Bài viết liên quan: https://huongdionline.com/2015/11/24/dao-duc-co-doc/ Dẫn nhập: Cơ đốc Giáo dục là gì? Chúng ta hãy nghe các phát biểu sau đây: – Cơ Đốc Giáo Dục là một kinh nghiệm học hỏi nhờ đó chúng ta được biết Đức Chúa Trời và kinh nghiệm về Ngài như được mặc khải qua Chúa Cứu Thế Jesus. – Cơ Đốc Giáo Dục là một tiến trình truyền đạt cho học viên Lời thành văn của Đức Chúa Trời qua quyền năng Đức Thánh Linh, đặt Chúa Jesus làm trọng tâm và lấy Kinh Thánh làm nền tảng, nhằm mục
đích dẫn người khác đến với Chúa và gây dựng họ trưởng thành trong Chúa Cứu Thế. Những lời phát biểu trên đây bao hàm nhiều khía cạnh của Cơ đốc Giáo dục. Chúng ta có thể tóm lược như sau: ĐỊNH NGHĨA CƠ ĐỐC GIÁO DỤC Cơ Đốc Giáo Dục là một tiến trình dạy dỗ và học hỏi đặt nền tảng trên Kinh Thánh và trong sự dẫn dắt của Thánh Linh. Cơ Đốc Giáo Dục nhằm hướng dẫn những cá nhân thuộc mọi trình độ đến chỗ hiểu biết và kinh nghiệm mục đích và chương trình của Đức Chúa Trời qua Chúa Cứu Thế Jesus trong mọi khía cạnh của đời sống bằng những phương tiện giáo dục đương thời. Cơ Đốc Giáo Dục cũng nhằm trang bị con người để làm công tác mục vụ cách có hiệu quả, đặt trọng tâm vào Chúa Cứu Thế Jesus là vị Giáo sư gương mẫu, và lời giáo huấn của Ngài để giúp người khác thành những môn đồ trưởng thành. (2) TẦM QUAN TRỌNG CỦA CƠ ĐỐC GIÁO DỤC
Dạy con kính Chúa, yêu người Nhờ Lời hằng sống dưỡng nuôi mỗi ngày. Yêu thương, tôn trọng lẫn nhau Cảm thông, hiếu thảo làm câu trau mình. (3)
That man do not learn very much from the lessons of history is the most important of all the lessons of history.” (5) Mặc dù chúng ta có thể không học được nhiều lắm từ lịch sử, nhưng lịch sử luôn luôn là một môn học hữu ích cho bất cứ ai có thiện chí. Xảy ra cùng lúc với những biến động lại Đức là một phong trào khởi phát tại Thụy Sĩ dưới sự lãnh đạo của Huldreich Zwingli. Tuy nhiên vẫn tồn tại một số bất đồng giữa hai phong trào này dù họ chia sẻ với nhau một mục tiêu chung và đồng ý với nhau về hầu hết các vấn đề liên quan. Sau khi Giáo hoàng quyết định trục xuất Martin Luther và lên án cuộc cải chánh, các tác phẩm của John Calvin đã tạo nên nhiều ảnh hưởng trong việc thiết lập một sự đồng thuận tương đối giữa các nhóm cải cách khác nhau tại Thuỵ Sĩ, Scotland, Hungary, Đức và những nơi khác. Việc Anh Giáo tách rời khỏi La Mã dưới thời trị vì của Henry VIII, khởi đầu từ năm 1529 và hoàn tất vào năm 1536, đem Vương quốc Anh đồng hành với cuộc cải chánh. Dù vậy, những thay đổi tại Anh được tiến hành dè dặt hơn các nơi khác ở Âu châu và người Anh chọn con đường trung dung giữa Cựu giáo và Tân giáo. (Ngày nay về thần học nhiều người Anh vẫn xem mình là Công giáo cải chánh). Như thế Cơ đốc giáo phương Tây đã vĩnh viễn bị chia cắt thành hai phần: Giáo hội Công giáo Rô-ma và Cải chánh giáo. Về học thuật, phong trào Cải chánh vốn chịu ảnh hưởng của thời kỳ phục hưng và được hậu thuẫn bởi những viện đại học ở Tây Âu, thu hút giới trí thức, chính trị gia, giới chuyên môn, thương gia và thợ thủ công. Kỹ thuật in ấn đang phát triển giúp quảng bá tư tưởng Cải Chánh, cũng như trợ giúp hữu hiệu cho việc ấn hành những bản dịch Kinh Thánh sang các ngôn ngữ địa phương. Các khái niệm về sự tự do của lương tâm và quyền tự do cá nhân, nảy sinh từ thời kỳ sơ khai của phong trào Cải Chánh, được định hình và phát triển qua một thời gian dài liên tục đối kháng với thẩm quyền của Giám mục thành Rô-ma và hệ thống tăng lữ của Giáo hội Công giáo (9) Thời kỳ cải chánh chú trọng đến đức tin và sự
truyền bá đức tin, nhấn mạnh đến chức tế lễ của tín đồ. Đứng đầu các nhà cải chánh là Martin Luther, đã chủ trương hai trọng điểm: Sola Scripture (Chỉ có Kinh thánh mà thôi) và Sola Fide (Chỉ có đức tin mà thôi). Trong thời kỳ này, mục tiêu Cơ Đốc Giáo Dục là nhằm giáo dục tín đồ trở nên thầy tế lễ của Đức Chúa Trời Hằng Sống. Vì vậy, tín hữu phải được tương giao trực tiếp với Đức Chúa Trời, không cần qua trung gian. Tín hữu biết Chúa qua Thánh Kinh với cặp mắt của đức tin. Trong thời kỳ này, Cơ
Đốc Giáo Dục là lãnh vực thực hành của Thần học. Đức tin Do Thái Giáo là một đức tin được giáo dục ngay từ ban đầu. Trách nhiệm của những tộc trưởng, dầu đơn sơ và giới hạn trong mọi lãnh vực, là chỉ dạy cho các thành viên trẻ của bộ tộc trong đức tin và sự thông công đã được thiết lập giữa loài người và Đức Chúa Trời. Sự dạy đạo là một phương cách mà những lời hứa của Lời Đức Chúa Trời được truyền lại từ thế hệ này đến thế hệ khác. Dầu với hình thức truyền đạt đơn giản và thân mật, song sự giáo huấn đó đã có tác dụng hữu hiệu. Qua Môi-se, người tiếp nhận luật pháp từ Đức Chúa Trời và truyền lại cho dân sự, sự xây dựng nội dung của nền giáo dục đã càng ngày càng rõ rệt. Môi-se đã nhận lãnh Luật Pháp thành văn là nền tảng căn bản cho sự giáo huấn dân tộc Do Thái mãi cho đến chức vụ của Đấng Christ, và còn xa hơn thế nữa. Trải qua toàn bộ giai đoạn từ Môi-se cho đến Đấng Christ, người ta đã noi theo các mạng lệnh của Đức Chúa Trời để huấn luyện dân chúng trong đức tin và giáo lý của Luật pháp. Giáo lý duy nhất này tức là giáo lý về sự giáo dục, đã được trung tín vâng giữ. Do Thái Giáo đã có ảnh hưởng rất lớn trên giáo dục của Cơ Đốc Giáo. Chẳng bao lâu sau khi các Hội Thánh được thành lập, sự dạy dỗ con cái đã trở thành sự dạy dỗ chính yếu của cha mẹ. Suốt cả Tân ước quá trình giáo huấn đã được nhấn mạnh. Điều đó rất cần thiết để thông hiểu sự rao giảng. Không có sự chỉ dạy về giáo lý của Đấng Christ, việc rao giảng Tin Lành sẽ bị đánh mất. Là một Đại Mạng Lịnh, sự dạy đạo đã giữ địa vị đúng đắn của nó cùng với sự truyền giảng Tin Lành, giống như một chiếc xe để chuyên chở sứ điệp của Hội Thánh đầu tiên. Sứ đồ Phao-lô đã sử dụng lời nói, ngòi bút và sự dạy dỗ như là những phương tiện của ân điển để bảo đảm ghi khắc chân lý Cơ đốc vào trong đời