Giá trị của àng hóa là lao đọng năm 2024

Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa? sự

khác nhau giữa tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao

động?

-Lượng giá trị hàng hoá là một đại lượng được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất

ra hàng hóa đó, lượng lao động tiêu hao đó được tính bằng thời gian lao động, cụ thể là thời

gian lao động xã hội cần thiết. Lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã

hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa, mới quyết định đại lượng giá trị của hàng hóa.

Những yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hoá:

a)Năng suất lao động

-Là năng lượng sản xuất lao động, được đo bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một

thời gian hoặc số thời gian trên 1 sản phẩm.

-Có 2 loại năng suất lao động: NSLĐ cá biệt và NSLĐ xã hội. Chỉ có năng suất lao động xã

hội mới ảnh hưởng đến lượng giá trị.

–>Ảnh hưởng: Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết để

sản xuất ra hàng hoá càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít. Ngược lại

năng suất lao động xã hội càng giảm, thì thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra

hàng hoá càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị

hàng hoá tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động

xã hội.

b)Cường độ lao động

-Là mức độ hao phí sức lao động trong một đơn vị thời gian.

–>Ảnh hưởng: Cường độ lao động tăng lên thì số lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên

nhưng sức lao động hao phí cũng tăng lên, vậy lượng giá trị hàng hóa vẫn không đổi.

Nhưng khi tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động giống nhau thì làm cho

lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên, mà đổi lại làm cho giá trị

của một đơn vị hàng hóa giảm xuống.

c)Mức độ phức tạp của lao động

-Theo MĐPT của lao động thì có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động

phức tạp.

-Lao động giản đơn là lao động mà kể cả người chưa được đào tạo cũng có thể thực hiện

được.

-Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động

chuyên môn lành nghề nhất định mới có thể tiến hành được.

–>Ảnh hưởng: Trong cùng một đơn vị thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn

so với lao động giản đơn. Cả lao động giản đơn và lao động phức tạp tỷ lệ thuận với tổng

lượng giá trị hàng hoá.

Sự khác nhau giữa tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động:

Tăng năng suất lao động Tăng cường độ lao động

-Giảm hao phí sức lao động để sản xuất ra

một sản phẩm và làm giảm giá trị sản

-Hao phí lao động sản xuất ra một sản

phẩm nhưng không thay đổi và không ảnh

Lao động cụ thể và lao động trừu tượng là các thuật ngữ trong kinh tế chính trị Marx-Lenin dùng để chỉ về tính chất hai mặt của lao động sản xuất đó là vừa mang tính chất cụ thể (lao động cụ thể), lại vừa mang tính chất trừu tượng (lao động trừu tượng). Marx là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó.

Lao động cụ thể[sửa | sửa mã nguồn]

Khái niệm[sửa | sửa mã nguồn]

Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau.

Trong xã hội có nhiều loại hàng hóa với những giá trị sử dụng khác nhau là do có nhiều loại lao động cụ thể khác nhau. Nếu phân công lao động xã hội càng phát triển thì càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của xã hội.

Ví dụ[sửa | sửa mã nguồn]

Lao động của người thợ may và lao động của người thợ mộc là hai loại lao động cụ thể khác nhau. Lao động của người thợ may có mục đích là làm ra quần áo chứ không phải là bàn ghế, còn phương pháp là may chứ không phải là bào, cưa, có công cụ lao động là kim, chỉ, máy may chứ không phải là cái cưa, cái bào... và lao động của người thợ may thì tạo ra quần áo để mặc, còn lao động của người thợ mộc thì tạo ra ghế để ngồi... và tương tự như thế là thợ hồ và thợ máy. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.

Đặc điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Các loại lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội ngày càng chi tiết; lao động cụ thể khác nhau tạo ra giá trị sử dung khác nhau; lao động cụ thể khác nhau về chất; là một phạm trù vĩnh viễn, bởi bất kỳ một giá trị sử dung nào nếu không phải do thiên nhiên trực tiếp ban cho thì đều do lao động cụ thể tạo ra.

Lao động trừu tượng[sửa | sửa mã nguồn]

Khái niệm[sửa | sửa mã nguồn]

Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó chính là sự tiêu hao sức lao động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hóa nói chung.

Đặc điểm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Lao động trừu tượng giống nhau về chất, bởi thuần tuý là hao phí sức lực của con người.
  • Chính lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa mới tạo ra giá trị của hàng hóa. Như vậy, có thể nói, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.
  • Lao động trừu tượng mang phạm trù lịch sử của sản xuất hàng hóa.

Tính chất hai mặt[sửa | sửa mã nguồn]

Tính thống nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Lao động cụ thể và lao động trừu tượng là hai mặt của cùng một lao động của người sản xuất hàng hoá. Một mặt là lao động cụ thể và mặt khác là lao động trừu tượng.

Tính mâu thuẫn[sửa | sửa mã nguồn]

Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ảnh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động của người sản xuất hàng hóa. Mỗi người sản xuất hàng hoá sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào là việc riêng của bọn họ. Vì vậy, lao động đó mang tính chất tư nhân, và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân.

Đồng thời, lao động của người sản xuất hàng hóa là lao động xã hội vì nó là một bộ phận của toàn bộ lao động xã hội trong hệ thống phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hóa. Họ làm việc cho nhau, thông qua trao đổi hàng hóa. Việc trao đổi hàng hóa không thể căn cứ vào lao động cụ thể mà phải quy lao động cụ thể về lao động chung đồng nhất - lao động trừu tượng. Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.

Giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau. Mâu thuẫn đó được biểu hiện cụ thể trong hai trường hợp:

  • Sản phẩm do những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra có thể không ăn khớp với nhu cầu của xã hội (hoặc không đủ cung cấp cho xã hội hoặc vượt quá nhu cầu của xã hội...). Khi sản xuất vượt quá nhu cầu của xã hội, sẽ có một số hàng hóa không bán được, tức không thực hiện được giá trị.
  • Mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa cao hơn so với mức tiêu hao mà xã hội có thể chấp nhận, khi đó hàng hóa cũng không bán được hoặc bán được nhưng không thu hồi đủ chi phí lao động bỏ ra.

Theo Chủ nghĩa Mác-Lênin thì Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hoá. Chính vì những mâu thuẫn đó mà sản xuất hàng hoá vừa vận động phát triển, vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng.

Giá trị sử dụng của hàng hóa là do lao động gì tạo ra?

Chính lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa mới tạo ra giá trị của hàng hóa. Như vậy, có thể nói, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa. Lao động trừu tượng mang phạm trù lịch sử của sản xuất hàng hóa.

8 giá trị của hàng hóa là gì?

- Giá trị của hàng hoá là giá trị lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hoá đó và tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. - Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động xã hội trung bình để sản xuất ra hàng hoá.

Giá trị của hàng hóa là gì cho ví dụ?

Giá trị hàng hóa là sự kết tinh của lao động hao phí của người sản xuất vào bên trong hàng hóa. Đây được xem là một thuộc tính quan trọng của hàng hóa. Giá trị hàng hóa được thực hiện khi hai hàng hóa được trao đổi với nhau. Để hiểu hơn về giá trị hàng hóa, ta có một ví dụ sau: 1 mét vải = 5kg gạo.

Giá trị sử dụng sức lao động là gì?

Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động liên quan đến khả năng của người lao động trong việc tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ có giá trị và ý nghĩa cho xã hội. Điều này bao gồm cả khả năng sáng tạo, chất lượng sản phẩm, và khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường.