Bài dự thi cảm nhận về nền văn hóa lào năm 2024

Từ lúc lọt lòng mẹ đến khi chập chững biết đi, trẻ thơ chủ yếu dựa vào nguồn sữa mẹ, cháo hoặc cơm nhai. Ở nông thôn trước kia, lúc ốm đau dù nặng hay nhẹ đều nhờ thuốc cổ truyền dân tộc kết hợp với cúng bái, cầu xin Trời, Đất, Thần, Phật. Nhiều trẻ thơ do không thích nghi được với môi trường sống nên sinh bệnh tật, nhất là khi có các dịch bệnh. Rất nhiều trường hợp cha mẹ phải bó tay trước giây phút hấp hối của con cái, chỉ vì không có mạng lưới y tế, thuốc men, đường sá không có, đi lại gặp rất nhiều khó khăn. Trong bối cảnh lo sợ thương con nhưng bất lực nên dẫn cha mẹ đến chỗ mê tín, sẵn sàng làm mọi nghi lễ miễn có thể cứu được con mình. Ở nhiều địa phương còn có những tục kiêng kỵ khác như thấy con khỏe mạnh, mập mạp cũng không dám khen mà đâm lo sợ phải đi xin người đỡ đầu, nhận làm con nuôi, đeo nhiều vòng vía bằng bạc ở cổ tay, chân hoặc những gói bùa phép do thầy cúng cấp. Phải đến cuối năm 1975, đất nước được giải phóng hoàn toàn mới có điều kiện phát triển mạng lưới y tế xuống tận bản làng. Hội bảo vệ bà mẹ và trẻ em đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao kiến thức cho các sản phụ. Hơn 20 năm qua nhiều nhà hộ sinh được xây dựng khắp bản mường lớn, giao thông đi lại giữa các bản được nối liền thuận tiện. Những tục lệ kiêng kỵ mê tín dị đoan, cách đỡ đẻ phản khoa học của các bà mụ xưa kia đã bị đẩy lùi trước ánh sáng sản khoa hiện đại. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh đã được kéo xuống ở mức thấp nhất trong lịch sử.

8- Tu hành Tu hành là một bước ngoặt quan trọng đối với mỗi thanh thiếu niên Lào (nam giới). Trong cuộc đời mỗi người Lào trước đây, hầu như ai cũng qua một đôi lần cạo đầu đi tu, việc đi tu trở thành tục lệ phổ biến đối với người Lào. Những người qua tu hành được coi như là người “lành”, người Lào gọi là “khôn xúc” (người chín) được xã hội trọng vọng, một trong những tiêu chuẩn được các cô gái ngưỡng mộ. Trong suốt cuộc đời, nếu không qua một lần đi tu là điều không bình thường trong xã hội Lào trước kia. Tục lệ đi tu ở Lào xưa kia phát xuất từ quan niệm của Phật giáo là thuyết luân hồi và khái niệm về dục vọng. Theo triết lý của đạo Phật ở Lào thì cuộc đời con người được coi là bể khổ, nguồn gốc của nỗi khổ ấy là dục vọng (tăn-hả). Khái niệm về dục vọng được chia làm nhiều loại như: xác thịt (kăm-tăn-hả), danh vọng, giàu sang (pha-vạ-tăn-hả) và những điều không muốn mà nó cứ đến (vi-pha-va-tăn-hả). Con người muốn thoát khỏi cái bể khổ ấy chỉ có một con đường là từ bỏ dục vọng. Không cắt bỏ được dục vọng thì con người cứ lẩn quẩn trong cái vòng luân hồi (viên-cợt), dù có đầu thai sang kiếp khác vẫn cứ bị chìm đắm trong bể khổ. Còn dục vọng thì con người cứ quẩn quanh giữa hành động (kăm-mạ), hậu quả (vĩ-bạp) và tội lỗi (ki-la-tăn-hả). Kiếp sau có được sống hạnh phúc (xuc-cạ-ti-phạp) hay là khổ sở hơn (thúc-kha-ti-pháp) phụ thuộc vào tỷ lệ giữa phúc và tội từ kiếp trước. Hình thức tránh được tội lỗi và tích được nhiều phúc đức là con đường tu hành.

Trên đây là quan niệm nhân sinh quan của các phật tử thuộc tầng lớp trí thức phong kiến quý tộc ở Lào. Còn đa số phật tử là nông dân lao động thì cho rằng tu hành là một tập quán xã hội hoặc khi gia đình xảy ra tai biến. Quan niệm này được thể hiện khá rõ trong các trường hợp đi tu của thanh niên Lào trước đây. Phổ biến nhất là đi tu theo tập quán của xã hội. Người con trai đến tuổi trưởng thành cha mẹ phải lo cho con đi tu một thời gian theo lệ của bản mường. Thời gian và số lần đi tu tùy thuộc mỗi gia đình. Tuy không phải là điều bắt buộc nhưng qua nhiều thế hệ dường như ít có phật tử nào không làm theo tập quán này. Trường hợp thứ hai người thanh thiếu niên Lào tạm khoác áo cà sa một thời gian khi gia đình xảy ra tai biến như bố mẹ chết, lâm bệnh trầm trọng hoặc xảy ra những tai nạn bất ngờ. Cha hay mẹ chết, người con trai thường phải đi tu để tích thêm phúc đức giúp cha mẹ được đầu thai ở kiếp sau sung sướng hơn. Sau trận ốm “thập tử nhất sinh” của ông bà, cha mẹ, con cháu cũng đi tu một thời gian nhất định để có thêm phúc đức giúp người bệnh vượt qua mọi sự mệt mỏi, bình phục nhanh chóng. Ngoài ra còn có một số trường hợp khác người Lào cũng cạo đầu đi tu nhưng không phổ biến. Chẳng hạn làm ăn gặp nhiều trắc trở, liên tiếp bị thua lỗ cũng cho con đi tu để cầu mong gặp sự may mắn. Có người cha mẹ chết sớm, không có anh em họ hàng thân thích, cảm thấy cô đơn nên phải nhờ tu hành để tìm lại niềm lạc quan, tin tưởng trong cuộc sống. Lại có người cảm thấy tâm hồn trống trải, cằn cỗi không hòa nhập được với cộng đồng, thiếu niềm tin ở cuộc sống trần tục nên đã gửi gắm cả cuộc đời mình vào chốn cửa Phật với hy vọng mọi sự tốt đẹp ở kiếp sau.

Việc tu hành trở thành tục lệ phổ biến nhưng vẫn có những quy định tối thiểu đối với người thanh thiếu niên trước lúc đi tu. Trước hết người xin đi tu phải đủ tuổi. Ở vùng Đông Bắc Thái Lan quy định phải hai mươi tuổi trở lên mới được công nhận là nhà sư, dưới hai mươi tuổi ai đi tu mới chỉ là chú tiểu. Người xin đi tu phải là người sinh sống lương thiện có gia đình, bà con cư trú ở một bản mường nhất định. Người thanh niên xin nhập tu phải có tư cách đúng đắn, sống lành mạnh, không nghiện rượu, đam mê cờ bạc hoặc hút thuốc phiện. Về sức khỏe, phải có cơ thể lành lặn không mắc các bệnh mãn tính, tâm thần, nếu mắc bệnh thông thường có thể hoãn một thời gian để chạy chữa. Về trình độ văn hóa, người xin nhập tu tối thiểu phải biết đọc, biết viết. Đối với những người chuyên trộm cướp, có tội với bản mường, phạm pháp đang bị truy nã, bị kết án…không được vào tu. Nói chung nhà chùa nghiêm cấm những kẻ lợi dụng cửa Phật để trốn tránh tội lỗi, nghĩa vụ đối với xã hội hoặc công nợ do làm ăn thua lỗ. Khi có đủ điều kiện, gia đình và người xin đi tu phải làm lễ nhập tu theo quy định của nhà chùa gọi là “Kong-buột”. Trước hết cha mẹ mua nến, hương hoa rồi dẫn con lên chùa tỏ ý xin đi tu và nhờ vị sư thầy giúp đỡ. Sau khi được vị sư trụ trì ở ngôi chùa chấp thuận và định ngày tháng nhập tu, nhà chùa sẽ báo tin cho các tín đồ trong bản mường biết gọi là “Pạ-khên-nác” nghĩa là “dâng Rồng”. Thông thường nhà chùa hẹn trước lễ nhập tu ba mươi ngày. Đây là thời gian quan trọng để nhà chùa trang bị cho người thanh niên sắp đi tu những điều cần thiết như cách xưng hô, đi đứng, ngồi, quỳ, vái lạy, được coi là yêu cầu cơ bản phải thuần phục ngay từ ngày nhập tu cũng như trong suốt thời gian tu hành. Ở một số địa phương người sắp đi tu còn phải học thêm chữ “thăm”-loại chữ ghi chép kinh kệ trên các tập lá cọ.

Đối với gia đình có con em sắp đi tu thì đây cũng là thời gian rất quý để chuẩn bị cho ngày lễ được chu đáo hơn, ngoài nến, hương, hoa, vải, vàng, dao cạo đầu, chủ lễ còn lo liệu thức ăn, các loại bánh dân tộc để dâng lên chùa và thết đãi bà con họ hàng, xóm giềng đến dự. Với nhà chùa, đây cũng là thời gian cần thiết để hiểu thêm về người đi tu thông qua các Phật tử trong bản mường.

Ở Lào cũng như Thái Lan sắp đi tu gọi là “Nác”. Theo tiếng Lào “Nác” có nghĩa trong sạch hoặc rồng. Trong trường hợp này được gắn với nghĩa Rồng bởi nó xuất phát từ một truyền thuyết được lưu truyền rộng rãi ở Lào cũng như Thái Lan. Theo các già bản, truyền thuyết đó có thể tóm tắt như sau: Thưở xa xưa thấy các chàng trai trong bản làng đến tuổi mười tám đôi mươi ai cũng cạo đầu đi tu một thời gian, chúa Rồng cũng hóa thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú xin đi tu. Nhưng đến khi ngủ thì nhà sư kia lại hiện nguyên hình là một chúa Rồng. Một đêm nọ tung tích của nhà sư ấy bị lộ và đến tai Phật. Hay tin, Phật bèn cho mời chúa Rồng lên hỏi hư thực ra sao và khuyên nên sớm thoát tục. Để biểu hiện sự lưu luyến đối với việc tu hành và ghi nhớ những ngày tháng ngắn ngủi đầy hấp dẫn ấy, trước lúc rời nhà chùa, chúa Rồng ngỏ ý muốn Phật cho lấy tên mình để gọi các chàng trai sắp đi tu. Để đáp lại lòng thiết tha chân thành của chúa Rồng, Phật chấp nhận và từ đó những người chuẩn bị cạo đầu đi tu đều được các Phật tử gọi là “Nác”.

Sau non một tháng tập trung học ở chùa, trước buổi lễ nhập tu một đôi ngày, người thanh niên được xuống bản chào các già bản, ông bà, cha mẹ, xóm giềng và bè bạn thân thiết khác. Nếu có vay mượn, nợ nần ai thì cũng trang trải cho xong xuôi để lúc nhập tu lòng được thanh thản. Tục này người Lào gọi là “Pòi-nác” (thả Rồng).

Đúng ngày giờ đã hẹn, gia đình có con em sắp đi tu làm lễ gọi là “Kong-buột”. Lễ nhập tu có thể tổ chức ở nhà hay ở chùa tùy mỗi gia đình. Nếu trong bản có hai, ba người làm lễ nhập tu cùng một ngày thì thường tổ chức ở chùa cho rộng rãi, tiện lợi và vui vẻ hơn. Ngay từ buổi chiều trước ngày lễ nhập tu, tại gia đình chủ lễ đã nhộn nhịp đông vui. Để chia sẻ niềm vui đối với gia đình chàng trai sắp đi tu, anh em, họ hàng, xóm giềng, bè bạn tấp nập đến thăm hỏi, chúc mừng. Hầu như ai đến mừng cũng mang theo tặng phẩm dù chỉ là một âu hoa tươi, gói nến, bó nhang, đĩa trầu cau, bó thuốc lá… để thể hiện tình nghĩa bản làng, góp phần làm cho lễ nhập tu thêm ấm cúng, trang trọng. Khi bà con dân bản đến đông đủ, nghi lễ chúc mừng được bắt đầu một cách long trọng. Mọi người chắp tay trước ngực, kính cẩn nghe tăng lữ tụng kinh cầu nguyện. Đến tối tổ chức vui chơi, múa hát gọi là “ngăn-kong-buột”. Gia đình có con cháu đi tu trở thành một ngày lễ hội. Đây cũng là dịp gặp gỡ ca múa, tỏ tình tỏ ý của trai gái trong bản làng và các bản lân cận. Mọi người đến dự đêm vui “ngăn-kong-buột” đều bày tỏ niềm vui, chân thành chúc mừng gia chủ có con đi tu, sẽ tích thêm nhiều phúc đức, bản làng sẽ có thêm một người “lành”, một tri thức. Đặc biệt sự có mặt của các cô gái, các chàng trai, thường góp phần quan trọng làm cho đêm vui thêm rộn ràng, náo nhiệt. Theo người Lào tục vui chơi, ca múa trước lúc nhập tu là sự khích lệ đối với gia đình và chàng trai sắp tạm biệt cuộc sống trần tục.

Sáng sớm ngày lễ nhập tu, gia đình làm lễ dâng cơm, bánh trái cho sư (Liễng-phạ). Tiếp theo gia đình, bà con, xóm giềng mặc những bộ váy áo dân tộc đến tham dự đám rước chàng trai đi tu lên chùa gọi là “hè nác” (rước Rồng). Thanh niên trai gái còn mang theo các loại nhạc cụ dân tộc như trống, chiêng, khèn bè. Phương tiện để rước chàng trai tùy mỗi gia đình, bản làng. Có nơi rước bằng voi, ngựa, thuyền hoặc kiệu. Ở các đô thị thời hiện đại, các gia đình khá giả rước bằng ô tô nhưng hình thức phổ biến là rước bằng kiệu gọi là “tiêng” hay “măng” (giường). Chàng trai khoác áo cà sa, mặc “phạ-va”, quấn “phạ-biềng” (khăng quàng chéo qua ngực) màu vàng, đầu, lông mày cạo nhẵn, ngồi nghiêm trang trên kiệu do bốn người khiêng. Theo sau kiệu là các già bản, gia đình, bà con, xóm giềng, bầu bạn. Họ vừa đi vừa múa hát reo hò xen lẫn tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng khèn réo rắt, sôi động. Đám rước thường đi vòng quanh bản rồi mới lên chùa. Nếu trong bản hay bản lân cận cũng tổ chức rước “Nác” trong ngày cùng một chùa thì thường hẹn nhau ở một cánh đồng hoặc dưới cây cổ thụ để nhập thành một đoàn cho thêm phần tưng bừng náo nhiệt. Khi đi vào sân chùa đám rước đi quanh ngôi “xỉm” (ngôi nhà để các pho tượng Phật) ba vòng từ trái sang phải.

Đám rước kết thúc, mọi người vào chùa làm lễ cầu yên cho chàng trai (xù-khoẳn-Nác). Người đi tu ngồi sát mâm lễ, phía sau là cha mẹ, bà con, xóm giềng. Phía trong là sư thầy và các nhà sư, chú tiểu trong chùa. Sau những lời cầu nguyện mọi sự tốt lành của chủ lễ, mọi người lần lượt buộc chỉ cổ tay cho người đi tu. Lễ “xù-khoẳn-Nác” xong cha hay mẹ dẫn người con nhập tu vào “xỉm”. Nếu cha thì dắt tay trái, mẹ thì dắt tay phải. Trường hợp không còn cha mẹ thì người thân thay thế. Vào “xỉm” người đi tu vào thắp hương lạy Phật rồi trở về ngồi bên cha mẹ để nhận thêm áo quần của nhà chùa. Sau đó người tu chắp tay lạy cha mẹ, chào tạm biệt họ hàng, bè bạn rồi vào ngồi cùng các nhà sư trong chùa, hai tay cung kính chắp trước ngực, mắt hướng về phía sư thầy hứa làm tròn bổn phận một nhà tu hành và xin thực hiện “xỉn-síp” (thập giới). Sư thầy khoác bình bát lên vai người mới nhập tu và căn dặn một số điều cần thiết và từ giờ phút này chàng trai chính thức trở thành một nhà sư ở ngôi chùa. Lễ nhập tu kết thúc, bà con dân bản trở về nhà trong không khí vui vẻ, tin tưởng. Các chàng trai cô gái lại nổi trống, chiêng múa hát cho đến lúc chia tay nhau tại nhà chàng trai mới đi tu.

Ba ngày đầu mới nhập tu nhà sư được học thêm một số điều răn khác nữa. Chẳng hạn người đi tu chỉ được mặc áo cà sa do nhà chùa cấp. Hàng ngày phải đi khất thực. Người đi tu có thể uống các nước lá cây rừng nấu (giống lá vối, ngành ngạnh) hoặc ngồi một mình dưới các gốc cây trong chùa. Người đi tu tuyệt đối không được đàn hát, giết súc vật, ăn cắp… Trong ba ngày đầu, từ sáng sớm nhà sư thường khoác bình bát đi khất thực và mang theo một lọ nước mát. Khi nhận thức ăn do các Phật tử dâng cúng phải dùng hai tay đỡ, nếu là con gái phải lấy khăn lót. Nhận thức ăn xong, nhà sư lui lại mấy bước rồi ngồi xuống, một tay để xuôi xuống ngực, một tay cầm lọ nước rỏ xuống đất cầu mong cho phúc đức lan rộng trong thế gian, con người tránh được nghiệp chướng, bệnh tật. Lễ rỏ nước được tiến hành trong ba ngày đầu mới nhập tu gọi là “dạt-nẵm”. Từ ngày thứ tư trở đi, gia đình có con mới đi tu thường làm lễ cầu yên cho con. Sau khi dâng xôi, bánh trái, cho sư trên chùa, gia đình còn soạn mâm lễ buộc chỉ cổ tay cho người mới đi tu.

Xưa kia, không ít người Lào đã từ bỏ cuộc sống trần tục giành trọn cuộc đời mình cho việc tu hành. Nhưng dần dần quan niệm về tu hành cũng có sự đổi thay. Việc đi tu đối với thanh niên Lào ngày càng phổ biến nhưng thời gian được rút ngắn hơn. Số người đi tu mười lăm hai mươi năm cũng chỉ là cá biệt. Người thanh niên đi tu không bị ràng buộc bởi thời gian, muốn nhập tu bao lâu hoàn toàn do người đi tu và gia đình quyết định.

Qua một thời gian tu hành, gia đình muốn cho con cháu trở lại với cuộc sống trần tục, về sum hợp với gia đình, tham gia lao động sản xuất thì chỉ qua một nghi thức đơn giản gọi là “kong-síc”. Sau khi ngỏ ý với sư thầy và hẹn ngày giờ, gia đình soạn một mâm “khoẳn” gồm nến, hương, hoa dâng lên chùa. Người sư xin thoát tục đến lạy Phật và nhận mọi lỗi lầm đã phạm phải trong thời gian khoác áo cà sa và hứa hẹn trở về cuộc sống trần tục sẽ suy nghĩ, hành động xứng đáng với người đã qua tu hành. Sau ba lần đọc lời hứa, nhà sư xin thoát tục ra ngoài cởi bộ cà sa vàng, mặc bộ đồ trắng rồi quay lại chào sư thầy và các nhà sư khác trong chùa. Các nhà sư tụng kinh cầu phúc đức cho người xin thoát tục, dứt phần kinh các nhà sư đọc “xá-thụ”, thì người xin thoát tục cúi lạy ba lần rồi lại gần sư thầy nhận nước phép. Cuối cùng trước khi ra về, người xin thoát tục một lần nữa vái chào sư thầy và các nhà sư còn tiếp tục tu hành. Đối với chú tiểu khi thoát tục được miễn nghi thức này. Ngày nay, sau hơn một phần tư thế kỷ, đất nước hoàn toàn độc lập thống nhất, tục đi tu đối với thanh niên Lào tuy vẫn tồn tại nhưng không còn phổ biến như xưa. Bởi mặt bằng dân trí không ngừng được dâng cao. Và từ thực tiễn lịch sử, nhất là hai cuộc kháng chiến oanh liệt chống ngoại xâm, rồi qua hơn hai thập kỷ xây dựng đất nước bảo vệ độc lập chủ quyền, các nhóm dân tộc Lào đã thấy rõ để có một cuộc sống ấm no hạnh phúc, một xã hội công bằng văn minh, một quốc gia độc lập thịnh vượng không thể bằng con đường tu hành, cầu nguyện, tích phúc đức.

9- Tục lệ cưới xin Sau sinh nở, tu hành, cưới xin cũng là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời mỗi con người. Theo quan niệm của người Lào thì cưới xin là thời kỳ con người phải trưởng thành về nhiều mặt để bước vào cuộc sống tự lập đầy khó khăn thử thách. Hơn thế nữa, họ lại chuẩn bị làm cha, làm mẹ, một điều hết sức mới mẻ đối với người thanh niên. Bởi vậy ông bà, cha mẹ, họ hàng thường đặc biệt quan tâm giúp đỡ con cháu trong bước ngoặt quan trọng này. Tục cạo đầu đi tu ở một số địa phương trước khi cưới vợ, phải chăng cũng là một sự chuẩn bị để người thanh niên bước vào cuộc sống tự lập. Hình thức cưới xin ở Lào khá phong phú, đa dạng, mỗi nhóm dân tộc mỗi địa phương thường có một số nghi lễ cưới xin khác nhau, song xét về bản chất thì giống nhau. Có thể nói cưới xin phản ánh khá rõ nét một hình thức sinh hoạt tinh thần của người Lào và tích tụ nhiều tập quán cổ của mỗi nhóm dân tộc.

Chế độ phong kiến tồn tại khá lâu trong lịch sử dân tộc Lào. Những ý thức hệ phong kiến, tín ngưỡng, và các tập quán cổ truyền không ngăn cản sự tiếp xúc giữa trai gái. Ngược lại việc gặp gỡ giữa trai gái được coi là điều tự nhiên và dường như được bản mường, cộng đồng khuyến khích, bởi nó thường mang đến cho bản mường không khí tươi vui, rộn ràng. Tục ngữ Lào đã đúc kết: “Ruộng tốt nhờ màu, bản ấm cúng nhờ có nhiều cô gái” (Na đi nhõn phùn, bãn ùn nhõn sảo lải). Quả vậy bản mường nào có nhiều cô gái nết na xinh đẹp, chăm chỉ lao động, giỏi dang công việc nội trợ thì vào những đêm trăng hầu như không bao giờ vắng tiếng ca hát xen lẫn tiếng khèn bè dìu dặt của các chàng trai. Ở nông thôn, nhà có con gái, cha mẹ thường dựng một cái lán dưới sân gọi là “hươn khuồng”. Tối đến các cô gái thường xuống lán ngồi quay sợi, cán bông dưới ánh “cà-bong” (gỗ mục giã nhỏ trộn với dầu rái cuốn lá đốt thay đèn dầu). Và đây là lúc để các chàng trai trong bản mường hoặc các bản lân cận đến vui chơi, thổi khèn bè, tỏ tình, tỏ ý bằng những làn điệu dân ca uyển chuyển hay những câu nói giao duyên, ví von giàu hình tượng gọi là “pha-nhả”. Tiếng khèn, tiếng ca rộn ràng vang lên từ “hươn khuồng” là niềm tự hào của gia đình. Gia đình có con gái mà vắng tiếng khèn, tiếng ca trong những đêm trăng là không bình thường.

Với quan niệm, tập quán trên, trai gái ở Lào có nhiều dịp tốt để gặp gỡ nhau, đặc biệt là trong lao động sản xuất, những đêm trăng hội hè, cưới xin. Qua đó, tình yêu trai gái nảy nở một cách tự nhiên, trong sáng. Xưa nay, trai gái ở Lào là con em nhân dân lao động thường được tự do chọn người yêu, hầu như không bị ép buộc như một số nước phong kiến khác. Đương nhiên, khi trai gái lấy nhau cũng qua bàn bạc và sự chấp thuận của cha mẹ họ hàng hai bên. Việc chọn lựa người bạn trăm năm tất nhiên không thể tách rời trình độ sản xuất, sự phát triển của xã hội và tập quán cổ truyền của mỗi nhóm dân tộc. Chẳng hạn các cô gái thường để ý đến các chàng trai khỏe mạnh, giỏi công việc cày bừa, phát rẫy, dũng cảm trong săn bắn, chài lưới và trong những ngày lễ hội lại có tiếng khèn bè dìu dặt tha thiết. Nếu chàng trai đó đã qua tu hành, được phong sắc “thít” (sư chú), “chan” (sư bác) thì càng tốt. Còn các chàng trai thường chọn các cô gái có nhan sắc, múa dẻo, có giọng ca ngọt ngào quyến rũ lại giỏi lao động như gặt hái, chăn nuôi, dệt vải. Ngoài ra các chàng trai và cả gia đình còn để ý đến một điểm khác đã đi vào kho tàng ca dao tục ngữ Lào: “Bờng xạng hãy bờng hảng, bờng nang hãy bờng mè” (xem voi hãy nhìn đuôi, xem nàng hãy nhìn mẹ). Người Lào cho rằng người con gái chịu ảnh hưởng sâu sắc tính cách của người mẹ. Nếu người mẹ phúc hậu, lao động cần cù, thạo công việc nội trợ thì người con gái cũng có tính nết tương tự. Tiêu chuẩn môn đăng hộ đối thường được tầng lớp phong kiến, quan lại quyền quý coi trọng.

