Amazonaws la gi

Công ty điện toán đám mây theo nhu yếu
” AWS ” đổi hướng tới đây. Đối với những định nghĩa khác, xem AWS ( xu thế )

Amazon Web Services (AWS) là một công ty con của Amazon cung cấp các nền tảng điện toán đám mây theo yêu cầu cho các cá nhân, công ty và chính phủ, trên cơ sở trả tiền theo nhu cầu sử dụng (pay-as-you-go). Tóm lại, các dịch vụ web điện toán đám mây này cung cấp một bộ cơ sở hạ tầng kỹ thuật trừu tượng nguyên thủy và các công cụ và khối xây dựng máy tính phân tán. Một trong những dịch vụ này là Amazon Elastic Compute Cloud, cho phép người dùng có thể tùy ý sử dụng một cụm máy tính ảo, có sẵn mọi lúc, thông qua Internet. Phiên bản máy tính ảo của AWS mô phỏng hầu hết các thuộc tính của máy tính thật, bao gồm các đơn vị xử lý trung tâm phần cứng (CPU) và đơn vị xử lý đồ họa (GPU) để xử lý, bộ nhớ cục bộ / RAM, lưu trữ ổ cứng / SSD; lựa chọn hệ điều hành; kết nối mạng; và phần mềm ứng dụng được tải sẵn như máy chủ web, cơ sở dữ liệu, quản lý quan hệ khách hàng (CRM), v.v.

Công nghệ AWS được triển khai tại các trang trại máy chủ trên toàn thế giới và được duy trì bởi công ty con Amazon. Chi phí được tính dựa trên sự kết hợp của việc sử dụng, các tính năng phần cứng / hệ điều hành / phần mềm / mạng được thuê bao lựa chọn, yêu cầu về tính sẵn có, dự phòng, bảo mật và tùy chọn dịch vụ. Người đăng ký có thể trả tiền cho một máy tính AWS ảo, máy tính vật lý chuyên dụng hoặc cụm của một trong hai. Là một phần của thỏa thuận đăng ký,[5] Amazon cung cấp bảo mật cho hệ thống của người đăng ký. AWS hoạt động từ nhiều khu vực địa lý toàn cầu bao gồm 6 khu vực ở Bắc Mỹ.[6]

Trong năm 2017, AWS gồm có hơn 90 dịch vụ ( 165 tính đến năm 2019 ) trải rộng trên khoanh vùng phạm vi rộng gồm có máy tính, tàng trữ, mạng, cơ sở tài liệu, nghiên cứu và phân tích, dịch vụ ứng dụng, tiến hành, quản trị, di động, công cụ cho nhà tăng trưởng và công cụ cho Internet of Things. Phổ biến nhất gồm có Amazon Elastic Compute Cloud ( EC2 ) và Amazon Simple Storage Service ( Amazon S3 ). Hầu hết những dịch vụ không được trình diện trực tiếp với người dùng cuối mà thay vào đó cung ứng công dụng trải qua API để những nhà tăng trưởng sử dụng trong ứng dụng của họ. Các dịch vụ của Amazon Web Services được truy vấn qua HTTP, sử dụng kiểu kiến trúc REST và giao thức SOAP .Amazon tiếp thị AWS cho những thuê bao như một cách để có được năng lượng đo lường và thống kê quy mô lớn nhanh hơn và rẻ hơn so với việc thiết kế xây dựng một trang trại sever vật lý thực tiễn. [ 7 ] Tất cả những dịch vụ đều được lập hóa đơn dựa trên việc sử dụng, nhưng mỗi dịch vụ đo lường và thống kê mức độ sử dụng theo những cách khác nhau. Tính đến năm 2017, AWS chiếm hữu 34 % thị trường chi phối hàng loạt dịch vụ đám mây ( IaaS, PaaS ) trong khi ba đối thủ cạnh tranh tiếp theo Microsoft, Google và IBM có lần lượt 11 %, 8 %, 6 % theo Synergy Group. [ 8 ] [ 9 ]

Amazonaws la gi
Sự kiện AWS Summit 2013 tại NYC .Nền tảng AWS được ra đời vào tháng 7 năm 2002. Trong quy trình tiến độ đầu của nó, nền tảng chỉ gồm có một vài công cụ và dịch vụ khác nhau. Sau đó vào cuối năm 2003, khái niệm AWS đã được cải tổ công khai minh bạch khi Chris Pinkham và Benjamin Black trình diễn một bài báo miêu tả tầm nhìn về hạ tầng máy tính kinh doanh nhỏ của Amazon trọn vẹn được chuẩn hóa, trọn vẹn tự động hóa và sẽ phụ thuộc vào nhiều vào những dịch vụ web cho những dịch vụ như tàng trữ và chỉ ra những việc làm nội bộ đã được triển khai. Gần cuối bài báo, họ đề cập đến năng lực bán quyền truy vấn vào sever ảo dưới dạng dịch vụ, yêu cầu công ty hoàn toàn có thể tạo lệch giá từ góp vốn đầu tư hạ tầng mới. [ 10 ] Vào tháng 11 năm 2004, dịch vụ AWS tiên phong được ra đời để sử dụng công cộng : Simple Queue Service ( SQS ). [ 11 ] Sau đó Pinkham và nhà tăng trưởng chính Christopher Brown đã tăng trưởng dịch vụ Amazon EC2, với một nhóm tại Cape Town, Nam Phi. [ 12 ]Amazon Web Services chính thức được ra đời lại vào ngày 14 tháng 3 năm 2006, tích hợp ba dịch vụ bắt đầu của bộ tàng trữ đám mây Amazon S3, SQS và EC2. Nền tảng AWS sau cuối đã phân phối một bộ tích hợp những dịch vụ trực tuyến cốt lõi, vì Chris Pinkham và Benjamin Black đã yêu cầu trở lại vào năm 2003, [ 10 ] như một dịch vụ được phân phối cho những nhà tăng trưởng, website, ứng dụng người mua và công ty khác. Andy Jassy, người sáng lập AWS và phó quản trị năm 2006, cho biết vào thời gian đó, Amazon S3 ( một trong những yếu tố tiên phong và có năng lực lan rộng ra nhất của AWS ) ” giúp những nhà tăng trưởng không tính tiền khỏi lo ngại về nơi họ sẽ tàng trữ tài liệu, liệu nó có bảo đảm an toàn không và bảo mật thông tin, nếu nó sẽ có sẵn khi họ cần, ngân sách tương quan đến bảo dưỡng sever hoặc liệu họ có đủ dung tích tàng trữ không. Amazon S3 được cho phép những nhà tăng trưởng tập trung chuyên sâu vào việc thay đổi tài liệu, thay vì tìm ra cách tàng trữ tài liệu. “. Năm 2016 Jassy được thăng chức CEO của bộ phận. [ 13 ] Để phản ánh sự thành công xuất sắc của AWS, khoản thưởng hàng năm của ông ta trong năm 2017 đạt gần 36 triệu đô la. [ 14 ]Để tương hỗ đào tạo và giảng dạy toàn ngành và tiêu chuẩn kỹ năng và kiến thức, AWS đã khởi đầu cung ứng chương trình ghi nhận cho những kỹ sư máy tính, vào ngày 30 tháng 4 năm 2013, để làm điển hình nổi bật trình độ về điện toán đám mây. [ 15 ]James Hamilton, một kỹ sư AWS, đã viết một bài báo hồi cứu vào năm năm nay để làm điển hình nổi bật lịch sử vẻ vang mười năm của dịch vụ trực tuyến từ năm 2006 đến năm nay. Là một người hâm mộ sớm và là người yêu cầu công nghệ tiên tiến thẳng thắn, ông đã gia nhập đội ngũ kỹ thuật AWS vào năm 2008 [ 16 ]