sống dân chúng. Sự dạy dỗ đã trở thành hoạt động quan trọng trong Hội Thánh đầu tiên khi các tín hữu tiến bộ từ cấp học này đến cấp học khác. Các trường học chẳng bao lâu đã được thành lập và đã vượt qua việc học tập giáo lý và các vấn đề của đức tin để bao gồm thêm các môn học cổ điển như: Hy-văn, Văn chương, Lịch sử biện chứng và các ngành Khoa học khác. Tuy nhiên, sự giáo huấn nói trên đã tỏ ra làm hại không ít cho Cơ Đốc Giáo vì đã cố gắng khiến cho Phúc âm phù hợp với Triết Lý Hy-lạp. Đây là một sự thỏa hiệp đáng thương! Cơ Đốc Giáo Dục thời Trung cổ rất bi đát. Học trình ở những trường học của nhà thờ là một sự phục hưng của các ngoại giáo xưa. Người ta áp dụng bảy môn nghệ thuật tự do gồm tam khoa (Trivium) và những nghệ thuật văn chương được xem như là những môn học bậc thấp và tứ khoa (Quadrivium) hay còn gọi là những nghệ thuật Toán học, được xem như là những môn học bậc cao. Dân chúng ở thời đại này có nền đạo đức sút kém và hầu như không hề biết gì về Kinh Thánh, nhiều nhà lãnh đạo giáo phẩm không hiểu biết ý nghĩa của những lễ nghi mà họ thi hành. Chẳng có thời đại nào trong lịch sử Cơ Đốc giáo dục bị phê phán nhiều hơn là thời đại Trung cổ. Nó còn được gọi là Hắc Ám thời đại. Sự nổi dậy chống lại thực trạng ngu dốt nói trên đã bắt đầu giữa vòng dân sự Đức Chúa Trời. Công Cuộc Cải chánh đã có khởi điểm từ trong những tấm lòng của những người thất học đang ao ước sự hiểu biết Đức Chúa Trời. Số người phản kháng gia tăng. Mọi người đều quan tâm đến cùng một việc như nhau: đó là sự giáo dục quần chúng trong Lời Hằng Sống của Đức Chúa Trời. Calvin, Luther, Wiclifle, Huss, và Zwingli đã dẫn đường cho việc trình bày Phúc âm cho dân chúng theo ngôn ngữ bản địa với nội dung giáo dục. Cuối cùng, những người Tin Lành đã đạt được mục tiêu của họ là huấn luyện mọi Cơ Đốc Nhân học Lời Chúa nhằm mục đích gia tăng sự hiểu biết về Đức Chúa Trời trong thế giới này. Nền giáo dục thời hậu cải chánh đã cung cấp sự giáo dục cho thành phần tinh hoa của xã hội nhưng đã thất bại trong việc cung cấp sự huấn luyện Kinh Thánh cho giới bình dân. Khi thường dân bị bỏ rơi thì Trường Chúa Nhật đã bắt đầu xuất hiện theo kiểu mẫu của Robert Raikes, nguyên là một nhà báo tại Gloucester, Anh Quốc, năm 1780. Với ý định giáo dục các trẻ em nghịch ngợm đang làm việc tại các nhà máy trong tuần, Raikes đã lập ra việc học Kinh Thánh nhằm mục đích dạy cho chúng học đọc và viết. Từ đó những cơ quan tổ chức Trường Chúa Nhật đã được thành lập và hỗ trợ hàng ngàn học sinh. Họ đã phân phát hàng ngàn Kinh Thánh, Tân ước, sách học vần, những sách tập đọc, do đó ngân quỹ cạn dần, và sự tồn tại của họ rất khó khăn. Mục đích của thế kỷ đầu tiên vẫn còn được giữ đúng: cung cấp sự giáo dục cho mọi tín hữu và tạo cơ hội cho các người ngoại đạo được có dịp nghe rõ Phúc âm. Phong trào Trường Chúa Nhật đã đến nước Mỹ và mở rộng các hoạt động giáo huấn. Nó được Hội Thánh