Có thể do xuất phát từ trình độ sản xuất, điều kiện kinh tế nên các chàng trai Lào ở mỗi miền có quan niệm, sự lựa chọn người yêu khác nhau. Chẳng hạn một số địa phương ở miền Trung, các chàng trai thường bị chi phối bởi quan niệm: Trai tơ lấy phải nạ dòng. Như nước mắm thối chấm lòng lợn thiu. Nạ dòng lấy được trai tơ. Đêm nằm hí hửng như mơ được vàng.

Ngược lại, ở một số địa phương Lào trước đây tuy không phổ biến, nhưng người thanh niên có thể lấy nạ dòng đã có một hay hai con là chuyện bình thường trong gia đình cũng như trong bản mường. Bởi vậy, tục ngữ mới có câu “Đi quăng chài được cá trứng, mới lấy vợ đã có con là phúc nhà từ trước” (Pay tức hẻ, đay pa khày, au mia mày đạy lục phõm, bun sãng tặng tè lẳng). Ở miền Nam Lào, các chàng trai lại rất kỵ lấy vợ là một nạ dòng hay gái góa, nên mới có câu tục ngữ: Gái nạ dòng ba xu cũng không cưới Gái tơ ba trăm cũng cưới. (Sảo mẹ hãng, sảm xạ tang kọ bồ tèng. Sảo ọi lọi sảm họi kọ tèng au).

Trước đây ở Lào người con gái mười lăm, mười sáu tuổi đã lấy chồng. Phổ biến nhất là ở lứa tuổi mười tám đôi mươi, ngoài hai mươi lăm tuổi được coi là quá lứa hoặc ế chồng. Con trai thường lấy vợ ở tuổi ngoài hai mươi. Ở vùng nông thôn và vùng dân tộc ít người, con trai thường lấy vợ sớm hơn ở đô thị. Trước kia cũng như ngày nay, ở nông thôn cũng như thành thị gia đình người Lào phổ biến là một vợ, một chồng. Vợ chồng thường chỉ chênh lệch nhau dăm ba tuổi. Riêng tầng lớp phong kiến quan lại thường lấy nhiều vợ và vợ lẽ thường ít hơn chồng mười lăm hai mươi tuổi. Nhất là trong các đô thị dưới chế độ thực dân kiểu mới của Mỹ trước đây, không ít những công chức sĩ quan ngụy có quyền thế lấy đến ba, bốn vợ, có cô vợ lẽ trẻ hơn chồng đến ba, bốn mươi tuổi. Trong vùng giải phóng trước kia và dưới chế độ dân chủ nhân dân ngày nay, con trai Lào thường ngoài hai mươi lăm tuổi mới lấy vợ, con gái trên mười tám mới lấy chồng. Riêng các dân tộc ít người ở miền núi xa xôi vẫn có khuynh hướng dựng vợ gả chồng sớm hơn nhân dân vùng đồng bằng, đô thị.

Tục cưới xin của người Lào trước đây cũng như ngày nay thường theo trình tự như dạm hỏi, lễ cưới, lại nhà. Khi con cái trưởng thành, ông bà cha mẹ thường nghĩ đến việc dựng vợ gả chồng. Cha mẹ nhắm một người nào đó mình ưng ý rồi hỏi ý kiến con cháu. Hoặc trai gái tự tìm hiểu, thương yêu nhau rồi chủ động báo cho cha mẹ. Sau khi thỏa thuận trong gia đình, cha mẹ nhờ trưởng họ, các già làng có uy tín chọn ngày lành tháng tốt mang lễ vật sang nhà gái dạm hỏi gọi là “can xù-khỏ”. Mâm lễ trong buổi ngỏ ý này rất đơn giản, chỉ cần trầu cau, thuốc lá. Người Lào vùng Đông Bắc Thái Lan trong lễ dạm hỏi này thường có thêm một cái âu bạc đựng ba bat (đơn vị tiền tệ Thái Lan) gọi là tiền thăm dò gia đình nhà gái. Nếu ưng thuận thì nhà gái nhận tiền. Nếu không ưng thuận thì nhà gái không phải trả lời, mà chỉ cần xếp tiền bỏ lại trong âu bạc của nhà trai.

Khi họ nhà trai ngỏ ý xin làm thông gia, nếu họ nhà gái nhận lời thì hẹn một ngày nhất định, mời họ nhà trai đến để thách cưới và chọn ngày giờ tổ chức lễ cưới. Theo tập quán, dù nhận lời hay không nhà gái cũng đón tiếp họ nhà trai một cách niềm nở, trân trọng. Đúng ngày giờ đã hẹn, họ nhà trai mang lễ vật sang nhà gái. Lễ vật có trầu cau, thuốc lá, các loại bánh… một số địa phương ở Nam Lào trong mâm lễ còn có cả thóc giống, vừng , hạt bông. Các lễ vật do họ nhà trai mang đến, nhà gái sử dụng một phần để biếu bà con họ hàng nội ngoại và một phần gửi lại biếu cho nhà trai. Trong buổi gặp gỡ này, họ hàng nhà gái thường đến đông đủ. Đặc biệt phía họ nhà gái không thể thiếu ông cậu. Sau nội dung ngỏ ý xin cưới của vị đại diện họ nhà trai, phía nhà gái thách cưới gọi là “Khạ-đong”. Thông thường nhà gái thách tiền, vàng, bạc, trâu, gạo, rượu. Việc thách cưới nhiều hay ít tùy theo tục lệ mỗi địa phương, mỗi gia đình và tùy theo địa vị xã hội cha mẹ nhà gái.

Con gái thuộc tầng lớp phong kiến, quan lại cao cấp thường thách cưới cao hơn lớp quan lại, viên chức ở cơ sở. Đối với tầng lớp này, việc thách cưới mang tính chất mua bán, trục lợi và người con gái thường về làm dâu ngay sau lễ cưới. Còn đối với đông đảo nông dân lao động việc thách cưới dường như là một tập quán, có tính chất tượng trưng để đề cao con gái của mình. Chính vì hàm ý đó mà trong lễ rước rể, đón rể có tục cả hai họ đều có những hành động ngăn cản buổi lễ như thách thức giăng chỉ cản đường, ra câu đố… nhằm đề cao chú rể cũng như cô dâu. Gặp trường hợp nhà gái thách cưới cao, nhà trai trình bày xin giảm bớt theo tập quán bản mường và đặc biệt chú ý đề cao cô dâu tương lai là người có nhan sắc, nết na, được nhiều chàng trai bản đầu trên xóm dưới để ý. Nhưng theo tục lệ từ xưa dù ít hay nhiều cũng phải có khoản tiền thách cưới và họ nhà trai phải trao cho họ nhà gái ngay khi mở đầu lễ cưới trước sự chứng kiến của hai họ. Nếu là gái góa, nạ dòng thì tiền thách cưới thường thấp hơn các cô gái chưa chồng. Con trai góa vợ hay bỏ vợ, họ nhà gái thường thách cưới cao hơn các chàng trai chưa vợ.

Thỏa thuận thách cưới xong, hai họ cùng bàn ngày cưới. Đó là một ngày lành tháng tốt do thầy số hoặc các già bản giàu kinh nghiệm chọn. Những ngày xấu, ngày dữ, cấm kỵ không được tổ chức đám cưới với quan niệm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ. Người Lào thường tổ chức đám cưới vào khoảng thời gian từ 15 tháng 10 đến 15 tháng 3 nông lịch Lào tức từ tháng 9 đến tháng 2 dương lịch.

Sau lễ dạm hỏi, thách cưới và hẹn ngày cưới, đôi trai gái có thể đi lại thăm hỏi, giúp đỡ gia đình hai họ trong lao động sản xuất một cách tự nhiên. Ở một số địa phương có tục trai gái yêu nhau, trước ngày cưới thường trao cho nhau những vật làm tin chỉ hai người biết gọi là “khõng-mẵn” như nhẫn, hoa tai, vòng tay, trâm cài tóc, gương lược… Nếu đã nhận vật làm tin của một chàng trai nhưng cô gái thay đổi đi hứa hôn với người khác thì phải trả lại vật làm tin. Ngược lại, nếu chàng trai thay lòng đổi dạ, yêu một cô gái khác thì không có quyền đòi lại vật làm tin. Đây cũng là một lệ được các chàng trai cô gái Lào chấp nhận. Gần đến ngày cưới, vì lý do chính đáng, chàng trai phải vắng mặt một thời gian thì cô gái vẫn chờ đợi, vì sự thỏa thuận giữa hai họ thông qua già bản là sự bảo đảm chắc chắn. Trong suốt thời gian này, họ hàng nhà trai phải quan tâm đúng mức đến cuộc sống, lao động sản xuất của nhà gái và khi gặp khó khăn trở ngại cần được sự giúp đỡ tích cực. Việc làm trên coi như thay cho sức lao động của chú rể đáng lẽ đã trở thành một lao động chính của nhà gái. Cũng trong thời gian này nếu họ nhà gái muốn từ chối, cô gái có quan hệ tình ý với một người khác thì họ nhà trai có quyền xóa bỏ sự thỏa thuận trước đó và đương nhiên họ nhà gái phải hoàn lại các lễ vật.

Trước ngày cưới, nhà trai cũng như nhà gái đều lo chuẩn bị chu đáo ngày hạnh phúc cho con cháu. Theo tục lệ trước đây ở nông thôn Lào sau ngày cưới chàng trai thường đến ở rể một thời gian, có trường hợp chàng trai ở rể khá lâu tùy thuộc mỗi gia đình, mỗi địa phương. Trước kia, rất ít các cô gái sau ngày cưới về làm dâu nhà chồng. Nhà gái thường chuẩn bị nệm, gối, chăn … và cả áo quần, khăn quàng để cô dâu biếu trưởng họ, cha mẹ chồng gọi là “khương xẳm-ma”. Nếu nhà gái thấy phải làm nhà mới thì phải báo trước cho nhà trai chuẩn bị tre, gỗ, và mọi thứ cần thiết khác đem sang nhà gái dựng. Bà con, họ hàng, xóm giềng của hai họ đều tham gia dựng nhà mới cho cô dâu chú rể. Theo tục lệ của người Lào việc dựng nhà phải xong trong một ngày. Do đó, cả hai họ cần có sự chuẩn bị chu đáo. Việc tiếp đãi, tổ chức ăn uống cho bà con xóm giềng đến tham gia dựng nhà do nhà gái đảm nhận.

Theo tập quán cổ ở Lào, xưa nay đám cưới là dịp vui chơi, ăn uống của hai họ và cộng đồng bản mường. Gia đình khá giả thường mổ trâu, bò, nhà nghèo cũng mổ lợn, gà, nấu rượu ngon để thết đãi bà con họ hàng đến dự. Đối với gái trai đây cũng là dịp gặp gỡ múa hát, tỏ tình, tỏ ý. Đám cưới ở Lào thường có một số nghi lễ như mời sư tụng kinh, làm lễ cầu may “xù-khoẳn”, rước rể, làm lễ cầu may chung cho cô dâu chú rể. Đại diện hai họ dặn dò khuyên bảo dâu, rể, cô dâu chú rể tặng lễ vật cho trưởng họ, cha mẹ chú rể. Bao trùm lên tất cả vẫn là không khí vui tươi náo nhiệt của trai gái, cộng đồng bản làng. Trước ngày cưới, nhà trai cùng nhà gái đều chuẩn bị trầu cau, thuốc lá, bánh trái, cơm nước để đón bà con xa gần đến mừng. Vào dịp này bà con xóm giềng thân thiết thường đến giúp đỡ gia chủ nấu nướng, têm trầu bổ cau, gánh nước, tiếp đón khách. Nhà trai cũng như nhà gái thường mời sư đến làm lễ cầu nguyện hạnh phúc cho con cháu . Nếu nhà cô dâu chú rể ở gần nhau thường được mời sang cùng dự lễ cầu yên.

Đúng ngày cưới, anh em, bà con thân thiết dù ở xa gần cũng đến dự đám cưới khá đông đủ. Ai cũng có tặng phẩm mừng cô dâu chú rể để thể hiện tình cảm của mình. Tặng phẩm cũng rất đa dạng, tùy thuộc vào khả năng mỗi người, chẳng hạn ở nông thôn trước đây, đi mừng lễ cưới thường có tiền, vải vóc, váy áo, bát đĩa, xoong nồi, gạo thóc, gà vịt, rượu… Theo truyền thống xưa nay, dù nhiều hay ít, dù những lễ vật giản dị đơn sơ nhất, gia chủ đều hết sức trân trọng cảm ơn, bởi quan niệm đó là tình nghĩa, là tấm lòng của chòm xóm. Đến dự lễ cưới, mọi người đều mặc những bộ váy áo dân tộc đẹp nhất, luôn tỏ thái độ hồ hởi, vui mừng, sẵn sàng dự bữa cơm rượu và tham gia vui chơi múa hát.