Vào tháng 1 năm 2018, Amazon đã ra mắt dịch vụ tự động mở rộng (autoscaling) trên AWS.[17][18]

Vào tháng 11 năm 2018, AWS đã công bố những lõi ARM tùy chỉnh để sử dụng trong những sever của mình. [ 19 ] Cũng trong tháng 11 năm 2018, AWS đang tăng trưởng những trạm mặt đất để liên lạc với những vệ tinh của người mua. [ 20 ]

Tăng trưởng và doanh thu[sửa|sửa mã nguồn]

Vào tháng 11 năm 2010, có thông tin rằng toàn bộ những website kinh doanh nhỏ của Amazon. com đã chuyển sang AWS. [ 21 ] Trước năm 2012, AWS được coi là một phần của Amazon. com và do đó lệch giá của nó không được phân định trong báo cáo giải trình kinh tế tài chính của Amazon. Trong năm đó, những người theo dõi ngành công nghiệp lần tiên phong ước tính lệch giá AWS là hơn 1,5 tỷ đô la. [ 22 ]

Vào tháng 4 năm 2015, Amazon.com đã báo cáo AWS có lãi, với doanh thu 1,57 tỷ đô la trong quý đầu tiên của năm và 265 triệu đô la thu nhập hoạt động. Người sáng lập Jeff Bezos mô tả nó là một doanh nghiệp tăng trưởng nhanh 5 tỷ đô la; các nhà phân tích mô tả nó là “lợi nhuận đáng ngạc nhiên hơn dự báo”.[23] Vào tháng 10 năm 2015, Amazon.com cho biết trong báo cáo thu nhập quý 3 của mình rằng thu nhập hoạt động của AWS là 521 triệu đô la, với tỷ suất lợi nhuận hoạt động ở mức 25%. Doanh thu quý 3 năm 2015 của AWS là 2,1 tỷ USD, tăng 78% so với doanh thu quý 3 năm 2014 là 1,17 tỷ USD.[24] Doanh thu quý 4 năm 2015 cho phân khúc AWS tăng 69,5% so với cùng kỳ lên 2,4 tỷ USD với tỷ lệ hoạt động 28,5%, mang lại cho AWS tỷ lệ chạy 9,6 tỷ USD. Năm 2015, Gartner ước tính rằng khách hàng của AWS đang triển khai cơ sở hạ tầng nhiều hơn gấp 10 lần trên AWS so với việc áp dụng kết hợp 14 nhà cung cấp tiếp theo.[25]

Trong quý 1 năm năm nay, lệch giá là 2,57 tỷ đô la với thu nhập ròng là 604 triệu đô la, tăng 64 % so với quý 1 năm năm ngoái dẫn đến AWS có doanh thu cao hơn lần tiên phong kinh doanh thương mại kinh doanh nhỏ ở Bắc Mỹ của Amazon. [ 26 ] Trong quý tiên phong của năm năm nay, Amazon đã trải qua sự ngày càng tăng 42 % giá trị CP do thu nhập tăng, trong đó AWS góp phần 56 % vào doanh thu của công ty. [ 27 ]AWS có 17,46 tỷ đô la lệch giá hàng năm trong năm 2017. [ 28 ] Vào cuối năm 2018, số lượng đã tăng lên 25,65 tỷ đô la .

Số lượng người mua[sửa|sửa mã nguồn]

Các người mua đáng quan tâm gồm có NASA, [ 34 ] chiến dịch tranh cử tổng thống Obama năm 2012, [ 35 ] và Netflix. [ 36 ]Năm 2019, đã có báo cáo giải trình rằng hơn 80 % những công ty niêm yết trên DAX của Đức sử dụng AWS. [ 37 ]Vào tháng 8 năm 2019, Hải quân Hoa Kỳ cho biết họ đã chuyển 72.000 người dùng từ sáu bộ tư lệnh sang mạng lưới hệ thống đám mây AWS như bước tiên phong hướng tới việc đẩy toàn bộ tài liệu và nghiên cứu và phân tích của mình lên đám mây. [ 38 ]

