Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản là gì

Nền kinh tế phát triển là gì? GDP và tiêu chí nền kinh tế phát triển?

Phát triển Kinh tế là các chương trình, chính sách hoặc hoạt động nhằm cải thiện phúc lợi kinh tế và chất lượng cuộc sống cho cộng đồng. “Phát triển kinh tế” có ý nghĩa như thế nào đối với bạn sẽ phụ thuộc vào cộng đồng bạn đang sống. Mỗi cộng đồng có những cơ hội, thách thức và ưu tiên riêng. Kế hoạch phát triển kinh tế của bạn phải bao gồm những người sống và làm việc trong cộng đồng.

Phát triển kinh tế, quá trình chuyển đổi các nền kinh tế quốc dân giản đơn, có thu nhập thấp thành nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Mặc dù thuật ngữ này đôi khi được sử dụng như một từ đồng nghĩa với tăng trưởng kinh tế, nói chung nó được sử dụng để mô tả sự thay đổi trong nền kinh tế của một quốc gia liên quan đến những cải tiến về chất cũng như định lượng. Lý thuyết về phát triển kinh tế – làm thế nào các nền kinh tế sơ khai và nghèo nàn có thể phát triển thành các nền kinh tế phức tạp và tương đối thịnh vượng – có tầm quan trọng thiết yếu đối với các nước kém phát triển, và các vấn đề phát triển kinh tế thường được thảo luận trong bối cảnh này.

Dịch vụ Luật sư tư vấn pháp luật qua điện thoại: 1900.6568

1. Nền kinh tế phát triển là gì?

Phát triển kinh tế lần đầu tiên trở thành mối quan tâm lớn sau Thế chiến thứ hai. Khi kỷ nguyên của chủ nghĩa thực dân châu Âu kết thúc, nhiều thuộc địa cũ và các nước khác có mức sống thấp bị gọi là các nước kém phát triển, để đối chiếu nền kinh tế của họ với các nước phát triển, được hiểu là Canada, Hoa Kỳ, các nước phương Tây. Châu Âu, hầu hết các nước Đông Âu, sau đó là Liên Xô, Nhật Bản, Nam Phi, Úc và New Zealand. Khi mức sống ở hầu hết các nước nghèo bắt đầu tăng lên trong những thập kỷ sau đó, chúng được đổi tên thành các nước đang phát triển.

Trong tiếng anh nền kinh tế phát triển được biết đến với tên gọi đó chính là Developed Economy.

Nền kinh tế phát triển là đặc điểm điển hình của một nước phát triển với mức độ tăng trưởng kinh tế và an ninh tương đối cao. Các tiêu chí tiêu chuẩn để đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia là thu nhập bình quân đầu người hoặc tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người, mức độ công nghiệp hóa, mức sống chung và số lượng cơ sở hạ tầng công nghệ.

Nền kinh tế phát triển là một khu vực, điển hình là một quốc gia, có mức độ giàu có và các nguồn lực sẵn có cho người dân hoặc công dân của nó. Một nền kinh tế phát triển là một khu vực, điển hình là một quốc gia, có rất nhiều của cải và tài nguyên có sẵn cho cư dân hoặc công dân của nó.Các nền kinh tế phát triển có xu hướng thể hiện kết quả tốt hơn trên các chỉ số đo lường, đây là cách để đo lường các yếu tố kinh tế và phi kinh tế của một quốc gia.Bốn khía cạnh của một nền kinh tế phát triển tốt hơn là một nền kinh tế hiệu quả, một chính thể đáp ứng, một xã hội bình đẳng và một nền hành chính có năng lực.

Các yếu tố phi kinh tế, chẳng hạn như chỉ số phát triển con người (HDI), chỉ số đánh giá trình độ học vấn, khả năng đọc viết và sức khỏe của một quốc gia thành một con số duy nhất, cũng có thể được sử dụng để đánh giá một nền kinh tế hoặc mức độ phát triển.

Các quốc gia có mức tăng trưởng kinh tế và an ninh tương đối cao được coi là có nền kinh tế phát triển. Các tiêu chí chung để đánh giá bao gồm thu nhập bình quân đầu người hoặc tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người. Nếu tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người cao nhưng một nước có cơ sở hạ tầng kém và bất bình đẳng về thu nhập thì nước đó sẽ không được coi là nền kinh tế phát triển. Các yếu tố phi kinh tế, chẳng hạn như chỉ số phát triển con người, cũng có thể được sử dụng làm tiêu chí. Các nền kinh tế đang phát triển thường được toàn cầu hóa giúp đạt được mức thu nhập được cải thiện và mức sống tăng lên.