Đến giờ đã định, họ nhà trai bắt đầu rước rể sang nhà gái. Dẫn đầu là vị trưởng họ, tay bưng âu bạc đựng tiền thách cưới. Đi sau là bốn cô gái chưa có chồng, mỗi cô gánh một cái tráp đựng trầu cau, thuốc lá và một vò rượu được bọc vải hoặc giấy màu. Tiếp theo là mâm lễ (pha-khoẳn) rồi đến chú rể, các chàng trai phù rể, gia đình, họ hàng, bạn bè. Để chuẩn bị đón chú rể, nhà gái cũng soạn một mâm lễ để chú rể đến sẽ làm lễ cầu may chung một mâm với cô dâu. Trên mâm lễ thường có hoa quả, gạo nếp, trầu cau, bánh trái, đặc biệt không thể thiếu một quả chứng gà luộc. Nhiều địa phương trên mâm lễ còn có những cây hình tháp được kết bằng hoa lá gọi là “tổn mạc-bèng”. Có vùng còn chuẩn bị một âu nước hoặc vỏ một con ốc biển lớn ngâm các cánh hoa thơm để vẩy cho cô dâu chú rể.

Từ nhà chú rể sang nhà cô dâu, đám rước luôn sôi động bởi tiếng hò reo, hát ca của các chàng trai, cô gái. Đến gần nhà gái đám rước rể thường bị những sợi chỉ trắng giăng ngang buộc phải dừng lại. Những người làm việc này tự xưng là họ nhà gái và đòi phải có lễ vật mới được đi qua, chú rể mới lấy được cô dâu – một cô gái nết na, xinh đẹp là con cháu của họ, có địa phương họ nhà gái ra câu đố, họ nhà trai trả lời được mới cho đi qua. Đám rước phải dừng lại, họ nhà trai vui vẻ, ôn tồn xin đi và trao các lễ vật đã chuẩn bị trước mới được vào cổng. Đám rước rể đến chân cầu thang nhà gái thì đã có đại diện đón tiếp. Đó là một phụ nữ đứng tuổi, đông con, gia đình sống hòa thuận, nói năng hoạt bát khéo léo thay mặt họ nhà gái xuống đón chú rể và mời họ nhà trai lên nhà. Lúc này đến lượt họ nhà trai đề cao chú rể. Bạn bè, chú rể dọa giữ chú rể lại, không cho lên nhà cô dâu, họ nói chú rể là một chàng trai khỏe mạnh, dũng cảm, lao động giỏi không bao giờ ế vợ… Đại diện họ nhà gái lễ phép, chắp hai tay trước ngực xin trưởng họ, cha mẹ, họ hàng, bè bạn nhà trai cho chú rể lên nhà dự lễ cưới và ngỏ ý nhà gái đã chuẩn bị sẵn sàng đón tiếp chu đáo, nồng nhiệt nhất. Các chàng trai dự lễ rước rể đáp lại lời thỉnh cầu của nhà gái bằng những tiếng reo hò vang dội.

Họ nhà trai lần lượt lên nhà trước sự chào hỏi đón tiếp niềm nở của nhà gái. Mở đầu, trưởng họ nhà gái ngỏ ý nhắc lại tiền thách cưới được hai bên thỏa thuận. Trưởng họ nhà trai vui vẻ tuyên bố sẵn sàng làm theo tập quán bản mường và đúng lời hứa rồi trao âu tiền cho trưởng họ nhà gái trước sự chứng kiến của xóm giềng và bà con hai họ. Sau khi vào lễ bàn thờ nhà gái, chú rể ra ngồi cạnh cô dâu bên mâm lễ để bước vào nghi thức chính của đám cưới. Mở đầu, các nhà sư tụng kinh (xụt-môn dên) cầu nguyện hạnh phúc và vẩy nước phép (hốt nẵm-dên) cho cô dâu chú rể. Ở một số địa phương sư thầy còn rắc những cánh hoa thơm lên mái tóc của cô dâu chú rể mong Trời-Phật ban cho cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc. Tiếp đến là lễ “xù-khoẳn” – một nghi lễ phổ biến ở Lào. Nhưng đây là lễ “xù-khoẳn” đám cưới (xù-khoẳn-đong) được tiến hành trong không khí trang trọng hơn, có tăng lữ, trưởng họ, cha mẹ, bà con, xóm giềng, bầu bạn cả hai họ cùng dự, còn được gọi là lễ cầu may lớn (xù-khoẳn nhày).

Ngồi bên mâm lễ, chú rể khoác tay cô dâu gọi là “xù-khoẳn cặp cài” tượng trưng sự gắn bó thủy chung giữa cô dâu và chú rể. Trưởng họ nhà trai, nhà gái lần lượt chúc cô dâu chú rể thương yêu gắn bó với nhau cho đến lúc tóc bạc răng long, rồi vẩy nước “hỏi sẳng” và buộc chỉ cổ tay. Đây là loại nước tượng trưng cho mối tình gắn bó thủy chung như nhân vật Xẳng-Thong trong truyện thơ Xỉn-xay một tác phẩm cổ điển nổi tiếng ở Lào. Giữa lúc các cụ già, cha mẹ, họ hàng lần lượt buộc chỉ cổ tay cho cô dâu chú rể thì một cụ già lấy quả trứng luộc trên mâm bóc vỏ rồi dùng một sợi tóc cắt làm đôi xem lòng đỏ có đầy đặn không. Người Lào cho rằng sự tròn khuyết của lòng đỏ quả trứng có quan hệ nhất định đến hạnh phúc trăm năm của đôi vợ chồng trẻ. Xem xong cụ già trao cho cô dâu chú rể mỗi người một phần. Cô dâu trao phần trứng của mình cho chú rể tượng trưng cho sự chăm sóc của vợ đối với chồng. Để đáp lại tình cảm đằm thắm đó, chú rể lại trao phần trứng của mình cho cô dâu rồi cả hai cùng ăn.

Ở nhiều địa phương còn tục chọn người dẫn cô dâu chú rể vào phòng ngủ. Đảm nhận việc này là người phụ nữ được chọn làm đại diện họ nhà gái ra đón chú rể ở chân cầu thang. Người phụ nữ này dùng một sợi chỉ gấp làm đôi, mỗi người cầm một đầu rồi dẫn vào phòng ngủ, cô dâu đi trước, chú rể theo sau. Việc trải chiếu nệm do cô dâu chú rể cũng được chú ý. Khi đám rước rể lên nhà thì một người phụ nữ phúc hậu hoặc một cặp vợ chồng đông con cái, sống hòa thuận vào buồng ngủ trải chiếu, nệm cho cô dâu chú rể. Người Lào tin rằng cuộc sống hòa thuận, hạnh phúc của người trải nệm, chiếu có ảnh hưởng đến đôi vợ chồng trẻ sau này.

Tiếp theo chú rể mang nến, hương đến lễ trưởng họ nhà gái. Cô dâu cũng mang lễ vật dâng cho trưởng họ, cha mẹ chú rể. Lễ vật tùy thuộc tập quán mỗi địa phương, mỗi gia đình. Ở nông thôn Lào trước đây cô dâu thường mừng trưởng họ, cha chồng mỗi người một bộ quần áo, một khăn tắm và mẹ chồng một bộ váy áo. Việc làm này biểu hiện lòng kính trọng và biết ơn của cô dâu đối với công sinh dưỡng của cha mẹ chồng. Có địa phương ngay sau đám cưới, trưởng họ nhà gái dẫn cô dâu sang nhà chú rể tặng lễ vật cho trưởng họ và cha mẹ chồng. Có vùng sau đám cưới ba ngày trưởng họ nhà gái mới dẫn cô dâu sang nhà chú rể dâng lễ. Dù thời điểm ở mỗi địa phương có khác nhau, song nghi lễ này thực chất là hình thức biểu lộ tình cảm, sự tôn kính của cô dâu đối với trưởng họ và cha mẹ họ hàng chú rể.

Kết thúc lễ cưới, trưởng họ nhà trai ngỏ lời cảm ơn sự đón tiếp thân tình, nồng nhiệt của nhà gái và xin gửi gắm chú rể ở lại làm con cháu nhà gái. Đại diện nhà gái vui vẻ nhận lời và dặn dò cô dâu cách ứng xử, trách nhiệm đối với cha mẹ, anh em nhà chồng. Đám cưới chấm dứt, chú rể cùng họ hàng trở về nhà mình. Vào một giờ đã hẹn trước, thông thường khoảng sáu, bảy giờ tối, họ hàng nhà trai, đông nhất là bè bạn, chính thức tiễn chú rể sang nhà cô dâu. Nhà gái thường chuẩn bị cơm rượu để đón mừng chàng rể cùng họ hàng, bạn bè nhà trai. Đây là buổi liên hoan cuối cùng của đám cưới thường diễn ra trong không khí hết sức vui nhộn, bởi bạn bè của cô dâu chú rể đến dự rất đông. Họ vừa ăn uống vừa múa hát chúc mừng cô dâu chú rể. Sau lễ cưới, chàng trai ở rể và tham gia lao động sản xuất với gia đình cha mẹ vợ. Chàng rể trở thành một thành viên - một lao động chính của gia đình nhà vợ. Năm ba năm sau, do vợ chồng xin phép hoặc cha mẹ gợi ý cho đôi vợ chồng ra ở riêng. Khi ra ở riêng vợ chồng được mang theo một số lúa gạo, nông cụ, trâu bò và một số đồ dùng khác do cha mẹ vợ chia cho. Thời gian đầu ra ở riêng, nhìn chung cặp vợ chồng thường gặp nhiều khó khăn, lúng túng.

Việc cưới xin ở Lào còn có tục được gọi là “kan-xu” nghĩa là một hình thức cho nợ lễ cưới. Vợ chồng có thể lấy nhau, sau khi làm ăn khá giả, sẽ tổ chức đám cưới theo tập quán của bản mường. Bởi vậy, ở Lào có những cặp vợ chồng có đến hai ba đứa con mới tổ chức đám cưới và con cái được dự đám cưới của cha mẹ. Đó là những trường hợp cha mẹ chàng trai nghèo túng chưa có khả năng lo liệu được hoặc đôi trai gái yêu nhau tha thiết nhưng cha mẹ ngăn cản, họ vẫn có thể lấy nhau và được bản mường cộng đồng công nhận. Để vượt qua rào cản này, thường họ hẹn nhau vào một ngày nào đó, cô gái đón chàng trai đưa vào phòng của mình. Sáng hôm sau cô gái dậy sớm báo cho cha mẹ biết đêm qua có một chàng trai đến “xu”. Được tin, cha mẹ liền cho người đi mời già bản, họ hàng cùng với cha mẹ chàng trai đến chứng kiến và bàn việc cưới xin sau này. Chỉ sau khi cha mẹ, bà con chàng trai đến nhận con và hứa sẽ tổ chức cưới theo tập quán của bản mường thì chàng trai mới được ra khỏi phòng cô gái. Sau nghi thức “xu khoẳn” đơn giản với sự chứng kiến của hai họ, đôi trai gái chính thức trở thành vợ chồng. Ở Lào, trước đây không ít cặp vợ chồng lấy nhau bằng hình thức “xu” nhưng vẫn sống hạnh phúc có con đàn cháu đống. Đây là tục lệ tiến bộ, mang đạm tính nhân văn, giúp các chàng trai cô gái yêu nhau tha thiết vượt qua khó khăn để nên vợ nên chồng. Tất nhiên, nếu nhà trai, chàng rể bội bạc không giữ lời hứa, bỏ vợ con sẽ bị bản mường trừng phạt. Hình phạt tùy mỗi địa phương gia đình nhà gái. Trước kia, con gái chửa hoang bị trừng phạt rất nặng. Ngoài hình thức phạt vạ theo lệ làng như tiền, trâu, bò, cả cô gái lẫn chàng trai còn bị cạo trọc đầu dội nước. Vì theo tục lệ bản làng cho rằng đó là hiện tượng không bình thường có thể ảnh hưởng xấu đến sinh hoạt, lao động sản xuất của cộng đồng.

Ngày nay việc cưới xin ở Lào cả ở thành thị cũng như nông thôn thường được tổ chức theo đời sống mới. Các nghi lễ câu nệ gây lãng phí tiền của, thời gian ngày càng giảm dần. Tuổi kết hôn có khuynh hướng chậm hơn trước, nhất là nam giới. Các nét độc đáo của dân tộc, địa phương gắn chặt với lao động sản xuất, nghè nghiệp, tín ngưỡng vẫn được kế thừa và phát huy trong lễ cưới. Đặc biệt là tính hợp quần, tình đoàn kết của cộng đồng bản mường.

