Bình quân liên ngân hàng tiếng anh là gì

Cách khoảng mươi ngày, một ngân hàng gửi đi một thông cáo báo chí về chuyện phát hành chứng chỉ tiền gửi nhưng hầu như không thấy báo nào đưa tin. Ấy có lẽ là vì ngân hàng này sử dụng tiếng Anh (phải mấy ngày sau mới có bản dịch tiếng Việt) và là loại tiếng Anh chuyên ngành khó hiểu đối với người ngoài ngành.

Thông tin chính của bản thông báo nằm ở câu: “The issue, which will help expand and develop Vietnam’s local long-term debt market, marks the debut [of] long-term negotiable certificates of deposit to be issued in Vietnamese dong”. Có lẽ người sử dụng các dịch vụ của ngân hàng hiện đã quen với công cụ “chứng chỉ tiền gửi” (certificate of deposit hay được gọi tắt là CD) – cũng là một cách gửi tiền tiết kiệm có kỳ hạn cụ thể. Negotiable trong câu này là một từ dễ gây hiểu nhầm vì nghĩa thường dùng của nó là “có thể thương lượng”. Thật ra, negotiable đối với các CD có nghĩa sau khi mua về có thể bán lại, hay nói cho văn vẻ là có thể giao dịch trên thị trường thứ cấp. Ít nhất, người mua có thể đem tới ngân hàng để bán lại trước khi đáo hạn, mà tiếng Việt thường gọi là chiết khấu.

Bản thông báo giải thích: “The coupon resets every six months and will pay at a specified spread over a benchmark rate set by the bank”. Đây chính là câu gây khó khăn nhiều nhất vì nó chứa nhiều từ khó. Chúng ta thường quen với từ interest rate (lãi suất) trong khi đối với trái phiếu, từ thường dùng là coupon. Ngày trước, tờ trái phiếu có kèm các coupon ghi rõ số tiền trả cho trái chủ và vì trái phiếu thường dài hạn nên một tờ trái phiếu có in kèm nhiều coupon để mỗi sáu tháng, chẳng hạn, trái chủ cắt và đi lãnh lãi. Thật ra với các CD, dùng interest rate cũng được.

Spread cũng là một từ hay vì nó được dùng trong nhiều lĩnh vực. Ví dụ giá mua vàng là 13 triệu/lượng – giá bán là 13,2 triệu/lượng thì spread ở đây là 0,2 triệu. Khác biệt giữa giá mua, giá bán ngoại tệ cũng là spread. Còn spread trong câu trên ý nói lãi suất sẽ được thả nổi và sẽ bằng mức lãi suất liên ngân hàng (bản dịch tiếng Việt) cộng thêm một mức nào đó do ngân hàng ấn định sáu tháng một lần. Từ “benchmark rate” dùng trong câu này là lãi suất tham chiếu (còn gọi là reference rate), lãi suất liên ngân hàng thường được gọi là inter-bank rate.

Trước đó, bản thông báo cho biết: “The inaugural issue was a VND400bn (US$22m) floating rate issue with a tenor of two years and one day”. Để cho văn vẻ, người viết sử dụng khá nhiều từ để chỉ lần phát hành đầu tiên (inaugural issue, maiden issue, debut…). Kỳ hạn của chứng chỉ tiền gửi hay trái phiếu thường được gọi là term, hay tenor. Còn kỳ hạn hai năm cộng một ngày là vì lý do cho dễ tính (tròn hai năm).

Câu khó tiêu hóa nhất trong thông báo này là: “The CD can be sold back to XXX Hanoi branch on each coupon payment date after a certain holding period at the benchmark one-year government bond rate plus a certain spread but the issue when bought back cannot be less than the coupon rate for the previous fixing period”.

Xin đối chiếu với bản dịch của ngân hàng này mấy ngày sau: “Chứng chỉ tiền gửi này có thể chiết khấu tại XXX Hà Nội trong mỗi kỳ trả lãi sau một thời hạn nhất định, với lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn một năm cộng với một chênh lệch lãi suất nhất định, nhưng không quá lãi suất ấn định của kỳ lãi trước”.

Phần sau của bản dịch này có vấn đề vì tiếng Anh là “cannot be less than” tức là không thấp hơn trong khi tiếng Việt là “không quá” tức là phải thấp hơn. Không biết bản nào chính xác đây?