Các thuật ngữ như “các nước mới nổi”, “các nước kém phát triển” và “các nước đang phát triển” thường được sử dụng để chỉ các nước không được hưởng cùng mức độ an ninh kinh tế, công nghiệp hóa và tăng trưởng như các nước phát triển. Thuật ngữ “quốc gia thuộc thế giới thứ ba” để mô tả một nhà nước ngày nay được coi là cổ hủ và xúc phạm. Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển lưu ý rằng các quốc gia kém phát triển nhất thế giới “bị coi là rất thiệt thòi trong quá trình phát triển của họ — nhiều quốc gia trong số đó vì lý do địa lý — và (đối mặt) nhiều hơn các quốc gia khác về nguy cơ không thoát khỏi đói nghèo . ” Những người ủng hộ toàn cầu hóa thường khẳng định rằng toàn cầu hóa đang giúp đưa các nền kinh tế đang phát triển thoát khỏi đói nghèo và tiến tới con đường nâng cao mức sống, lương cao hơn và sử dụng công nghệ hiện đại. Những lợi ích này chủ yếu đã được chứng kiến ​​ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Mặc dù toàn cầu hóa chưa bắt rễ ở tất cả các nền kinh tế đang phát triển, nhưng nó đã cho thấy sự cải thiện các nền kinh tế ở những nền kinh tế mà nó có. Nói như vậy, toàn cầu hóa đi kèm với những hạn chế cũng như cần phải được đánh giá khi đầu tư nước ngoài chảy vào một nền kinh tế đang phát triển.

Xem thêm: Chế độ công hữu là gì? Vấn đề công hữu trong nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa?

2. GDP và tiêu chí nền kinh tế phát triển:

Chỉ số phổ biến nhất được sử dụng để xác định xem một nền kinh tế đang phát triển hay đang phát triển là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người, mặc dù không có mức nghiêm ngặt nào tồn tại đối với một nền kinh tế được coi là đang phát triển hay đang phát triển. Một số nhà kinh tế coi GDP bình quân đầu người từ 12.000 đến 15.000 đô la là đủ cho tình trạng phát triển trong khi những người khác không coi một quốc gia là phát triển trừ khi GDP bình quân đầu người của quốc gia đó trên 25.000 đô la hoặc 30.000 đô la. GDP bình quân đầu người của Hoa Kỳ năm 2019 là 65.111 đô la.

Đối với các quốc gia khó phân loại, các nhà kinh tế chuyển sang các yếu tố khác để xác định tình trạng phát triển. Các biện pháp tiêu chuẩn sống, chẳng hạn như tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và tuổi thọ, rất hữu ích mặc dù cũng không có ranh giới nhất định cho các biện pháp này. Tuy nhiên, hầu hết các nền kinh tế phát triển có ít hơn 10 trẻ sơ sinh tử vong trên 1.000 trẻ sinh sống và công dân của họ sống trung bình từ 75 tuổi trở lên. Chỉ riêng GDP bình quân đầu người cao không tạo nên nền kinh tế phát triển nếu không có các yếu tố khác.

Ví dụ, Liên hợp quốc vẫn coi Qatar, một trong những quốc gia có GDP bình quân đầu người cao nhất thế giới năm 2019 ở mức 69.688 USD, là một nền kinh tế đang phát triển vì quốc gia này có sự bất bình đẳng về thu nhập, thiếu cơ sở hạ tầng và cơ hội giáo dục hạn chế cho những công dân không giàu có. Ví dụ về các quốc gia có nền kinh tế phát triển bao gồm Hoa Kỳ, Canada và phần lớn Tây Âu, bao gồm cả Vương quốc Anh và Pháp.

Để định lượng mức độ phát triển của nền kinh tế, các nhà kinh tế đã xây dựng các chỉ số đo lường các yếu tố nói trên. Một số chỉ số thường được sử dụng để đo lường các yếu tố kinh tế:

– Tổng sản phẩm trong nước (GDP)

– GDP bình quân đầu người

– Tổng thu nhập quốc dân (GNI)

– Thu nhập bình quân đầu người

Xem thêm: Cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế thị trường

Về mặt logic, các nền kinh tế phát triển có xu hướng đạt điểm cao hơn trong các phép đo trên.