10- Ma chay Trước đây người Lào coi cái chết là bước ngoặt quan trọng cuối cùng của đời người, bởi nó chấm dứt một kiếp tu nhân tích đức, chuẩn bị chuyển sang một kiếp khác. Nhờ kiếp này tích được nhiều phúc đức nên kiếp sau sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn. Đối với các phật tử Lào, cái chết không chỉ là sự mất mát buồn thương mà còn là hình thức giải thoát của con người từ kiếp này sang kiếp khác.

Quan niệm trên được thể hiện khá đậm nét trong các nghi thức tổ chức ma chay ở Lào. Đặc biệt là các tín ngưỡng cổ, thuyết luân hồi, quan niệm về sự thống nhất và mâu thuẫn giữa các sung lực như: âm-dương, sinh-tử, phúc-tội dường như xuyên suốt các nghi thức. Người Lào cho rằng cái chết của con người gồm hai loại: chết lành (tai-đi) và chết dữ (tai hãi). Người chết do già yếu, bệnh tật thông thường được coi là chết “lành” hợp quy luật. Người chết không bình thường, chết bất đắc kỳ tử (chết đuối, hổ vồ, cây đè, sét đánh, tai nạn…) đều coi là chết “dữ”. Theo phong tục ở Lào, chỉ những người chết “lành” mới được tổ chức ma chay đầy đủ nghi thức của lệ làng. Còn cái chết “dữ” được coi là bị trừng phạt do kiếp trước có nhiều tội lỗi nên lúc chết không tắm xác, phải chôn, không được hỏa thiêu. Sau khi chôn cất, người thân thường làm lễ cầu hồn, mời sư sãi đến đọc kinh cầu nguyện giải thoát cho oan hồn. Nhưng dù là cái chết lành hay dữ, hình thức tổ chức ma chay có đôi chỗ khác nhau, đối với người Lào thì đây là dịp thể hiện tình cảm gia đình, anh em, xóm giềng, tính hợp quần, sự hòa nhập của mỗi thành viên trong cộng đồng, một truyền thống tốt đẹp được hình thành qua bao thế hệ gắn bó bên nhau trong sản xuất đấu tranh.

Khi trong nhà có người đang hấp hối thì con cháu nhanh chóng soạn mâm lễ đơn giản có gạo, nến, hương hoa để người sắp vĩnh biệt kiếp này kịp làm lễ cầu Phật lần cuối cùng. Có địa phương con cháu mang hương hoa đến lễ và nhận mọi tội lỗi mình đã gây ra đối với người sắp qua đời. Người Lào cho rằng với việc làm ấy sẽ làm cho người đang hấp hối tự tin hơn ở cuộc sống kiếp sau và khi chết sẽ góp phần đem lại sự bình yên, may mắn cho các thành viên trong gia đình.

Trong nhà có người thân mới tắt thở, con cháu báo tin ngay cho họ hàng và tuy đau thương nhưng người Lào không khóc lóc thảm thiết mà thường nén lòng chịu đựng. Chủ tang lễ là người thân trong gia đình, anh em thân thiết hoặc một thầy pháp có uy tín trong bản. Khi anh em, bà con đến đầy đủ, người thân bắt đầu tắm cho người chết (ạp-nẵm-xộp) bằng nước nóng hay nước lạnh. Một số địa phương có tục tắm cả bằng nước nóng lẫn nước lạnh. Sau đó được rửa lại bằng nước thơm (trước kia thường là nước được ngâm các loại hoa). Người chết là ông bà cha mẹ, con cháu thường dùng nước dừa non để rửa mặt. Những gia đình quyền quý còn có tục dùng giấy in dấu tay chân để thờ cúng. Tắm rửa xong, người thân lấy một cái lược mới bẻ gẫy rồi chải đầu, một mái tóc chải ngược về phía sau, một mái chải xuôi về phía trước (vỉ phổm xộp). Chải xong chiếc lược đem vứt bỏ, người sống kỵ không được dùng. Về khâm liệm (nũng hồm pha xộp) nếu mặc quần áo phải mặc hai bộ, bộ bên trong lộn trái, bộ bên ngoài mặc bình thường. Nếu liệm bằng vải (pha hảng) cũng quấn hai lớp, lớp bên trong đuôi vải liệm gài phía trước và lớp ngoài đuôi vải liệm gài phía sau. Những tục trên, theo người Lào là thể hiện tính kế tục giữa cái chết và sự sống.

Khâm liệm xong, thi hài được đặt lên giường, chân tay duỗi thẳng. Con cháu lấy hương hoa để trong cái đĩa hoặc đặt lên một cái gối để bên cạnh rồi lấy nước thơm vẩy lên thi hài (hốt nẵm hỏm xộp). Sau khi vẩy nước thơm, người thân lấy đồng tiền được mài sáng cho vào miệng người chết (ngân sày pạc xốp). Nhiều vùng ở Lào thường dùng đồng hào bằng bạc với ý nghĩa để người chết tiêu pha trên đường chuyển sang kiếp khác. Gia đình giàu sang thường dùng vàng sống trong lễ phạn hàm. Nếu lúc sống nghiện trầu cau thì khi chết con cháu cũng giã trầu cau cho vào miệng. Tiếp đó, người thân cầu khấn và lấy chỉ trắng buộc một vòng vào cổ, hai tay, hai chân người chết (mắt xốp) rồi thắt ba nút. Người Lào kỵ không cắt chỉ thừa sau khi buộc. Sau đó người thân dùng sáp ong gắn mắt, mũi, miệng, hai lỗ tai người chết. Các tục này gắn với niềm tin là làm cho linh hồn người chết được thanh thản khi chuyển sang kiếp khác, rũ bỏ mọi vấn vương của kiếp trước và dầu muốn cũng không thể quay lại kiếp cũ vì đã mất hết cảm giác, không nghe, không thấy không biết đường cũ để quay về. Ngoài ra nó còn xuất phát từ quan niệm cho rằng cuộc đời mỗi con người đều bị ràng buộc bởi ba điều là vợ, con và của cải mà tục ngữ Lào đã đúc kết: “Quý con như dây buộc cổ, quý vợ như vợ buộc tay, quý của cải như vòng trói chân” (hắc lục pan xược phục kho, hắc mia pan po phục xoọc, hắc khãu khỏng pan pọc xụp tin).

Ở Lào, người chết dù chôn hay thiêu cũng dùng áo quan. Áo quan thường là một thân cây gỗ đục hoặc bằng gỗ ghép. Dưới áo quan thường được lót lá chuối khô, thuốc lá, sợi, gạo rang hoặc lá ớt sấy khô. Một số địa phương còn có tục làm một chiếc cầu thang nhỏ có ba bậc (khẵn-đay xốp) để trong quan tài giúp người chết lên xuống dễ dàng. Đến ngày giờ đã chọn trước, con cháu đến đầy đủ, sau khi các nhà sư tụng kinh, người chết được đặt vào áo quan rồi dùng nhựa cây gắn nhiều lớp thật kín và được để trong nhà từ ba đến bảy ngày. Con cháu, người thân thay nhau túc trực bên quan tài. Ở hai đầu quan tài thường xuyên thắp nến hoặc đèn dầu. Hàng ngày, đến bữa ăn, con cháu đem cơm, thức ăn, kể cả thuốc lá, trầu cau đặt trên quan tài để cúng. Trong thời gian để quan tài trong nhà, hàng ngày đến giờ quy định, con cháu mời sư sãi đến tụng kinh cầu nguyện và tổ chức dâng cơm cho sư (liệng-phạ). Số lượng tăng lữ tùy khả năng, yêu cầu của mỗi gia đình, nhưng trong ma chay thường ít nhất cũng có năm nhà sư đến tụng kinh cầu nguyện cho linh hồn người chết được siêu thoát.

Người Lào rất xem trọng hướng đặt thi hài (tẵng-xộp). Ngay sau khi tắt thở, dù đặt nằm ở đâu hay khi đã nhập quan thì đầu luôn quay về hướng tây, chân về hướng đông và không đặt người chết nằm cùng chiều với giát sàn nhà.

Trong nhà có ma chay, người Lào thường ngăn nhà gọi là “khốp-ngăn”. Phòng đặt quan tài để bà con xóm giềng, bè bạn đến phúng viếng gọi là ‘hươn đi” (nhà tốt). Phòng kế bên là nơi ăn uống, ngâm vị thơ ca, đọc những pho truyện cổ dân gian, đánh bài, vui chơi thâu đêm để mừng cho gia chủ có người được siêu thoát, đưa tiễn một thành viên trong bản làng chuyển sang kiếp khác tốt đẹp hơn. Có thể nói từ lúc trong nhà có người chết cho đến khi chuyển quan tài ra nơi hỏa táng, phòng này dường như không bao giờ thiếu không khí tươi vui rộn ràng. Bởi vậy cho nên ở Lào khi đi dự tang lễ không chỉ có thái độ buồn đau, thương cảm mà sau khi vào viếng và chia sẻ cùng tang gia, khách sang phòng bên có thể hòa nhập cùng gái trai ăn uống, hát ca. Việc tổ chức ma chay lớn hay nhỏ tùy gia đình. Nhà khá giả có khả năng, đón tiếp bà con xóm giềng đến viếng, tổ chức ăn uống linh đình thì có thể để quan tài trong nhà bảy ngày hoặc lâu hơn nữa. Gia đình nghèo thường chỉ trong hai ba ngày là đem hỏa táng.

Sau mấy ngày, anh em, bà con xóm giềng đến viếng người qua đời, chia buồn cùng tang gia và dự vui chơi, người thân chuẩn bị đưa tang (xồng xạ-can xộp). Đây là nghi lễ quan trọng nhất của đám tang. Ngoài con cháu họ hàng còn có tăng lữ và xóm giềng đến dự. Nếu người qua đời là ông bà, cha mẹ, thường con trai, cháu trai từ bảy tuổi trở lên cạo đầu đi tu năm bảy ngày hay một tháng. Con gái, cháu gái hoặc con trai không có điều kiện đi tu thì bận áo váy màu trắng. Con cháu đi tu càng đông thì càng tích đức được nhiều phúc đức cho người đã khuất. Bà con, họ hàng gần, khi đi đưa tang bận quần áo trắng. Trước kia ở nông thôn có tục người chết ở buồng nào thì đặt ở buồng ấy. Khi chuyển quan tài ra khỏi nhà, phải dỡ liếp hay ván thưng để tránh khiêng qua kèo nhà. Người Lào cho rằng khiêng quan tài qua kèo nhà sẽ ảnh hưởng xấu đời sống, lao động sản xuất của con cháu. Tục kiêng kỵ này ngày càng giảm dần và ngày nay hầu như không còn nữa. Trước khi đưa quan tài ra nơi hỏa táng, người thân mời tăng lữ xuống tụng kinh, mời thầy pháp đến làm phép đuổi ma tà, bệnh tật.

Gia chủ vẩy nước phép từ chỗ đặt quan tài ra đến hiên đầu cầu thang, ném các khăn lau bẩn lên bàn ghế, đổ hết nước trong các chum vại rồi úp miệng xuống đất. Sư sãi tụng kinh xong, con cháu tắt tất cả đèn nến đang cháy trên quan tài (đắp phay xốp), sau đó lại thắp lại. Theo người Lào tục này tượng trưng cho cái chết - chấm dứt cuộc đời của một kiếp và sự sống của một kiếp mới sẽ bắt đầu. Để chuẩn bị chuyển quan tài ra khỏi nhà, con cháu, người thân lần lượt vái lễ một lần nữa. Bạn bè, xóm giềng tập trung ở chân cầu thang chờ tiễn đưa người đã khuất ra nơi hỏa táng. Đi đưa đám ma, người Lào thường mang theo hương, hoa, bó củi, cà-bong, dầu hôi… Khi quan tài được chuyển xuống đất, gia chủ liền đảo cầu thang, mặt trong chuyển ra mặt ngoài (phíc khăn-đay) và lấy một cành cây có gai buộc vào chân cầu thang trong bảy ngày. Ở cửa ra vào, gia chủ cũng dắt hai cành cây nhỏ cài vào nhau và khi khiêng quan tài ra khỏi nhà mới tháo bỏ. Tục này với ý nghĩa ngăn chặn không cho ma quỷ lên nhà quấy rầy đồng thời để người chết không thể quay trở lại mà phải chuyển sang một kiếp khác.