tổ chức, đã dẫn tới sự thiết lập nền Cơ Đốc Giáo Dục và nền giáo dục Cao Đẳng ở nước Mỹ. Từ trước đó trở đi Hội Thánh đã tổ chức các Học Viện, các trường Nội Trú, các Đại Học và các chủng viện trong danh của Đấng Christ. Mục đích chính của các trường này là để giáo dục thường dân đạt được khả năng cao nhất nhằm phổ biến Tin Lành của Đấng Christ cho một thế giới đang chết mất. Mặc dù nhiều trường đại học nầy không còn mang nội dung Cơ Đốc, tuy nhiên họ đã nêu lên một khuôn mẫu xuất sắc tại Hoa Kỳ. Với sự phát triển của nền giáo dục cưỡng bách trong các trường công lập, nền Giáo Dục Cơ Đốc đã tiếp tục tiến tới trong ngành giáo dục của cộng đồng. Cho đến nay những trường học và những Viện Đại Học dưới sự điều khiển của giáo hội Cơ Đốc đã cung cấp sự giáo dục cho thế hệ trẻ cả nam lẫn nữ. Mục đích đã được bày tỏ của mỗi một cơ sở giáo dục này là để giáo dục việc truyền bá Tin lành khắp cả thế gian. Nhằm mục đích cuối cùng này mà Hội Thánh đã được thành lập và cũng vì cứu cánh này mà các chương trình giáo dục đã hướng đến. Trọng tâm của Cơ Đốc Giáo trong sự giáo dục tôn giáo là nhằm mục đích dạy dỗ về giáo lý, về sự truyền giảng Tin lành và đem lại sự sung mãn linh hồn cho mỗi một con người bình thường trong xã hội loài người. (10). Nói đến giáo dục Cơ đốc, chúng ta phải đặt trọng tâm vào: CHÚA JESUS, NHÀ GIÁO DỤC VÀ VỊ GIÁO SƯ VĨ ĐẠI. (11) a. Chúa Jesus được công nhận: – Ngài được dân chúng xưng là thầy (Rabbi): Mat 26:25, 49; Mác 9:5; 11:21; 14:45; Gi 1:38. – Các sách Phúc Âm mô tả chức vụ Ngài là giảng dạy. – Các môn đồ thừa nhận Chúa là Giáo sư. Chữ “môn đồ” có nghĩa là học trò được dùng ít nhất 200 lần trong các sách Phúc Âm. b. Chúa Jesus có đủ tư cách và thẩm quyền: – Ngài là Chân lý (Gi 14:6). – Có thẩm quyền (Mat 7:28-29). – Biết Kinh Thánh: Chúa Jesus trích dẫn ít nhất là 20 sách trong Cựu Ước. – Chúa hiểu biết tâm lý con người (Mat 9:4; Gi 1:47) – Ngài tin vào điều Ngài dạy (Gi 13:13). – Ngài cũng ban uy quyền cho các môn đồ để thực hiện công tác mà Ngài ủy thác cho họ (Mat 10:1; Lu-ca 9:1-2). c. Chúa Jesus dạy có chủ đích rõ ràng: – Nhằm đem người nghe quay về với Đức Chúa Trời (Lu-ca 13:3; Gi 3:3). – Nhằm giúp người khác sống hài hòa với nhau (Mác 12:31). – Giúp môn đồ hiểu đúng (Mat 5:48). – Giúp môn đồ có niềm tin chắc chắn (Gi 21:15-17). – Huấn luyện để ra đi truyền bá Phúc Âm (Mat 28: 19-20). Sứ điệp chính của Chúa Jesus: Sứ điệp và chủ đề chính mà Chúa Jesus giảng dạy là Nước Đức Chúa Trời (Mat 4:23; 9:35; Mác 1:14-15). Cụm từ “Nước Đức Chúa Trời” được Chúa sử dụng không liên quan đến vị trí địa dư, nhưng nó hàm ý: Nước Đức Chúa Trời đã đến nơi dân sự cư trú, và họ đang đứng trước mặt vị Vua của vương quốc đó. Chúa Jesus đã đến để khởi đầu cho vương quốc đó, do đó Nước Đức Chúa Trời là một thực thể trong hiện tại cũng như trong tương lai (Lu-ca 22:16-18). Sự trị vì của Đấng Christ sẽ không hoàn thiện cho đến khi Ngài tái lâm cùng với các thánh đồ (1 Tê-sa 3:13) để thiết lập vương quốc của Ngài trên khắp trái đất (Lu-ca 19:12-15). Do đó vương quốc hiện nay của Ngài không thuộc trần gian. Trong thời đại của Hội thánh hôm nay – đang khi chờ đợi Chúa tái lâm, công tác giáo dục của Chúa Jesus được ủy thác cho Hội thánh trên đất. Trên đây là lịch sử của Giáo dục Cơ đốc. Vậy thì triết lý của nó là gì? Tại