Vì các yếu tố phi kinh tế cũng góp phần vào việc đánh giá một nền kinh tế phát triển, các nhà nghiên cứu sử dụng proxy của các phép đo. Hai chỉ mục thường được sử dụng là:

– Chỉ số Phát triển Con người (HDI)

– Chỉ số Hạnh phúc Thế giới

Chỉ số Phát triển Con người chỉ định các quốc gia có điểm từ 0 đến 1 bằng cách sử dụng các thước đo như “cuộc sống lâu dài và khỏe mạnh”, “giáo dục” và “mức sống”, trong khi Chỉ số Hạnh phúc Thế giới đo lường mức độ hạnh phúc thông qua khảo sát “mức độ hạnh phúc . ” Mặc dù các phép đo không liên quan trực tiếp đến phát triển kinh tế, các nền kinh tế phát triển vẫn có xu hướng ghi điểm cao hơn. Hơn nữa, những mối tương quan này làm nổi bật các mối quan hệ quan trọng giữa các yếu tố phi kinh tế và các nền kinh tế năng suất hơn. Nghĩa là, cải thiện tốt hơn các yếu tố phi kinh tế của một quốc gia – chẳng hạn như giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho công dân – là điều cần thiết để phát triển kinh tế tốt hơn.

HDI xem xét ba mức tiêu chí sống – tỷ lệ biết chữ, tiếp cận giáo dục và tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe – và lượng hóa dữ liệu này thành một con số chuẩn hóa từ 0 đến 1. Hầu hết các nước phát triển đều có chỉ số HDI trên 0,8. Liên hợp quốc, trong bảng xếp hạng HDI hàng năm của mình, báo cáo rằng vào năm 2019, Na Uy có HDI cao nhất thế giới ở mức 0,954. Hoa Kỳ đứng thứ 15 với 0,920. 10 quốc gia đứng đầu trong chỉ số HDI là Na Uy, Thụy Sĩ, Ireland, Đức, Hồng Kông (Trung Quốc), Australia, Iceland, Thụy Điển, Singapore và Hà Lan. Niger có điểm chỉ số phát triển con người thấp nhất với 0,377 trên 189 quốc gia.

Hệ thống chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển là gì? Đặc điểm của hệ thống chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển? Phân loại hệ thống chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển?

Hệ thống kế hoạch phát triển là một công cụ quản lý của nhà nước để điều tiết nền kinh tế. Do đó, bất cứ khi nào còn nhà nước thì nhà nước còn sử dụng công cụ quản lý này. Khi tiến hành lập kế hoạch phát triển, việc xác định nội dung luôn là yếu tố trọng tâm để quyết định đến tính hiệu quả, trong đó, phản ánh rõ nhất trong kế hoạch phát triển là hệ thống chỉ tiêu, được biểu hiện bởi các con số.

Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

1. Hệ thống chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển là gì?

Kế hoạch phát triển là một công cụ quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc dân, nó là sự cụ thể hoá các mục tiêu định hướng của chiến lược phát triển kinh tế xã hội theo từng thời kỳ bằng hệ thống các mục tiêu chỉ tiêu và chỉ tiêu biện pháp định hướng và hệ thống các chính sách, cơ chế áp dụng trong thời kỳ kế hoạch.

Chỉ tiêu kế hoạch là những nhiệm vụ cụ thể được xây dựng thành con số cần đạt được trong kỳ kế hoạch Đó là các mục tiêu được biểu hiện bằng con số, có xác định thời gian và không gian cụ thể. Các chi tiêu phản ánh phần định lượng của bản kế hoạch và là đích phấn đấu của mỗi giai đoạn trong quá trình phát triển.

Chỉ tiêu kế hoạch là một hình thức biểu hiện cụ thể nhiệm vụ kế hoạch. Mỗi chi tiêu kế hoạch bao gồm hai bộ phận là tên chi tiêu và trị số chỉ tiêu Chi tiêu kế hoạch được phân thành chi tiêu bắt buộc, chi tiêu định hướng và chỉ tiêu khống chế. Chi tiêu có thể được phản ánh bằng 2 cách: cách thứ nhất là thể hiện sự thay đổi so với kỳ SO gốc hoặc kỳ báo cáo (ví dụ, tăng gấp đổi so với năm X) hoặc giá trị tuyệt đối cần đạt được tại một thời điểm nào đó trong kỳ kế hoạch. Con số định lượng có thể được biểu đạt bằng số tuyệt đối hoặc tỷ lệ.