Ở trên là nói chuyện tiếng Anh. Bây giờ xin nói sơ qua nội dung. Bản dịch dùng cụm từ lãi suất liên ngân hàng (tiếng Anh: benchmark rate) có thể gây hiểu nhầm. Vì lãi suất liên ngân hàng là loại lãi suất các ngân hàng áp dụng cho nhau như khi cho vay qua đêm để bảo đảm tỷ lệ dự trữ hay trạng thái ngoại hối. Còn ở đây, thực chất người ta muốn nói đến lãi suất huy động tiền gửi bình quân của bốn ngân hàng thương mại quốc doanh; mức cộng thêm là 10 điểm (0,1%). Và sau khi kiểm chứng lại thì ở phần chiết khấu, đúng là sau khi giữ chứng chỉ tiền gửi một năm, người mua có thể bán lại cho ngân hàng này, khi đó lãi suất bằng lãi suất trái phiếu chính phủ loại một năm cộng 1 điểm phần trăm. Mức này không thấp hơn mức lãi suất đã được ấn định cho kỳ sáu tháng trước đó.

Nhân đây xin giới thiệu thêm một số từ liên quan đến “certificate of deposit”. Ở Mỹ có loại “jumbo CD” tức là các chứng chỉ trị giá lớn, mức tối thiểu cũng phải chừng 100.000 đô la. Callable CD là loại chứng chỉ mà ngân hàng phát hành có thể mua lại, nhằm phòng hờ trường hợp lãi suất trên thị trường thay đổi mạnh.

Bao gồm các: Xác định cụ thể Mức thấp của chi phí hoặc giá thị trường Chi phí bình quân gia quyền Chi phí trung bình biến đổi FIFO và LIFO.

These include: Specific Identification Lower of cost or market Weighted Average Cost Moving-Average Cost FIFO and LIFO.

Chỉ số được tính là trung bình của các yếu tố sau: Số bình quân gia quyền của các giao dịch hàng hóa trong tháng đầu tiên trong thị trường BFOE 25 ngày.

The index is calculated as an average of the following elements: A weighted average of first month cargo trades in the 25-day BFOE market.

Khi đến lúc chọn chiến lược giá thầu, hãy sử dụng mức bình quân gia quyền ngân sách của giá thầu hành động trong ứng dụng hiện tại làm điểm xuất phát.

When it’s time to pick a bid strategy, use a budget-weighted average of your existing in-app action bids as a starting point.

Nói chung để so sánh các dự án một cách tốt hơn, chi phí vốn bình quân gia quyền nên được sử dụng để tái đầu tư dòng chảy tiền mặt tạm thời.

Generally for comparing projects more fairly, the weighted average cost of capital should be used for reinvesting the interim cash flows.

Số bình quân gia quyền của giao dịch hàng hóa tháng thứ hai trong thị trường BFOE 25 ngày cộng hoặc trừ trung bình thẳng của các giao dịch chênh lệch giữa tháng thứ nhất và tháng thứ hai.

A weighted average of second month cargo trades in the 25-day BFOE market plus or minus a straight average of the spread trades between the first and second months.

Lợi suất và tuổi thọ bình quân gia quyền của các trái phiếu hoặc giấy tờ vốn chủ sở hữu được cấp sau đó được tính toán dựa trên các giả định mô hình được cung cấp bởi người bảo lãnh phát hành.

The yield and weighted average life of the bonds or equity notes being issued is then calculated based on the modeling assumptions provided by the underwriter.

Chi phí vốn bình quân gia quyền (sau thuế) của một công ty thường được sử dụng, nhưng nhiều người tin rằng nó là thích hợp để sử dụng tỉ lệ chiết khấu cao hơn để điều chỉnh cho rủi ro hoặc các yếu tố khác.

A firm's weighted average cost of capital (after tax) is often used, but many people believe that it is appropriate to use higher discount rates to adjust for risk, opportunity cost, or other factors.

Các phương pháp định giá hàng tồn kho được sử dụng phổ biến nhất trong một hệ thống liên tục là: nhập trước xuất trước (FIFO) nhập sau xuất trước (LIFO) cao nhất nhập vào, xuất trước (HIFO) chi phí trung bình hoặc chi phí bình quân gia quyền .