sao phải giáo dục? Nếu Kinh Thánh đã được viết mà không nhằm để giáo dục thì bản chất sự khải thị của Kinh Thánh đã hoàn toàn thay đổi. Vì “tôn giáo” của Kinh Thánh là một tôn giáo dạy bảo, và Đức Chúa Trời của Kinh Thánh là một Đức Chúa Trời dạy bảo (Gióp 36:22). Sự dạy dỗ được gắn liền vào kinh nghiệm tôn giáo của người Y-sơ-ra-ên. Đối với dân Y-sơ-ra-ên, bản chất của tôn giáo là biết và giữ luật pháp của Đức Chúa Trời. Môi-se, người tiếp nhận luật pháp và truyền lại cho dân sự, cũng đã trở thành đại giáo sư của dân Y-sơ-ra-ên (Phục 4:5-6). Để giữ luật pháp cách trung tín, họ cần phải nghiên cứu luật pháp cách chuyên cần (Phục 5:31). Không phải là sự trùng khớp ngẫu nhiên mà Luật pháp còn được gọi là “Torah”, có nghĩa: sự chỉ dạy. Các thầy tế lễ và người Lê-vi không phải chỉ là những người canh giữ hệ thống tế lễ, họ còn được giao nhiệm vụ dạy dỗ cho dân chúng (Lê-vi 10:11). Trong thời kỳ hậu lưu đày, các thầy tế lễ giữ một vai trò đặc biệt quan trọng là những giáo sư của dân Y-sơ-ra-ên (Nê-hê-mi 1:10). Bắt đầu với Sa-mu-ên (I Sa-mu-ên 12:23), các tiên tri cũng làm nhiệm vụ của các giáo sư. Trung tâm giáo dục quan trọng nhất trong thời Cựu ước là ở gia đình. Các bậc cha mẹ được liên tục thúc giục hãy kể lại cho con cái của họ nghe biết về những việc lớn lao của Đức Chúa Trời (Xuất 12:26-27, 13:14) và họ được khuyến khích hãy chỉ dạy cho con cái về các Điều Răn của Đức Chúa Trời (Phục 6:1-10). Trong thời kỳ Cựu ước cha và mẹ đã chia sẻ trách nhiệm này (Châm 1:8-9), và nó cứ tiếp diễn cho tới hôm nay. Trong thời kỳ Tân ước, sự dạy dỗ có một ý nghĩa mới trong chức vụ của Chúa Jesus. Dạy dỗ là nhiệm vụ tiêu biểu nhất của Ngài (Mat-thi-ơ 5:1-2; Lu-ca 4:14-15) và người ta nhận biết Ngài như là “Thầy”. Các môn đồ (Mác 4:38), các kẻ thù nghịch (Ma-thi-ơ 8:19) và các bạn hữu (Giăng 11:28) đều xưng Ngài bằng “Thầy”. Trong nhiều lần Chúa Jesus tự kể mình như là “Thầy” (Ma-thi-ơ 23:10; Ma-thi-ơ 14:14; Lu-ca 22:11; Giăng 1:13-14). Đọc Đại Mạng Lịnh trong sách Ma-thi-ơ 28:19-20, chúng ta thấy Chúa Jesus đã ra lệnh cho những kẻ theo Ngài hãy khiến người ta trở nên môn đồ và dạy họ giữ những giáo huấn của Ngài. Các Cơ Đốc nhân đầu tiên đã coi trọng mạng lịnh giáo dục này, họ đã bền lòng giữ lời dạy của các sứ đồ (Công 2:42) và chỉ dạy lẫn cho nhau (Công 18:26). Dạy đạo là chiến lược truyền bá Tin lành chính yếu trong thời Tân ước. Ngay sau Lễ Ngũ Tuần, các môn đồ Cơ Đốc đã dạy đạo ở khu vực đền thờ (Công 5:42) hàng ngày. Các giáo sĩ Cơ Đốc đã đến Á Châu và Âu Châu, dạy dỗ Tin lành ở bất cứ nơi nào họ đến (Công 15:35, 18:11, 28:31). Dạy đạo và