Ở nông thôn, người Lào thường khiêng quan tài từ nhà ra nơi hỏa táng hay chôn cất. Ở đô thị có thể dùng xe do người đẩy hoặc xe hơi. Dù bằng phương tiện nào người Lào cũng luôn chú ý để chân ra phía trước. Nếu khiêng thì kỵ không được đổi vai hoặc dừng chân ở dọc đường. Thông thường bà con xóm giềng ghé vai khiêng một mạch, từ nhà ra địa điểm hỏa táng. Dẫn đầu đám tang là các nhà sư tay cầm sợi chỉ trắng nối liền với quan tài (chung xộp). Tiếp sau là con cháu nắm vào sợi dây để cùng dẫn người đã khuất ra nơi hỏa táng. Xóm giềng, bè bạn đi sau quan tài. Đám tang từ nhà ra bãi tha ma, con cháu thường không khóc lóc, than vãn mà chỉ sụt sùi để còn lắng nghe các nhà các nhà sư tụng kinh cầu nguyện. Khi đưa đám người Lào có tục rắc gạo (xắt khạu-xản), rắc bỏng (vàn khạu-tọc chẹc) đồng thời rải các cành cây ngang dọc đường (mãy khịt-thang) hoặc bẻ gẫy các cây nhỏ hai bên đường.

Chọn vị trí chôn cất hay hỏa táng trong bãi tha ma, người Lào thường dùng một nắm xôi hay quả trứng tung lên, nếu rơi xuống chỗ nào thì chọn chỗ ấy làm nơi quả táng hay chôn cất với quan niệm chủ chỗ đất ấy đã chấp nhận (thĩ pổng xộp). Trước ngày hỏa táng, con cháu, họ hàng vào rừng chặt củi chất thành dàn lớn, bốn góc đóng bốn cái cột (kong phon). Trước khi đặt quan tài lên dàn thiêu, quan tài được khiêng đi quanh ba vòng (viên xảm họp), từ trái sang phải. Có địa phương còn có tục lấy đòn khiêng gõ vào quan tài ba lần trước lúc đặt lên dàn thiêu. Để giữ cho quan tài không bị đổ xuống lúc hỏa thiêu, người ta dùng hai cây cột lớn dài chôn sâu xuống đất để nẹp hai bên quan tài gọi là “mạy khồm hểng”.

Mở đầu lễ hỏa táng, các nhà sư đọc kinh cầu nguyện, vẩy nước phép rồi tháo sợi chỉ trắng buộc quan tài. Vải vóc, áo quần để trên quan tài cũng được bỏ ra. Con cháu, bà con, xóm giềng dự lễ đều kính cẩn chắp tay trước ngực nghe tăng lữ tụng kinh. Chủ tang lễ một tay đặt xuôi trước ngực, một tay cầm bình nước phép rỏ xuống đất để dâng phúc đức cho người chết - có thể nói đây là nghi lễ có không khí trang nghiêm nhất trong các bước tổ chức ma chay ở Lào. Trước lúc vị sư châm mồi lửa vào dàn thiêu, chủ tang lễ cho tung tiền bố thí (vàn kạ-lạ-phức). Đó là những quả “mạc-khụt” (giống quả chấp, dùng để gội đầu nhưng vỏ xù xì), những bẹ chuối cắt nhỏ thành hình thù khác nhau, bên trong nhét tiền. Thế là trẻ em, cả người lớn đi dự đám tang đều xông vào nhặt, họ tranh giành, xô đẩy nhau tạo không khí hết sức ồn ào náo nhiệt. Vào dịp này những gia đình khá giả thường làm lễ dâng tiền bạc, vải vóc cho các nhà sư dự tang lễ và tổ chức tung tiền bố thí suốt từ nhà ra nơi hỏa táng. Khi ngọn lửa trên dàn thiêu bốc cháy, những người đi dự đều góp thêm lửa nhưng không được châm lửa của nhau. Họ tự đánh diêm hoặc châm từ một đống lửa đã đốt sẵn ở bên ngoài. Đến đây, lễ hỏa táng coi như kết thúc. Khi về nhà, con cháu thường tắm rửa, gội đầu, hơ lửa để xua đuổi tà khí hay làm lễ “xù khoẳn”. Có gia đình thỉnh sư sãi xuống làm lễ đọc kinh cầu nguyện cho gia chủ bớt nỗi nhớ thương, tránh mọi ốm đau bệnh tật, ma quỷ không đến quấy rầy gọi là lễ “mông-khôn”. Tục thiêu xác trở thành phổ biến ở Lào đối với những người chết bình thường (tai-đi). Nhưng không phải ngày nào cũng có thể làm lễ hỏa táng. Xưa nay người Lào không làm lễ hỏa táng vào các ngày kiêng kỵ (văn phạ) hoặc vào thứ ba. Theo người Lào, hỏa thiêu vào những ngày ấy sẽ ảnh hưởng không tốt đến con cháu. Ngày giờ thiêu thường do các già bản hoặc thầy pháp tính toán quyết định.

Ba ngày sau khi thiêu xác, người thân mời bà con, xóm giềng, và các nhà sư ra làm lễ nhặt xương (kết đục). Cùng với tiểu đất nung, nước rửa xương, tang gia còn chuẩn bị cơm, nước, bánh trái để cúng hồn người chết. Chủ tang lễ khấn báo cho linh hồn người chết ngày mai con cháu sẽ làm lễ “khạu-chẹc” và mời về dự trước khi đi đầu thai một kiếp khác. Khấn xong người thân nhặt xương xếp thành hình người nằm quay đầu về hướng Tây với ý niệm đây là người chết rồi tăng lữ đọc kinh gọi là “xụt-môn xắc-băng xạ-cun tai”. Ngay sau đó, người thân lại xếp bộ xương thành hình người nằm quay đầu về hướng Đông, tượng trưng cho sự sống, các nhà sư lại đọc kinh gọi là “xụt-môn băng xạ-cun pên”. Tăng lữ tụng kinh cầu nguyện xong, coi như kết thúc các nghi lễ ma chay ở Lào. Con cháu gạt than, tro xuống một cái hố gần nhất để chôn. Cốt của ông bà, cha mẹ được rửa sạch cho vào tiểu sành đem về chùa chôn và có thể dựng một tháp nhỏ lên trên. Vào những ngày kiêng kỵ hoặc lễ hội, mỗi khi lên chùa nghe tụng kinh niệm Phật, người thân thường ghé qua phần mộ này đặt bông hoa, thắp nén nhang khấn vái tưởng nhớ người đã khuất. Ngày nay cùng với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội mặt bằng dân trí ngày càng được nâng cao. Đặc biệt thế hệ trẻ có điều kiện học tập văn hóa tiếp cận với khoa học kỹ thuật. Dù còn nhiều tồn tại trong nếp nghĩ, thói quen của tập tục cũ đã có từ lâu đời, việc tổ chức ma chay ở Lào có xu hướng tiến bộ rõ rệt, những hủ tục rườm rà tốn kém được giảm dần, những tục lệ tốt đẹp được kế thừa và phát huy.

11- Ca múa nhạc Nhân dân các dân tộc Lào rất thích ca múa, đặc biệt là các làn điệu dân ca truyền thống. Không chỉ trong những ngày lễ hội, vui chơi hợp quần… người Lào còn hay ca hát trong sản xuất ngoài ruộng nương, đi hái lượm trong rừng, xuôi ngược trên các dòng sông.

Dân ca Lào rất phong phú, giàu âm điệu, mang đậm bản sắc dân tộc được phổ biến rộng rãi trong nhân dân từ nông thôn đến thành thị. Người có công lớn trong việc sưu tầm, phổ biến và nâng cao các làn điệu dân ca là các “mỏ-lăm” (ca sĩ), “mỏ khen” (nhạc công, thổi khèn bè). Đội ngũ “mỏ lăm, mỏ khen” ngày càng phát triển trước yêu cầu thưởng thức ca múa của nhân dân ở các bản mường, trong đó có nhiều nghệ sĩ tài ba nổi tiếng vừa có thể sáng tác vừa biểu diễn được đông đảo nhân dân ưu ái, mến mộ. “Mỏ lăm” ở Lào có vị trí thật đặc biệt trong xã hội. Họ sống gần gũi nhân dân, đi đến bản làng nào cũng được đón tiếp nồng nhiệt. Họ am hiểu sâu sắc cuộc sống, xã hội Lào, nắm bắt được tình cảm, ước mơ của các tầng lớp nhân dân. Có thể nói, họ là một tri thức, một nghệ sĩ của nhân dân, được nhân dân nuôi dưỡng. Dân ca của Lào có nhiều loại như lăm, khắp, xỡng, kạp, ăn nẳng-xử… Mỗi loại lại mang sắc thái riêng của từng miền, từng dân tộc, từng địa phương. “Lăm” sử dụng nhiều thể loại thơ nhất được quần chúng ưa thích nhất và phổ biến trong cả nước.

1. Lăm (ca) Theo các “mỏ lăm” ở Lào thì “lăm” được chia thành hai loại là “lăm-xẵn” (khúc ca) và “lăm nhao” (trường ca) còn gọi là “lăm lượng” nghĩa là ca sĩ thuật lại một câu chuyện thơ bằng các làn điệu dân ca.