The most commonly used inventory valuation methods under a perpetual system are: first-in first-out (FIFO) last-in first-out (LIFO) highest in, first out (HIFO) average cost or weighted average cost .

Quản lý có thể sử dụng các mô hình như CAPM hoặc APT để ước tính một tỷ lệ chiết khấu phù hợp cho từng dự án cụ thể, và sử dụng chi phí vốn bình quân gia quyền ("WACC") để phản ánh sự pha trộn tài chính được lựa chọn.

Managers use models such as the CAPM or the APT to estimate a discount rate appropriate for a particular project, and use the weighted average cost of capital (WACC) to reflect the financing mix selected.

Tỷ giá hối đoái song phương liên quan đến một cặp tiền tệ, trong khi tỷ giá hối đoái hiệu quả là bình quân gia quyền của một rổ ngoại tệ, và nó có thể được xem như là một số đo tổng hợp của năng lực cạnh tranh đối ngoại của quốc gia.

Bilateral exchange rate involves a currency pair, while an effective exchange rate is a weighted average of a basket of foreign currencies, and it can be viewed as an overall measure of the country's external competitiveness.

Chỉ số không thể đầu tư được chỉ định trong tự nhiên, và nhằm mục đích để đại diện cho hiệu quả của một số cơ sở dữ liệu của các quỹ phòng hộ sử dụng một số biện pháp như trung bình, bình quân hoặc bình quân gia quyền từ một cơ sở dữ liệu quỹ phòng hộ.

Non-investable indices are indicative in nature, and aim to represent the performance of some database of hedge funds using some measure such as mean, median, or weighted mean from a hedge fund database.

Ví dụ, CBOE Volatility Index (VIX) được tính theo bình quân gia quyền của biến động ngụ ý khả năng tùy chọn khác nhau trên 500 chỉ số S & P. Ngoài ra còn có các chỉ số biến động thường tham chiếu khác như chỉ số VXN (chỉ số Nasdaq 100 tương lai chỉ số đo biến động), các QQV (QQQ đo lường biến động), IVX - Index biến động ngụ ý (một biến động cổ phiếu dự kiến trong khoảng thời gian tương lai cho bất kỳ chứng khoán Mỹ và ngoại tệ giao dịch cụ), cũng như các tùy chọn và tương lai các dẫn xuất trực tiếp dựa trên các chỉ số biến động chính mình.

There are also other commonly referenced volatility indices such as the VXN index (Nasdaq 100 index futures volatility measure), the QQV (QQQ volatility measure), IVX - Implied Volatility Index (an expected stock volatility over a future period for any of US securities and exchange-traded instruments), as well as options and futures derivatives based directly on these volatility indices themselves.

Vào ngày 16 tháng 6 năm 2016, Hội đồng Hòa bình và Trật tự Quốc gia Thái Lan, chính quyền quân sự cai trị Thái Lan, tuyên bố rằng họ đang có kế hoạch để phi hình sự hóa việc sử dụng ya ba ở trong nước.

On 16 June 2016, the National Council for Peace and Order, the military junta ruling Thailand, stated that it was planning to decriminalise ya ba in the country.

Hội đồng Quốc gia vì Hòa bình và Trật tự (NCPO), chính quyền quân sự nắm quyền ở Thái Lan vào tháng 5 năm 2014, đã có thái độ dễ dãi đối với các mối quan ngại về môi trường.

The National Council for Peace and Order (NCPO), the military junta that took power in Thailand in May 2014, has taken a cavalier attitude towards environmental concerns.

Người đoạt Giải Nô ben Hoà bình năm 1991 đã bị quản thúc tại gia 13 năm trong số 19 năm qua - thời hạn giam giữ mà chính quyền quân sự thường xuyên kéo dài .

The 1991 Nobel Peace Prize winner has been under house arrest for 13 of the past 19 years - a confinement that the military junta has regularly extended .

Tuy nhiên, chính quyền quân sự bác bỏ công nhận kết quả, và cai trị Myanmar dưới danh nghĩa Hội đồng Hòa bình và Phát triển Quốc gia cho đến năm 2011.

However, the military junta refused to recognise the results, and ruled the country as the State Peace and Development Council until 2011.