giảng đạo là khác nhau nhưng đều là những hoạt động có liên hệ chặt chẽ với nhau. Nơi nào có Hội Thánh mới được thành lập, nơi đó có các giáo sư Cơ Đốc (Rô-ma 12:7, I Cô 12:28, Ga-la-ti 6:6, I Ti-mô-thê 5:17; Tít 2:3). Trong các gia đình Cơ Đốc, sự dạy đạo cho các con cái cũng rất quan trọng như đã từng có ở giữa dân Y-sơ-ra-ên từ thời xưa (Ê-phê-sô 6:4). Cơ Đốc Giáo Dục có những mục đích căn bản cần đạt đến. Những mục đích này có thể được liệt kê như: hướng dẫn các Cơ Đốc nhân đến sự khôn ngoan, sự chỉ dẫn trong đời sống hằng ngày, sự hạnh phúc, sự ăn năn tội lỗi và lầm lẫn, ảnh hưởng của trật tự xã hội, sự tươi mới thuộc linh, sự thánh khiết đạo đức, học biết và bảo tồn truyền thống cùng giáo dục Cơ Đốc, huấn luyện Cơ Đốc nhân làm chứng cách có hiệu quả, và sự tự tồn tại trong một xã hội chống nghịch với các giáo huấn Cơ Đốc. Kinh Thánh dạy và minh họa một số phương pháp giáo dục. Những phương pháp này bao gồm: kỷ luật, gương mẫu của bản thân, chỉ dạy, những bài học mẫu, những thí dụ, đặt câu hỏi, học Kinh Thánh, các hành động tiêu biểu, sự lặp lại, cả nhóm tham gia và sự vâng lời. Ngày nay, sự giáo dục vẫn liên hệ mật thiết với nhịp đập của sự phát triển Cơ Đốc Giáo. Những ai muốn sống theo giáo huấn của Chúa Jesus ở giữa một nền văn hóa thế tục cần phải hiểu ý nghĩa của những sự giáo huấn đó. Những ai muốn chia sẻ Tin lành với một thế giới hư mất phải có một sự hiểu biết thông suốt về sứ điệp cứu rỗi. Đây là nhiệm vụ của Cơ Đốc Giáo Dục. Công tác giáo dục của Hội Thánh nhắm tới mọi người ở mọi lứa tuổi. Thông thường những cố gắng của chúng ta tập trung vào các thiếu nhi. Trong khi thi hành chức vụ Chúa Jesus rõ ràng đã chú ý đến các thiếu nhi. Chúng ta phải dạy dỗ chúng cách nào để đáp ứng các nhu cầu đặc biệt của chúng. Cũng vậy, khi dạy dỗ thanh niên chúng ta phải hiểu được những nhu cầu cá biệt của họ và đáp ứng một cách có hiệu quả. Lứa tuổi thanh niên là tuổi phải quyết định những điều quan trọng trong cuộc đời. Dạy dỗ những người trưởng thành đòi hỏi hiểu biết về những giai đoạn khác nhau trong cuộc sống mà họ đã phải trải qua. Chúng ta phải cố gắng dạy dỗ họ thế nào để đáp ứng những nhu cầu riêng tư của từng lứa tuổi. Cơ cấu tổ chức của một Hội Thánh địa phương ảnh hưởng rất lớn trên kết quả của công tác giáo dục của Hội Thánh. Vai trò của Mục sư quản nhiệm, cơ cấu của các ban ngành liên quan đến giáo dục và những quan điểm về hành chánh đều là những yếu tố quan trọng cần được cân nhắc. Tổ chức và lãnh đạo các tín đồ bình thường để họ trở thành các giáo viên và nhân sự trong Hội Thánh là điểu rất quan trọng. Sau cùng, công tác giáo dục của Hội Thánh phải có liên quan đến nhiệm vụ chung của Hội Thánh. Hoàn tất công tác giáo dục là góp phần khiến Hội Thánh tăng trưởng. Điều hiển nhiên là Cơ đốc giáo cùng với nền