Như vậy, có thể nói chỉ tiêu luôn luôn gắn liền với một con số nhất định hay xác định và một khung thời gian nhất định. Con số này được nhà kế hoạch xác định ngay từ khi lập kế hoạch, dựa trên kết quả phân tích thực trạng, dự báo tương lai và cân nhắc hợp lý các yếu tố tác động đến việc thực hiện kế hoạch. để có thể quản lý theo kết quả thì số lượng chi tiêu không nên quá nhiều, và cần chú trọng hơn đến các chi tiêu ở cấp mục tiêu trung gian/mục tiêu cụ thể (nhất là đối với các kế hoạch ở cấp cao). Việc xác định quá nhiều chi tiêu, mà chủ yếu là các chỉ tiêu hiện vật ở cấp đầu ra và hoạt động, như hiện nay là không phù hợp với nguyên lý lập kế hoạch theo kết quả.

Hệ thống chỉ tiêu là nội dung bắt buộc trong kế hoạch phát triển, được hiểu là thước đo cụ thể nhiệm vụ cần đạt được trong thời kỳ kế hoạch. Các thước đo này thể hiện cả về số lượng và chất lượng. Nó cho phép xác định nội dung cơ bản của quá trình phát triển kinh tế, các bộ phận cấu thành cụ thể của nó và được Nhà nước sử dụng dể thực hiện quá trình điều tiết nền kinh tế.

2. Đặc điểm của hệ thống chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển:

Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch là một tập hợp các chi tiêu kế hoạch biểu hiện những mục tiêu cụ thế trong kế hoạch phát triển của các ngành, các cấp. Là một tập hợp các chỉ tiêu kế hoạch biểu hiện những mục tiêu cụ thể trong kế hoạch phát triển của các ngành, các cấp, các tổ chức kinh tế – xã hội và của toàn nền kinh tế quốc dân được chia thành: chi tiêu pháp lệnh và chỉ tiêu hướng dẫn; chi tiêu số lượng và chi tiếu chất lượng; chi tiêu hiện vật và chi tiêu giá trị.

Mỗi loại chỉ tiêu thể hiện yêu cầu có tính chi đạo về từng mặt trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Các loại chi tiêu có quan hệ với nhau trong hệ thống, trên cơ sở đó bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ôn định, đúng hướng theo một cơ cầu hợp lí, cân đối và một tốc độ tối ưu. Cùng với quá trình đổi mới công tác kế hoạch hoá, kế hoạch chủ yếu là dài hạn và mang tính hướng dấn, cho nên hệ thống chỉ tiêu kế hoạch cũng thu hẹp lại, còn rất ít chi tiêu pháp lệnh để bảo đảm các cân đối cơ bản của nền kinh tế quốc dân, nhằm tạo điều kiện cho xí nghiệp phát huy mạnh tinh thần chủ động, linh hoạt thực hiện quyền tự chủ kinh doanh kết hợp kế hoạch hoá với cơ chế thị trường.

Hệ thống chi tiêu trong kế hoạch phát triển được hiểu là thước đo cụ thể nhiệm vụ cần đạt được của thời kỳ kế hoạch Các thước đo này thể hiện cả về số lượng và chất lượng. Nó cho phép xác định nội dung cơ bản của quá trình phát triển kinh tế – xã hội, các bộ phận cấu thành cụ thể của nó và được nhà nước sử dụng để thực hiện quá trình điều tiết nền kinh tế.

Xem thêm: Tổ chức thực hiện kế hoạch là gì? Tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội.

Việc xây dựng hệ thống các chi tiêu phát triển kinh tế – xã hội một cách toàn diện, có độ tin cậy cao, mang tính khả thi và được cập nhật thường xuyên có ý nghĩa rất quan trọng trong tất cả các kế hoạch của nền kinh tế quốc dân.

Cấu trúc và yêu cầu đối với chỉ tiêu kế hoạch tốt:

– Về cấu trúc: nhìn chung một chi tiêu phải bao gồm it nhất 5 nội dung cơ bản: tên chi tiêu, con số định lượng, không gian phản ánh, đối tượng phản ánh, thời gian đo lường. Trong một bối cảnh cụ thế, ba nội dung sau trong cấu Sin trúc chỉ tiêu có thể đều được mọi người hiểu thống nhất thì không nhất thiết phải nêu ra, nhưng hai nội dung đầu nhất định phải có.

– Trong quá trình xây dựng các chi tiêu phát triển, một yêu cầu mang tính nguyên tắc là các chi tiêu phải đảm bào yêu cầu SMART:

+ S- specific: cụ thể: liệu chi tiêu đó có đo được cái cần phải đạt hay không?

+ M – measurable: đo đêm được: chi tiêu có xác định chính xác và đo đưoc về lượng và chất.

+ A- achievable: có thể đạt được: chi tiêu có phù hợp với nhu cấu, năng lực và trình đo của địa phương?