  1. “Lăm xẵn”: là những bài ca ngắn diễn đạt tâm tư, cảm xúc của con người như niềm vui, nỗi buồn, cảnh chia ly thương nhớ hoặc châm biếm, hài hước, phổ biến là tình yêu lứa đôi. Lời của “lăm xẵn” thường là văn vần, giàu hình tượng đã có từ trước hoặc sáng tác ứng khẩu theo tình huống đặt ra. Trai gái thường vận dụng ca dao, “phạ-nhả” (câu ví) - phong phú của dân tộc để ca đối đáp lẫn nhau. “Lăm-xẵn” thường có hai người hoặc hai tốp ca đối đáp lẫn nhau, kết hợp với múa. “Lăm-xẵn” có nhiều làn điệu khác nhau mang tính địa phương, phản ánh điều kiện sản xuất, thiên nhiên, con người như “lăm loòng”, “lăm vay”, “lăm tạy”, “lăm tỡi”, “lăm tắt”… - “Lăm-loòng”: từ Viêng-chăn trở xuống miền Nam Lào, đặc biệt nhân dân sinh sống ven sông rất thích “lăm loòng”, còn được gọi là “lăm loòng-khoỏng” (ca xuôi dòng Mê-kông). Xuôi ngược trên các dòng sông vào đêm khuya thanh vắng các chàng trai, cô gái hay “lăm loòng”. Nhịp điệu của “lăm loòng” thường ngân dài, lúc bổng lúc trầm tha thiết, uốn lượn, mênh mong như sóng nước. Nội dung “lăm loòng” chủ yếu miêu tả sông nước, mây trời, làng xóm, bến bờ, cảnh vật ven sông. - “Lăm-vay”: phổ biến ở các địa phương miền Trung. “Lăm-vay” cũng diễn tả thiên nhiên, ruộng rẫy, bản làng nhưng nhịp điệu sôi nổi như thôi thúc, giục giả, có lúc như giễu cợt. “Lăm-vay” cũng kết hợp với múa nhưng chỉ múa lúc ngừng ca hoặc múa giữ nhịp theo tiếng khèn bè. - “Lăm-tạy”: (ca phía Nam) còn gọi là “lăm xỉ-phăn-đon” (tên một địa phương của tỉnh Chăm-pa-sắc) một loại ca ở các tỉnh miền Nam. Nhịp điệu “lăm-tạy” dịu dàng, uyển chuyển. Lời ca “lăm-tạy” thường giàu hình ảnh, ví von, đối đáp, tỏ ý, tỏ tình. - “Lăm-tắt”: là những khúc ca phản ảnh sự việc, cảnh vật trong xã hội, thiên nhiên. “Lăm-tắt” thường có một người biểu diễn, có đệm khèn bè, kết hợp với múa nhưng ít hơn các loại “lăm” khác. Nhịp điệu của “lăm-tắt” êm ái, tầm bổng, chậm rãi, thỏa mãn thính giác mọi người. Mở đầu “lăm-tắt”, người biểu diễn thường dạo giọng bằng tiếng “ồ” ngân dài, trầm lắng và người nghe thường hò reo đế theo. - “Lăm-tỡi”: (giống hát ví) “Lăm-tỡi” là loại “lăm” phổ biến trong cả nước, đặc biệt từ Viêng-chăn xuống các tỉnh miền Nam. Nhịp điệu của “lăm-tỡi” sôi nổi, dồn dập như những đợt sóng. “Lăm-tỡi” thường được biểu diễn hai người, một trai, một gái, vừa ca vừa múa theo tiếng khèn bè. Trong “lăm-tỡi” múa được sử dụng nhiều hơn, hai người biểu diễn múa lượn (phõn-kiễu) nhịp nhàng, tình tứ quấn quít bên nhau. Có thể nói “lăm-tỡi” là sự kết hợp biểu diễn khéo léo những động tác để diễn đạt tình cảm như: lời ca, múa, ánh mắt, nụ cười. Nội dung các khúc ca “lăm-tỡi” thường xoay quanh tình yêu trai gái, đôi bên tỏ ý tỏ tình, niềm thương nỗi nhớ hoặc trai gái gặp gỡ thử tài trí nhau, thách đố lẫn nhau, giễu cợt nhau. Họ phải vận dụng kho tàng ca dao, “phạ-nhả”, nhiều lúc phải tự đặt ra để đối đáp. Trong “lăm-tỡi” lại có một số làn điệu “tỡi” khác mang sắc thái địa phương như tỡi hủa-nuôn-tan, “tỡi pha-mã”, “tỡi khon xạ-vẳn”, tởi xỉ-phôn… Tỡi pha-mã được ca ở một số bản mường miền Bắc nhưng không phổ biến. Tỡi khon xạ-vẳn và tỡi xỉ-phôn được ca ở một số địa phương miền Trung, thường có lời ca dài hơn các làn điệu “lăm tỡi” khác. Về nhịp điệu, ba loại “lăm tỡi” trên không sôi động bằng “tỡi hủa nuôn tan”. “Tỡi hủa nuôn tan”, còn được gọi là “tỡi Ma-hả-xay” (tên một địa phương trong tỉnh Khăm-muôn, trung Lào là loại “tỡi” phổ biến nhất, được đông đảo nhân dân ưa thích nhất. “Lăm-tỡi” được ca rộng rãi trong mọi dịp như: lễ hội, đêm liên hoan, cuộc họp bản làng, trai gái gặp nhau trong những đêm trăng sáng, đi hái lượm trong rừng, ngồi trong các chòi canh lúa, ngô trên ruộng rẫy… Nhịp điệu của “tỡi hủa-nuôn-tan” sôi trào, dồn dập nối tiếp nhau tưởng chừng như không bao giờ dứt. Đây là những khúc ca ngắn, có giai điệu rõ ràng, nhịp điệu nhất quán từ đầu đến cuối.
  1. Lăm-nhao: (trường ca) thường có các ca sĩ chuyên nghiệp trình diễn. Vào dịp lễ hội lớn, dân bản thường cử người đi mời các “mỏ-lăm” về biểu diễn. Cùng đi với “mỏ-lăm” còn có “mỏ-khen” (nhạc công chuyên thổi khèn bè). Mỗi lần về bản, họ thường ở lại biểu diễn một vài tối và là khách quý của bản mường. Được tin có “mỏ-lăm” về biểu diễn, nhân dân các bản xa gần cũng nô nức kéo nhau về dự làm đêm hội thêm đông vui nhộn nhịp. Bằng các làn điệu dân ca, người “mỏ-lăm” trình diễn một trích đoạn hoặc một truyện thơ nổi tiếng ở Lào như Xỉn-xay, Thão Hùng, Thão-Chương, Ka-lạ-kệt, Cham-pa-xi-tỗn, Teng-Òn… Hòa quyện với tiếng khèn bè rộn rã, “mỏ lăm” khéo vận dụng các làn điệu dân ca diễn tả một cách sinh động, phù hợp với cảnh, với người trong câu chuyện như: khi leo dốc nhịp điệu chậm rãi, nước chảy nhịp réo rắt, xuôi thuyền trên sông nhịp êm ả, khoan thai, miêu tả núi rừng nhịp điệu trầm hùng, ngợi ca chiến công nhịp điệu nhanh, sôi nổi … Các buổi biểu diễn “lăm-lượng” thường kéo dài đến khuya, có khi thâu đêm, các “mỏ-lăm” thường thay nhau biểu diễn từng đoạn. Dân bản lắng nghe một cách thích thú và thỉnh thoảng hò reo tán thưởng. Ngày nay, “lăm-lượng” vẫn được nhân dân Lào ưa thích, đặc biệt ở nông thôn. Không riêng ở Lào, mà vùng đông bắc Thái Lan “lăm-lượng” cũng phổ biến. Vào các ngày lễ hội, chợ phiên buổi tối thường có tụ điểm tổ chức “lăm-lương”. Do thời lượng dài nội dung “lăm-lượng” phong phú, bố cục chặt chẽ hơn “lăm-xẵn”. Đặc điểm chung của văn thơ cổ của Lào là để ca nên các tác giả hết sức chú ý đến nhịp điệu, gieo vần (phổ biến là gieo vần lưng). Một số tác phẩm văn xuôi được chuyển thành thể văn vần. Trước đây, một số tác giả người Lào đã mượn cốt truyện thần thoại, anh hùng ca trong Ramayana của Ấn Độ để sáng tác. Tuy có sự vay mượn nhưng các tác giả đã dựng lại trong bối cảnh của xã hội Lào, nhân vật mang tâm tư tình cảm của người Lào và được viết theo thể thơ ca quen thuộc của Lào.

2. “Khắp” Cùng với “lăm”, “khắp” cũng là thể loại dân ca phổ biến ở Lào. “Khắp” là những khúc ca ngắn giống hò ở Việt Nam (hò lơ, hò mái nhị, hò giã gạo… “Khắp” xuất hiện khá sớm trong lịch sử và gần như một hình thức thơ trữ tình ở Lào. “Khắp” có một số nét khác với “lăm”. Về nhịp điệu “khắp” tự do hơn “lăm”. Âm thanh của “khắp” trầm lắng, dịu dàng. Mở đầu, dạo giọng “khắp”, người ta thường cất tiếng “ời” ngân dài vút cao nồng nàn, tha thiết, sau đó người nghe đế, hò theo. Lúc kết, “khắp” cũng ngân dài nhưng trầm xuống. Lời của “khắp” có thể không phải là văn vần. Nhạc cụ đệm cho “khắp” ít dùng khèn bè, mà là cây nhị hai dây (xo). Với đặc điểm trên “khắp” được coi là có tính quần chúng, thể hiện tình cảm rõ hơn “lăm”. Riêng “khắp” Ngừm (Viêng-chăn) khó phân biệt, vì vừa là “khắp” vừa mang tính chất “lăm-loòng”. Nội dung của “khắp” rất phong phú, nhưng thường phản ánh tình cảm của con người trước cảnh vật, cuộc sống sinh hoạt quen thuộc của bản mường. Những hình ảnh thân thuộc, bình thường nhưng đã gắn bó với mỗi người suốt cuộc đời như dòng sông, bến nước, gốc bồ đề cổ thụ, tiếng trống chùa… đều đi vào “khắp”. Trai gái cũng dùng “khắp” để tỏ ý tỏ tình nhưng thường tế nhị, kín đáo hơn “lăm”. “Khắp” được phổ biến rộng rãi ở các tỉnh miền Bắc Lào. Mỗi địa phương, mỗi dân tộc lại có làn điệu “khắp” mang sắc thái riêng của mình. Ở Luổng-pha-bang có “khắp” Thum, Xam-xao, “khắp” Xăm ở Xăm-nửa, “khắp” Lự ở Mường Xinh, “khắp” Ngừm ở Viêng-chăn, “khắp” Tăng-vải ở Xa-vẵn-nạ-khệt. Dân tộc Phu-thay, Thay Đăm có làn điệu riêng gọi là “khắp” Phu-thay, “khắp” Thay-đăm…

3. Xỡng Xỡng cũng là một thể loại dân ca đơn giản, xuất hiện sớm nhất ở Lào nhưng không phổ biến. Ca “xỡng” thường kèm với múa một người hoặc tập thể. “Xỡng” cũng có nhiều loại như: xỡng bẵng-phay (ca trong lễ hội pháo thăng thiên), “xỡng” xuồng-hưa (ca trong lễ hội đua thuyền)… Trong đám cưới, các cụ già thường ca “xỡng” mừng cô dâu, chú rễ hoặc những ca khúc dành cho trẻ tuổi nhi đồng.

4. “Àn nẳng-xử” (ngâm vịnh) Đọc có diễn cảm hoặc ngâm vịnh theo nội dung của một bài thơ hay một câu chuyện. “Àn nẳng-xử” phổ biến nhất ở Luổng-pha-bang.

5. I-kê-la-khon Là hình thức ca nhạc-kịch cổ có từ lâu đời ở Lào. Nội dung của “I-kê” thường là những chuyện, truyền thuyết, cổ tích, ngợi ca những nhân vật anh hùng, những người có công với bản mường trong lao động sản xuất, bản vệ bản làng, những người nêu cao cái thiện, giàu lòng bác ái, từ bi. Ngoài ra còn có nhiều vở “I-kê” đả kích bọn áp bức bóc lột, phê phán thói hư tật xấu trong nội bộ nhân dân. Nhưng nhiều nhất vẫn là nội dung ca ngợi tình yêu quê hương đất nước, tình yêu trong sáng, thủy chung của nam nữ thanh niên.

6. Loọng-phêng (hát) “Phêng” ở Lào có hai loại: những bài hát mới (tân nhạc), ảnh hưởng dòng nhạc phương Tây và Thái Lan; một loại “phêng” tách ra từ I-kê (ca nhạc kịch).

Những bài hát mới do các nhạc sĩ Lào sáng tác, bước đầu không mấy thành công. Số bài hát hay được phổ biến rộng rãi không nhiều. Một thời gian sau mới xuất hiện một số bài hát mới thấm đượm chất liệu dân ca, nội dung ca ngợi quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc được phổ biến rộng rãi trong cả nước. Suốt một thời gian dài những ca khúc này thường được thay lời mới cho phù hợp với thời đại và vẫn được quần chúng ưa thích. Từ đây, “loọng-phêng” đã khẳng định được vị trí của mình nhất là trong tầng lớp thanh thiếu niên ở các đô thị.

Loại bài hát tách ra từ “I-kê” (ca nhạc kịch) gần gũi với dân ca được ưa chuộng không kém “lăm”, “khắp”. Loại nhạc này giàu âm điệu, uyển chuyển, nhịp nhàng gắn với các điệu múa truyền thống của Lào. Một số nhạc sĩ Lào đã thành công trong sáng tác những bài hát mới trên cơ sở kế thừa và phát huy loại nhạc này.

7. Múa Múa ở Lào cũng phổ biến rộng rãi, từ thành thị đến nông thôn. Trong những ngày lễ hội lớn nhỏ ở Lào đều tổ chức vui chơi hợp quần trong đó không thể thiếu tiết mục múa. Có điệu múa một người, hai người hoặc tập thể vài chục người (lăm-vông). Những đêm hội, già trẻ, gái trai đều tham gia múa ca một cách tự nhiên thoải mái. Các điệu múa của Lào thường uyển chuyển, nhịp nhàng theo nhịp trống, động tác khá tự do, mang đậm màu sắc dân tộc.

Các điệu múa xuất hiện sớm nhất ở Lào là múa “Bẵng-phay”, “Lăm phen”, rồi đến điệu múa “Xỉ-nuôn”, “Kò-thạt”, Đoọc-bua (hoa sen)… Múa “Bẵng-phay” là điệu múa tập thể trong ngày lễ hội pháo thăng thiên (Bẵng-phay). Múa “Lăm-phen” giống múa tiên ở Ấn Độ, Cam-pu-chia, In-đô-nê-xia. Múa “Kò-thạt” là múa tập thể xung quanh ngọn tháp trong các ngày lễ hội tôn giáo. Đặc biệt là múa “lăm-vông” (múa vòng tròn) tuy xuất hiện sau nhưng được phổ biến rộng rãi từ Bắc xuống Nam, từ nông thôn đến thành thị và được coi như điệu múa tập thể tiêu biểu của dân tộc. Múa “lăm-vông” xuất hiện vào thời điểm nào của lịch sử, đến nay chưa có lời giải đáp thống nhất của các nhà nghiên cứu văn hóa Lào, nhưng nó đã tồn tại nhiều thập kỷ qua và ngày nay nó vẫn có vai trò thật đặc biệt. Trong các ngày lễ hội, dịp vui chơi tập thể, các buổi liên hoan của một cơ quan, nhà trường, đơn vị vũ trang đều mở đầu và kết thúc bằng “lăm-vông”. Từng đôi nam nữ (có thể cả hai đều là gái hoặc trai) múa vòng tròn theo nhịp trống (nhịp 2/4 hoặc 4/4). “Lăm-vông” dễ múa, động tác sinh động, duyên dáng, uyển chuyển. Có thể “lăm-vông” xuất phát từ điệu múa “lăm-thôn” (múa 1 người).

Trước đây giai cấp phong kiến quý tộc Lào thường tổ chức múa cung đình và dùng đàn “la-nát” (đàn thuyền). Đan “la-nát” ít phổ biến và dường như ít thấy ở các bản làng chốn thôn quê. Ở thành thị, một số gia đình quý tộc, giàu sang mới dùng đàn “la-nát”. Họ dùng đàn “la-nát” để biểu diễn trong các ngày lễ, hội hè do gia đình tổ chức.