giáo dục của nó đã góp phần quan trọng vào nền văn minh của thế giới. Một học giả đã nhận định: “Khắp mọi nơi Cơ Đốc giáo đều đem đến cho người lao động chân giá trị của nó, đem sự thiêng liêng đến cho hôn nhân, và tình anh em đến cho con người. Ở nơi nào không thuyết phục được, nó khai sáng; ở đâu không làm cho thay đổi được, nó sẽ làm; nơi nào không làm đổi mới được, nó tinh luyện; ở đâu không làm cho nên thánh được, nó chinh phục và nâng cao phẩm giá. Cơ Đốc giáo là ích lợi cho đời nầy cũng như đời sau.” (12) Cơ Đốc giáo dục trong gia đình đặc biệt quan trọng. Một thống kê ở Mỹ cho thấy một đứa trẻ từ nhỏ cho đến hết bậc trung học thì chỉ 1% thời gian là ở nhà thờ, 16% là học đường và 83% là ở gia đình. Như thế, không còn nghi ngờ gì nữa, gia đình phải chịu trách nhiệm chính về việc giáo dục con em chứ không là nhà thờ hay nhà trường. (13) Điều đáng lưu ý là Luật pháp Môi-se rất chú trọng về giáo dục trong gia đình. Điều này cũng dễ hiểu vì nếu gia đình là nền tảng của xã hội thì gia đình cũng là đơn vị nền tảng của cộng đồng con dân Chúa. Chúng ta hãy đọc những lời trong Phục truyền 6:4-9, “Hỡi Y-sơ-ra-ên! Hãy nghe: Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta là Giê-hô-va có một không hai. Ngươi phải hết lòng, hết ý, hết sức kính mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi. Các lời mà ta truyền cho ngươi ngày nay sẽ ở tại trong lòng ngươi; khá ân cần dạy dỗ điều đó cho con cái ngươi, và phải nói đến, hoặc khi ngươi ngồi trong nhà, hoặc khi đi ngoài đường, hoặc lúc ngươi nằm, hay là khi chỗi dậy. Khá buộc nó trên tay mình như một dấu, và nó sẽ ở giữa hai con mắt ngươi như ấn chỉ; cũng phải viết các lời đó trên cột nhà, và trên cửa ngươi.” Người Do Thái gọi phân đoạn Kinh Thánh trên là Shê-ma. Shê-ma là bản tuyên xưng đức tin của người Do Thái và các con em của họ phải được dạy dỗ như vậy từ nhỏ. Phân đoạn Kinh Thánh này chỉ cho chúng ta phương pháp và nội dung của Cơ Đốc giáo dục trong gia đình. Động từ ‘dạy” [SHA-NAN] trong câu 7 là động từ rất khó dịch vì nó có ý rất sâu sắc. Bản NIV dịch là “impress” nghĩa là gây ấn tượng, khắc sâu trong tâm trí. Phan Khôi và những người cộng tác dịch trong trong Bản Kinh Thánh năm 1926 đã dựa vào bản Kinh Thánh Hoa ngữ là “ân cần giáo huấn” để dịch sang tiếng Việt “ân cần dạy dỗ” là rất đạt vì đã lột tả được ý nghĩa của động từ “sha-nan” trong nguyên tác. Dạy làm sao để gây ấn tượng sâu sắc, để khắc sâu trong tâm khảm người học là một việc không dễ dàng chút nào. Triết lý của Kinh Thánh trong việc giáo dục là dạy bằng gương mẫu, nghĩa là không phải chỉ dạy bằng lý thuyết, chữ nghĩa mà còn bằng gương mẫu qua hành động nữa. Đó là lối giáo dục lý tưởng nhất, hiệu quả nhất nhưng cũng nhiều thách thức nhất. Muốn được thế, Kinh Thánh bảo trong câu 6 rằng “Các lời mà ta đã truyền cho các ngươi phải ở tại trong lòng các ngươi.” Nghĩa là cha mẹ hay người dạy phải học hỏi