Các sự cố ngừng dịch vụ đáng kể[sửa|sửa mã nguồn]

  • Vào ngày 20 tháng 4 năm 2011, AWS bị mất điện lớn. Các bộ phận của Elastic Block Store (EBS) bị “kẹt” và không thể thực hiện các yêu cầu đọc / ghi. Phải mất ít nhất hai ngày để dịch vụ được khôi phục hoàn toàn.[39]
  • Vào ngày 29 tháng 6 năm 2012, một số trang web dựa trên Amazon Web Services đã bị ngoại tuyến do cơn bão nghiêm trọng ở Bắc Virginia, nơi đặt cụm trung tâm dữ liệu lớn nhất của AWS.[40]
  • Vào ngày 22 tháng 10 năm 2012, một sự cố ngừng hoạt động lớn đã xảy ra, ảnh hưởng đến nhiều trang web như Reddit, Foursquare, Pinterest và các trang khác. Nguyên nhân là do lỗi rò rỉ bộ nhớ trong một tác nhân thu thập dữ liệu vận hành.[41]
  • Vào ngày 24 tháng 12 năm 2012, AWS đã bị ngừng hoạt động khác khiến các trang web như Netflix không có sẵn cho khách hàng ở Đông Bắc Hoa Kỳ.[42] AWS đã trích dẫn dịch vụ Elastic Load Balancing (ELB) của họ là nguyên nhân.[43]
  • Vào ngày 28 tháng 2 năm 2017, AWS đã trải qua sự cố ngừng dịch vụ S3 ở khu vực Bắc Virginia. Phần lớn các trang web dựa trên AWS S3 bị treo hoặc bị đình trệ và Amazon đã báo cáo trong vòng năm giờ rằng AWS đã hoàn toàn trực tuyến trở lại.[44] Không có dữ liệu đã được báo cáo đã bị mất do mất điện. Việc ngừng hoạt động là do lỗi của con người gây ra trong quá trình gỡ lỗi, dẫn đến việc loại bỏ nhiều dung lượng máy chủ hơn dự định, điều này gây ra hiệu ứng domino khi bị cúp điện.[45]

Amazonaws la gi
Amazon Web Services ở Kenya ( 2017 ) .Tính đến năm 2019, AWS có những hoạt động giải trí riêng không liên quan gì đến nhau ở 20 ” khu vực ” địa lý : [ 6 ] 6 ở Bắc Mỹ, 1 ở Nam Mỹ, 5 ở EMEA và 8 ở Châu Á Thái Bình Dương Thái Bình Dương .AWS đã công bố 5 khu vực mới sẽ được phát hành trực tuyến tại Hồng Kông, Bahrain, Milan, Cape Town và Jakarta. [ 6 ]Tính đến tháng 12 năm năm trước, Amazon Web Services đã quản lý và vận hành ước tính 1,4 triệu sever trên 28 vùng khả dụng. [ 46 ] Mạng lưới toàn thế giới của những khu vực AWS Edge gồm có 54 điểm hiện hữu trên toàn quốc tế, gồm có những khu vực tại Hoa Kỳ, Châu Âu, Châu Á Thái Bình Dương, Úc và Nam Mỹ. [ 47 ]

Công tác từ thiện[sửa|sửa mã nguồn]

Vào năm 2017, AWS đã ra mắt Amazon RE:Start ở Vương quốc Anh để giúp những người trẻ tuổi và cựu quân nhân đào tạo lại các kỹ năng liên quan đến công nghệ. Hợp tác với Prince’s Trust và Bộ Quốc phòng, AWS sẽ giúp cung cấp cơ hội đào tạo lại cho những người trẻ tuổi từ những hoàn cảnh khó khăn và cựu quân nhân. AWS đang hợp tác với một số công ty đối tác bao gồm Cloudreach, Sage, EDF Energy và Tesco Bank.[48]

Nhân vật chủ chốt[sửa|sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]