Múa cung đình có múa đơn, múa đôi hoặc tập thể. Các vũ nữ múa cung đình được tuyển chọn kỹ và tập luyện khá công phu do một số nghệ sĩ được đào tạo ở nước ngoài (thường ở Ấn Độ hoặc Khơ-me) hướng dẫn. Khi biểu diễn các vũ nữ được ăn mặc hết sức lộng lẫy, sang trọng. Múa cung đình ít di chuyển, mà thường múa tại chỗ, kết hợp biểu diễn nhiều động tác mềm mại, dịu dàng, uốn lượn của ngón tay, bàn tay, cánh tay, vai, cổ, đầu, bàn chân cho đến ánh mắt, nụ cười, nét mặt theo tiếng đàn “la-nát”. Múa cung đình là dịp mua vui cho nhà vua, hoàng tộc và số quan chức gần gũi nhà vua. Một số điệu múa cung đình Lào được mô phỏng theo các điệu múa cổ Ấn Độ, Khơ-me và xoay quanh đề tài đề cao, chúc tụng, sùng bái nhà vua. 8. Nhạc cụ - Khèn bè (khen): Là loại nhạc cụ phổ biến nhất ở các bản làng từ Bắc xuống Nam. Khèn bè dễ làm, dùng nguyên liệu ngay trong rừng, dưới sự hướng dẫn của “mỏ-khèn”, các tràng trai trong bản có thể tự làm được. Nhưng để có chiếc khèn bè âm thanh chuẩn phải tìm mua ở các chợ phiên, do các nghệ nhân chuyên sản xuất bày bán. Từ lúc còn tuổi thiếu niên con trai Lào đã học thổi khèn.

Khèn bè không thể thiếu trong các đêm biểu diễn dân ca ở Lào. Những đêm trăng người Lào thường rủ nhau sang chơi các bản làng lân cận, đi canh giữ hoa màu trên chòi một mình, các chàng trai thường đeo theo chiếc khèn bè. Khèn bè đa âm, đa sắc có thể biểu diễn được nhiều giai điệu khác nhau. Với nghệ thuật biểu diễn tài tình của “mỏ-khen”, tiếng khèn bè lúc róc rách như dòng suối cạn giữa rừng khuya, khi sôi nổi, dồn dập như thác đổ, có lúc khoan thai êm ả như dòng nước trôi lững lờ… Có một số bản nhạc trữ tình mang tính tự sự mô phỏng thiên nhiên, con người được “mỏ-khèn” biểu diễn hấp dẫn, gây xúc động lòng người, được quần chúng yêu thích như bản: Mẹ góa ru con, Kiến cam ngắm hoa, Gió thổi qua rừng… Khèn bè cũng được thổi trong dịp phong sắc cho sư, các đám rước trong các ngày lễ hội Bẵng-phay (pháo thăng thiên), Phạ-vệt. Có thể nói rằng, cùng với tiếng ru, tiếng trống, tiếng khèn bè đã đi vào ký ức tuổi thơ mỗi người Lào khi còn địu trên lưng mẹ.

- Trống (kong): Trống cũng là nhạc cụ phổ biến ở Lào. Có thể nói rằng không có bản làng nào ở Lào không có trống và không ngày nào vắng tiếng trống, tiếng mõ ngân vang (bản có chùa). Có nhiều loại trống như trống cái, trống cơm, trống con… Trống cái hai đầu bọc da dài khoảng trên một mét được treo trong một cái chòi nhỏ gọi là “hỏ-kong”. Bản có chùa, thì treo trong chùa. Thông thường mỗi bản làng chỉ sử dụng một cái trống cái và được đánh trong các trường hợp sau: lễ hội, ngày kiêng kỵ trong tháng, cầm nhịp thời gian trong ngày, hội họp bản làng, báo tin dữ xảy ra trong bản làng (cháy nhà, thú dữ tấn công, người chết, tăng lữ lâm bệnh trầm trọng.

Trống cơm (koong-tũm): Trống cơm được đánh cùng với một số nhạc cụ khác để múa tập thể trong ngày lễ hội “bẵng-phay” (pháo thăng thiên). Trống con (Koong kình) được đánh trong các buổi lễ cầu phúc.

Ngoài ra còn nhiều loại nhạc cụ khác được dùng phổ biến trong các ngày lễ hội sản xuất, tôn giáo, ma chay như: “khoọng” (chiêng), “xình” (rạo bạt), “pì” (sáo), “khùi” (tiêu), “mạc chặp pì” (đàn), “xo” (nhị), “pôông” (mõ), “xèng” (thanh la)… Đôi nét về nền văn nghệ kháng chiến:

Hơn nửa thế kỷ dưới thời Pháp thuộc dòng thơ ca viết chính thống sống lay lắt, nghèo nàn; chỉ còn thơ ca cổ truyền thống phát triển và là nguồn nuôi dưỡng ý chí tự lập tự cường của dân tộc. Năm 1945, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc. Một nước Lào độc lập ra đời, sau đó không bao lâu lại bước vào cuộc đấu tranh chống ngoại xâm suốt ba thập kỷ vô cùng gay go ác liệt, gian khổ hy sinh song cũng là chặng đường vẻ vang nhất trong lịch sử dân tộc. Tinh thần quật khởi của nhân dân các dân tộc Lào trong cuộc kháng chiến trường kỳ là đề tài mới vô cùng phong phú cho thơ ca. Từ đây, thơ ca truyền thống được kế thừa và phát huy mạnh mẽ, thơ ca viết được phục hồi.

Để giáo dục lòng yêu nước, căm thù giặc, ý thức bạn thù, tạo không khí lạc quan trong hoàn cảnh chiến tranh ngày càng khốc liệt, Mặt trận Lào Ít-xạ-la đã liên tiếp phát động phong trào sáng tác thơ ca. Theo chỉ thị của Chính phủ kháng chiến, Ban chấm thi thơ ca từ cấp huyện trở lên được thành lập. Phong trào sáng tác thơ ca diễn ra sôi động, rộng rãi ở khắp các cơ quan, đơn vị vũ trang, xuống đến các bản làng. Với hình thức cũ, nội dung mới, thơ ca trong thời kỳ này phát triển gần như độc tôn và đã góp phần cổ vũ nhân dân các dân tộc Lào vượt qua muôn vàn gian nan thử thách trong những năm đầu của cuộc kháng chiến. Cùng với sự lớn mạnh về chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế… văn nghệ kháng chiến cũng có bước phát triển đáng khích lệ. Ngoài thơ ca truyền thống nhiều thể loại mới ra đời. Đó là thơ mới, văn xuôi (ký, truyện ngắn, truyện dài) múa, nhạc, kịch, nhiếp ảnh, điện ảnh… đặc biệt là ca hát (tân nhạc). Nhiều ca khúc mới nổi tiếng xuất hiện, không chỉ được phổ biến rộng rãi trong vùng giải phóng mà còn được đông đảo nhân dân, giới công chức, sĩ quan, binh lính ngụy trong vùng địch kiểm soát ưa thích (Tiếng hò bên sông Mê-kông, Đất nước tự do…). Trên cơ sở thơ ca cổ truyền thống, thơ ca kháng chiến ra đời và phát triển nhanh chóng. Đó là những truyện thơ theo phương thức tự sự, ca ngợi những tấm gương anh dũng kiên cường trong chiến đấu và sản xuất của nhân dân các dân tộc Lào. Có nhiều bài thơ thuật lại một câu chuyện, một trận thắng oanh liệt của lực lượng vũ trang cách mạng được phổ biến rộng rãi bằng hình thức “lăm-lượng” (ca).

Những năm kháng chiến, văn xuôi phát triển khá nhanh so với thơ ca, khoảng cách không ngừng được rút ngắn. Tuy nhiên thơ ca vẫn dẫn đầu, vượt văn xuôi một chặng đường dài. Sự phát triển của các loại hình nghệ thuật mới đã làm cho nền văn nghệ kháng chiến trở nên đa dạng, phong phú, có tác dụng to lớn trong việc giáo dục tình cảm cách mạng cho nhân dân trong vùng giải phóng cũng như vùng địch tạm chiếm.

Nội dung của các tác phẩm văn nghệ kháng chiến cũng có sự thay đổi sâu sắc. Trước đây, nhân vật điển hình thường là những chàng trai, cô gái xuất thân từ tầng lớp quý tộc xinh đẹp, tài ba, giàu lòng nhân ái nhưng bị đày đọa khổ ải, phải nhờ đến phép mầu của Thần, Tiên, Phật mới thoát nạn. Ngày nay, nhân vật điển hình là những con người mới, người chiến sĩ, công nhân, nông dân đang trực tiếp chiến đấu, sản xuất anh dũng kiên cường chống quân xâm lược góp phần giải phóng quê hương đất nước. Lần đầu tiên trong lịch sử văn nghệ của dân tộc, những tình cảm mới cao đẹp đã đi vào các tác phẩm như tình quân dân thắm thiết, tình đồng chí, đồng đội keo sơn, tình đoàn kết quốc tế cao cả…

Lực lượng sáng tác, biểu diễn văn nghệ kháng chiến ngày càng đông đảo. Bên cạnh các nghệ sĩ, ca sĩ cũ tham gia kháng chiến, còn có đội ngũ nhạc sĩ, ca sĩ, nhạc công trẻ trưởng thành trong khối lửa của hai cuộc kháng chiến trường kỳ, được đào tạo cơ bản ở trong nước và nước ngoài. Hàng chục đoàn văn công Trung ương, địa phương, của Quân đội được thành lập. Mỗi bản làng đều có đội văn nghệ quần chúng. Họ là những nghệ sĩ đồng thời là chiến sĩ trong suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ. Một sự kiện lịch sử đã nửa thế kỷ trôi qua, nhưng ngày nay vẫn được các nhà nghiên cứu văn hóa giáo dục Lào nhắc lại một cách tự hào và ngợi ca. Mới thành lập được hơn một tháng dù chiến tranh ác liệt, công việc bề bộn nhưng Chính phủ kháng chiến Lào đã quyết định thành lập Ban nghiên cứu ngôn ngữ (9-9-1950) do Thủ tướng, hoàng thân Xu-pha-nu-vông trực tiếp làm Trưởng ban, Bộ trưởng Giáo dục Chãu Xúc vông-xắc làm Phó Trưởng ban. Qua một thời gian ngắn nghiên cứu theo phương châm: dân tộc, nhân dân và tiến bộ, Ban nghiên cứu ngôn ngữ đã đưa ra một số cải cách quan trọng như: mẫu tự Lào được quy định thống nhất theo nguyên tắc âm vị học, vừa hợp lý vừa đơn giản dễ đọc, dễ học. Sau đó Ban nghiên cứu ngôn ngữ quy định tiếng Lào, chữ Lào trở thành thông ngữ trong cả nước, chấm dứt hơn 60 năm bị đẩy xuống hàng một thổ âm, chỉ được dùng trong giao tiếp của nhân dân (các trường tiểu học phổ thông, thời thuộc Pháp chỉ dạy chữ Lào mỗi tuần vài giờ). Và từ đây ngôn ngữ dân tộc được hồi sinh, tạo ra một bước ngoặt cho văn học, nghệ thuật, văn hóa giáo dục phát triển mạnh mẽ.

Đồng thời với việc cải cách ngôn ngữ, Ban nghiên cứu ngôn ngữ đã phát động phong trào xóa nạn mù chữ rầm rộ, chưa từng có khắp các bản làng. Và thơ ca giữ vai trò tuyên truyền, cổ vũ đắc lực nhất cho phong trào. Để tạo điều kiện thuận lợi cho vai trò thông ngữ của tiếng Lào, chữ Lào, Ban nghiên cứu ngôn ngữ còn tiếp tục phổ biến một số danh từ mới, đưa một số khái niệm, kiến thức mới vào đời sống xã hội. Những việc làm của Ban nghiên cứu ngôn ngữ lúc bấy giờ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các tầng lớp nhân dân trong cả nước, nhất là giới trí thức, công chức, học sinh, sinh viên.

Trong những năm kháng chiến, thơ ca cổ truyền thống được kế thừa và phát huy, thơ ca kháng chiến ra đời, đồng thời nhiều thể loại mới xuất hiện. Văn nghệ kháng chiến thực sự trở thành vũ khí sắc bén, góp phần tích cực vào việc giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng, động viên lòng yêu nước, chí căm thù giặc sâu sắc trong quần chúng nhân dân các dân tộc Lào. Đã một phần tư thế kỷ đi qua, nhưng ngày nay các tầng lớp nhân dân Lào vẫn say mê và tự hào về những ca khúc, những bài thơ mang hơi thở của một thời đại oanh liệt, hào hùng của dân tộc./.