+ R- realistic: thực tiễn: chi tiêu xây dựng có phù hợp với khả năng và nguồn lực sẵn có của địa phương hay không?

Xem thêm: Chỉ tiêu thống kê là gì? Đặc điểm và phân loại chỉ tiêu thống kê?

+ T- Timebound: có thời cụ thể, chỉ tiêu có liên quan đến một giai đoạn cụ thể hay không?

3. Phân loại hệ thống chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển:

Có nhiều cách phân loại hệ thống chỉ tiêu kế hoạch:

– Theo góc độ nội dung kế hoạch hóa, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch được phân thành:

Các chỉ tiêu kinh tế. Hệ thống này bao gồm các mục tiêu về kinh tế cần đạt được như tốc độ tăng trưởng GDP, chuyển dịch cơ cấu ngành, các mục tiêu phát triển vùng  và các chỉ tiêu mang tính chất biện pháp như các yếu tố nguồn lực cần thiết cho tăng trưởng, các cân đối vĩ mô chủ yếu cần duy trì trong thời kỳ kế hoạch.

Các chỉ tiêu xã hội bao gồm các chỉ tiêu về nâng cao phúc lợi xã hội, mức sống đân cư, các chỉ tiêu chất lượng cuộc sống, môi trường tự nhiên và xã hội, chỉ tiêu xoá đói giảm nghèo (XĐGN), công bằng xã hội v.v…

Các chỉ tiêu lồng ghép các vấn đề xã hội trong phát triển kinh tế. Theo khía cạnh lồng ghép, cả nội dung kinh tế và xã hội đều được phản ánh trong một chỉ tiêu, các mục tiêu kinh tế và xã hội ràng buộc lẫn nhau hoặc mục tiêu xã hội đặt nhiệm vụ cho kinh tế phải giải quyết.

 Khi nền kinh tế đã phát triển đến một mức độ nhất định, các mục tiêu xã hội ngày càng được chú trọng nhiều hơn và một xu thế mới là xây dựng các chỉ tiêu mang tính chất lồng ghép.Việc lồng ghép các biến xã hội trong các chỉ tiêu kinh tế, hoặc là một biến xã hội này lồng trong một chỉ tiêu xã hội khác có nhiều tác dụng sẽ cho phép thống nhất được các mục tiêu kinh tế và xã hội, bảo đảm sự ràng buộc lẫn nhau giữa các nội dung kinh tế và xã hội có liên quan, thực hiện thống nhất quá trình điều hành và quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân.

– Đứng trên góc độ tính chất quản lý, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch được chia thành:

Xem thêm: Kế hoạch nhân sự là gì? Vai trò và trình tự lập kế hoạch nhân sự

Các chỉ tiêu pháp lệnh. Đây là các chỉ tiêu sau khi xây dựng được giao cho một đối tượng và địa chỉ cụ thể mang tích chất bắt buộc phải thực hiện. Thông thường các chỉ tiêu pháp lệnh sau khi giao cho các cấp thực hiện có kèm theo thể chế quy định trách nhiệm cụ thể.

Các chỉ tiêu hướng dẫn  thường là các con số mang tính chất định hướng, thuyết phục, thương lượng, thảo luận nhằm hướng nền kinh tế theo một mục tiêu nào đó và tạo điều kiện chủ động khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực cho phát triển.

Các chỉ tiêu dự báo do cơ quan kế hoạch hóa quốc gia xây dựng nhằm dự báo các chỉ tiêu vĩ mô cơ bản mang tính chất dài và trung hạn như lạm phát, thất nghiệp, dân số, phát triển khoa học công nghệ trong và ngoài nước, dự báo biến động thị trường và giá cả, cung, cầu v.v… Xây dựng các chỉ tiêu dự báo giống như tạo ra  phông vĩ mô cần thiết giúp các địa phương, ngành và các doanh nhân theo dõi để tự điều tiết hành vi kinh doanh của mình.

Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, vấn đề quan trọng nhất là hình thành hệ thống các chỉ tiêu pháp lệnh. Tuy vậy, xuất phát từ bản chất của kế hoạch hóa phát triển là tính thuyết phục gián tiếp nên quá trình hoàn thiện nó là quá trình chuyển dần từ kế hoạch hóa theo chỉ tiêu pháp lệnh sang kế hoạch hóa bằng hệ thống các chỉ tiêu hướng dẫn và các chỉ tiêu mang tính dự báo. Điều đó bảo đảm cho kế hoạch  thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô, điều tiết thị trường và được tiếp cận theo hướng từ trên xuống.