơn ?Thì người con trai trong trường hợp này phải trấn an liền, và thổ lộ rõ tình ý đứng đắn, xâydựng của mình:Miếng trầu ăn nặng là bao,Muốn cho đông liễu, tây đào là hơn.- Miếng trầu là nghĩa tương giao,Muốn cho đây đấy duyên vào hợp duyên.Một khi thấy ý hợp, lòng ưa rồi người con gái mới nhận trầu. Hành động này hàm ý “chấpthuận”, thật là một cách bầy tỏ tình cảm vừa kín đáo, tế nhị, vừa duyên dáng dễ thương.Từ ngày nhận ăn miếng trầu kết nghĩa tương giao, gắn bó trở về, tình yêu của người con gái lớndậy, làm thăng hoa cuộc sống. Nàng trở nên xinh tươi, đằm thắm:Từ ngày ăn miếng trầu anh,Cho nên má đỏ, tóc xanh đến giờ.Và thường để tâm hồn lãng mạn bay xa, mơ tưởng về một ngày mai được sống trong hạnh phúclứa đôi với chàng, được cùng chàng thân mật dùng chung một hộp trầu, một ống vôi:Ước gì chung mẹ chung thầyĐể em giữ cái quạt này làm thân.Rồi ra chung gối chung chăn,Chung quần, chung áo, chung khăn đội đầu.Nằm thì chung cái giường tàu,Dậy thì chung cả hộp trầu, ống vôi.Trở về hiện tại, giây phút sung sướng nhất hiển nhiên là giây phút nàng được thưởng thứcnhững miếng trầu tình ái do chàng trao tặng:Trầu này đủ vỏ, đủ vôiĐủ cau, đủ thuốc, đủ mùi xạ hương.Không ăn thì bảo rằng thườngĂn rồi thì biết người thương thế nào.Nhất là những miếng trầu ấy lại được chàng quí hóa, trân trọng bọc trong chiếc khăn tay trắng,dành riêng cho nàng:Trầu bọc khăn trắng cau tươi,Trầu bọc khăn trắng đãi người xinh xinh.Ăn cho nó thỏa tâm tình,Ăn cho nó thỏa sự mình sự ta.Phần nàng, nàng cũng không quên sửa soạn sẵn những miếng trầu thật đặc biệt:Khẩu trầu chính là khẩu trầuỞ giữa đệm quế, hai đầu thơm cay.Có ăn mới biết đến câyCó ăn mới biết trầu cay, trầu nồng.rồi buộc trầu trong dải yếm đào để đem tới tặng lại chàng với tất cả tấm lòng trìu mến:Trầu em buộc dải yếm đàoHỏi người tri kỷ ăn vào có say?Những kẻ đang yêu ăn trầu dễ say lắm. Nhiều khi họ tự hỏi họ say vì trầu hay say vì tình, vì mêbóng sắc của nhau?Tay ai như ngọc, như ngàĐưa trầu ta tưởng đưa ta miếng vàng.Anh say nhan sắc của nàngHay say vì miếng trầu vàng, cau tươi?Tất nhiên cả hai rồi. Họ say vì trầu, vì trong hạt cau có chất arécoline làm kích thích thần kinh,đồng thời họ còn say vì tình ; nhưng say vì tình mới là chính, chả thế ca dao còn có câu:Yêu nhau trầu vỏ cũng sayGhét nhau cau đậu (6) đầy khay chẳng màng.vàGặp nhau ăn một khẩu trầuKhông mặn vì thuốc, say nhau vì lời.Như thế đủ thấy, những kẻ đang yêu được ngồi ăn trầu bên nhau thì dù trầu có thiếu vị họ vẫnsay như thường, vì họ say tình nhau, say bóng sắc của nhau, say lời yêu đương của nhau chứnào có xá gì trầu!Tình yêu khi đã đến lúc đắm say tất xa nhau sẽ nhớ nhung, tương tư sầu khổ:Một thương hai nhớ ba sầu,Cơm ăn chẳng được, ăn trầu cầm hơi.Thương chàng lắm lắm chàng ơi,Biết đâu thanh vắng mà ngồi thở than?Nàng thở than những gì đây?Từ ngày ăn phải miếng trầu,Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu.Biết là thuốc dấu hay bùa yêuLàm cho thiếp phải nhiều điều xót xa.Làm cho quên mẹ, quên chaLàm cho quên cử, quên nhàLàm cho quên cả đường ra, lối vàoLàm cho quên cá dưới aoQuên sông tắm mát, quên sao trên trời.Trong vấn đề tình yêu và hôn nhân, không phải bao giờ người con gái cũng ở thế thụ động, nhưca dao đã