Kể từ tháng 5 năm 2014, Thái Lan đã được cai trị bởi một chính quyền quân sự - Hội đồng Hòa bình và Trật tự Quốc gia Thái Lan, trong đó bãi bỏ một phần hiến pháp 2007, tuyên bố thiết quân luật trên toàn quốc và ra lệnh giới nghiêm, cấm hội họp chính trị, bắt và giam giữ các nhà hoạt động chính trị chống cuộc đảo chính, áp đặt kiểm duyệt internet và nắm quyền kiểm soát các phương tiện truyền thông.

Since May 2014 Thailand has been ruled by a military junta, the National Council for Peace and Order, which has partially repealed the 2007 constitution, declared martial law and nationwide curfew, banned political gatherings, arrested and detained politicians and anti-coup activists, imposed internet censorship and taken control of the media.

Một điều gây bất bình nữa là việc người Anh tiếp tục duy trì quyền kiểm soát các cảng biển ở bờ nam Ireland thông qua Hiệp ước Treaty Ports, cho Hải quân Hoàng gia Anh.

Also controversial was the British retention of Treaty Ports on the south coast of Ireland for the Royal Navy.

Trong tháng 10, hoạt động hầu như độc lập với chính quyền dân sự, Hải quân Hoàng gia Nhật đã bắt giữ một số quần đảo thuộc Đức ở Thái Bình Dương - Mariana, Caroline và Quần đảo Marshall - hầu như không gặp bất kì sự chống cự nào.

During October, acting virtually independently of the civil government, the Imperial Japanese Navy seized several of Germany's island colonies in the Pacific - the Mariana, Caroline, and Marshall Islands - with virtually no resistance.

Tuy nhiên, Mỹ đã đứng cuộc diễn tập của mình, tuyên bố rằng "các hoạt động khảo sát thăm dò hòa bình và các hoạt động quân sự khác mà không có sự cho phép trong vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia" được Công ước cho phép.

Nevertheless, the US has stood by its manoeuvres, claiming that "peaceful surveillance activities and other military activities without permission in a country's Exclusive Economic Zone (EEZ)," is allowed under the convention.

Cuộc đảo chính tháng 12 năm 1964 diễn ra trước bình minh vào ngày 19 tháng 12 năm 1964, khi chính quyền quân sự Việt Nam Cộng hòa dưới sự chỉ huy của Nguyễn Khánh giải tán Thượng Hội đồng Quốc gia và bắt giữ các thành viên.

The December 1964 South Vietnamese coup took place before dawn on December 19, 1964, when the ruling military junta of South Vietnam led by General Nguyễn Khánh dissolved the High National Council (HNC) and arrested some of its members.

Lawrence được cho nhập biên chế trở lại vào ngày 13 tháng 6 năm 1932 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân T. E. Downey, và đã rời Philadelphia vào ngày 15 tháng 8 để gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương.

Lawrence recommissioned 13 June 1932, Lt. Cmdr. T. E. Downey in command, and departed Philadelphia 15 August to join the Pacific Fleet.

Ngay sau khi ký kết hòa bình với Thổ Nhĩ Kỳ, A. V. Suvorov được chuyển đến Ba Lan lần nữa, nơi ông đảm nhận quyền chỉ huy của một quân đoàn và tham gia trận đánh Maciejowice, nơi ông bắt giữ Tổng tư lệnh Nghĩa quân Ba Lan là Tadeusz Kościuszko.

Immediately after the peace with the Ottoman Empire was signed, Suvorov was again transferred to Poland, where he assumed the command of one of the corps and took part in the Battle of Maciejowice, in which he captured the Polish commander-in-chief Tadeusz Kościuszko.

Ngày 22 tháng 11 năm 1967, Hội đồng bảo an thông qua Nghị quyết 242, theo công thức "đổi đất lấy hòa bình", kêu gọi thành lập một nền hòa bình công bằng và lâu dài dựa trên việc rút quân đội Israel khỏi các vùng đất chiếm đóng năm 1967 để đổi lấy việc chấm dứt tình trạng chiến tranh giữa mọi quốc gia, sự tôn trọng chủ quyền của mọi nước trong vùng, và quyền sống trong hòa bình, an ninh cũng như được công nhận các đường biên giới.

On 22 November 1967, the Security Council adopted Resolution 242, the "land for peace" formula, which called for the establishment of a just and lasting peace based on Israeli withdrawal from territories occupied in 1967 in return for the end of all states of belligerency, respect for the sovereignty of all states in the area, and the right to live in peace within secure, recognized boundaries.