và kinh nghiệm “ở trong lòng” trước rồi mới có thể “ân cần dạy dỗ điều đó cho con cái các ngươi” được. Nếu cha mẹ hay người dạy mà không thực hành để thấm nhuần lời Chúa “ở trong lòng” thì cũng khó mà dạy dỗ con cái thành công. Và để hỗ trợ cho việc giáo dục trong gia đình được hiệu quả, Kinh Thánh cũng dạy chúng ta phải tạo một môi trường giáo dục tốt để giúp con em khắc sâu kiến thức như phải nhắc đến trong sinh hoạt hằng ngày trong gia đình hay ngoài xã hội và phải tìm cách để ghi nhớ như trong câu 8-9 “Hãy buộc những lời ấy vào tay làm dấu, đeo lên trán làm hiệu, và viết các lời đó trên khung cửa nhà và trước cổng.” Thiết tưởng đó là lối giáo dục hiệu quả nhất mà chúng ta phải nhờ ơn Chúa áp dụng. Chính Chúa Jesus đã áp dụng phương pháp giáo dục này khi Ngài rửa chân cho các môn đồ được ghi lại trong Giăng 13. Có lẽ các môn đệ của Ngài sẽ không bao giờ quên bài học mà Chúa đã “ân cần dạy dỗ” một cách đầy ấn tượng này. Từ những phân tích trên đây chúng ta đi đến một vấn đề cụ thể: Cơ Đốc giáo dục trong gia đình phải là bài tập thực hành đầu tiên trước khi chúng ta nói đến những bài tập tiếp theo trong những môi trường khác.
Những lý do khiến chúng ta – những Cơ đốc nhân, những người được học tập và trang bị các kiến thức của chương trình Cao học Mục vụ và nghiên cứu sinh phải mở Trường dạy học:
Tới đây có một câu hỏi khác là: Nếu không có Trường thì điều gì xảy ra? Trường học trong câu hỏi này được hiểu là Trường học thực hiện sứ mạng Cơ đốc giáo dục. Người viết cho rằng những điều sau đây sẽ xảy ra nếu không có Trường:
Như vậy chúng ta không rơi vào cực đoan để phủ nhận những điều hay, điều tốt từ những nền văn hóa khác mà trong sự tể trị thần thượng của Đức Chúa Trời toàn năng Ngài cũng đã soi sáng trong lương tri của họ những giá trị của Ngài. Kết luận: Cơ đốc Giáo dục có một tầm quan trọng rất lớn để phát triển nền học thuật của Kinh Thánh, và những lời dạy của Chúa Jesus ra ngoài xã hội. Sứ mạng quan trọng của những người hầu việc Chúa và những người theo Chúa là đầu tư cuộc đời của mình cho sự nghiệp Cơ đốc Giáo dục. Không phải ngẫu nhiên mà chúng ta nhấn mạnh rằng Cơ đốc giáo dục chắc chắn sẽ thay đổi định mệnh hay số phận của con người, trong khi những nền giáo dục khác có những giới hạn nhất định của nó. Vì Cơ đốc giáo dục chính là Chúa Jesus dạy dỗ con người. Và bất kỳ một cá nhân nào không phân biệt đẳng cấp, màu da, chủng tộc khi đã tiếp nhận sự giáo huấn của Chúa Jesus mà không thay đổi từ tối tăm qua sáng láng mới là chuyện lạ. Rõ ràng là không một lãnh tụ trần gian nào có thể sánh ngang bằng với Chúa Jesus Christ và những sự dạy dỗ đầy quyền năng của Ngài. Chỉ có Cơ đốc giáo dục mới có thể cứu vãn tình trạng băng hoại của thế giới này trước ngày Chúa đến. Khi đã thấu hiểu rõ ràng điều này, thì đây là một cơ hội và thách thức cho tất cả những nhà lãnh đạo Cơ đốc trên toàn cầu. THƯ MỤC:
The End TƯỜNG VI |