chứng tỏ, có nhiều trường hợp nếu người con gái bạo dạn một chút, lanh lợi mộtchút, và cũng phải biết tế nhị nữa thì có thể lợi dụng tục mời trầu để tự kén chọn cho mình mộtngười bạn tình trăm năm. Thật thế, như khi đã gặp được người vừa ý rồi mà đối phương lại quánhút nhát như anh chàng này chẳng hạn:Thương em chẳng dám trao trầuĐể trên bó mạ, gió nam lầu thổi qua.Nếu người con gái cũng lại chấp nê, thụ động thì cuộc tình này đành để cho gió bay đi. Trái lại,nếu người con gái khôn ngoan, biết mở lời bóng gió đưa duyên thì có thể khích lệ đối phươngtiến tới:Có trầu mà chả có cauLàm sao cho đỏ môi nhau thì làm.Đúng ra phải nói là:Có trầu mà chả có vôiLàm sao cho đỏ môi tôi thì làm.Chả vì theo lời giải thích của Thúc Nguyên, “vôi phản ứng trên những polyphénols thuộc nhómflavone của lá trầu và miếng cau bằng cách ô-xít hóa chúng và biến chúng thànhorthoquinones. Sự việc này làm cho nước bọt người nhai trầu trở thành đỏ”. Như thế, có trầu đãđành, còn phải ăn thêm với vôi mới làm đỏ được môi. Cũng như trong tình yêu, một người đãlên tiếng, kẻ kia phải đáp lời ; tình yêu song phương mới thực sự tạo được hạnh phúc lứa đôi.Lại những khi chưa biết rõ đối phương đối với mình ra sao, người thiếu nữ cũng đã biết mượnmiếng trầu để dò ý, ướm tình :Trầu đã có đây, cau đã có đâyNhân duyên chưa định, trầu này ai ăn?Trầu này trầu túi, trầu khăn,Trầu này dải yếm, anh ăn trầu nào?Nếu người con trai nhận ăn “trầu dải yếm” là những miếng trầu thiết thân của nàng thì nànghiểu ngay là đối phương đã thầm xác nhận có yêu nàng, và những mong cùng nàng kết mốilương duyên; bằng không chỉ là bạn thường, vì bạn thường thì chỉ được phép ăn “trầu khăn”,“trầu túi” của nàng mà thôi.Lại những khi người con gái đã lỡ yêu rồi thì nàng cũng dám tấn công trước qua miếng trầu tỏtình:Vào vườn hái quả cau xanhBổ ra làm sáu mời anh xơi trầu.Trầu này têm những vôi tàu (7)Giữa đệm cát cánh, hai đầu quế cay.Trầu này ăn thật là sayDù mặn, dù nhạt, dù cay, dù nồngDù chẳng nên vợ nên chồngXơi dăm ba miếng, kẻo lòng nhớ thương.Miếng trầu đối với nàng lúc này không chỉ là một vật chất đơn thuần mà là một biểu tượng củatình yêu, nói khác đi, nó chính là tình yêu của nàng đã hóa thân:Trầu này trầu quế, trầu hồiTrầu loan, trầu phượng, trầu tôi, trầu mình.Trầu này trầu tính, trầu tìnhTrầu nhân, trầu nghĩa, trầu mình, trầu ta.Trầu này têm tối hôm quaDấu cha dấu mẹ, đem ra mời chàng.Nhưng không phải hễ người con gái mời trầu là bao giờ cũng được bọn nam nhi đón nhận sốtsắng cả đâu. Nhiều chàng trai có tính đa nghi lắm, lại luôn luôn được phụ mẫu nhắc nhở, căndặn: “Ra đường thấy con gái mời trầu thì chớ có ăn, nó bỏ bùa yêu, thuốc dấu cho là khốn, rồiđến bỏ cả học hành thôi”. Thế nên nhiều chàng đã tỏ ra rất dè dặt trước những miếng trầu mờimọc của các nàng, bởi vậy mới có cái cảnh mời trầu nài nỉ:Trầu này không phải trầu hàngKhông bùa, không thuốc sao chàng không ăn?Hay là chê khó, chê khănXin chàng dừng lại làm ăn miếng trầu.Rất may việc này xẩy ra cũng hi hữu thôi, vì các cụ ta khi xưa đã dạy cho người thiếu nữ biếtcách từ chối nhận trầu thì cũng lại dạy cho người thanh niên phải biết nhận trầu, có thế mới racon người lịch sự :Tiện đây đưa một miếng trầuKhông ăn, cầm lấy cho nhau bằng lòng.