Xây dựng và triển khai hiệu quả các tiêu chuẩn đạo đức được thực hiện như thế nào

Nội dung cụ thể các tiêu chuẩn về đạo đức lối sống bao gồm:

I. NGHĨA VỤ PHẢI THỰC HIỆN

1. Nghĩa vụ chung:

- Trung thành với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ sự an toàn, danh dự và lợi ích quốc gia;

- Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước; thi hành nhiệm vụ, công vụ theo đúng quy định của pháp luật;

- Tận tụy phục vụ nhân dân, tôn trọng nhân dân;

- Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tham gia sinh hoạt với cộng đồng dân cư nơi cư trú, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân;

- Có nếp sống lành mạnh, trung thực, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; không quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng;

- Có ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm trong công tác; thực hiện nghiêm chỉnh nội quy, quy chế làm việc của cơ quan, tổ chức; giữ gìn và bảo vệ của công, bảo vệ công tác, bí mật Nhà nước theo quy định của pháp luật;

- Thường xuyên học tập nâng cao trình độ; chủ động, sáng tạo, phối hợp trong công tác nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ, công vụ được giao;

- Chấp hành sự điều động, phân công công tác của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Tự giác cùng tập thể cơ quan thực hiện tốt quy chế dân chủ, quy chế chi tiêu nội bộ của cơ quan và xây dựng cơ quan theo nội dung tiêu chuẩn đơn vị văn hoá.

- Gương mẫu trong nói và làm nhằm thực hiện tốt cuộc vận động ’’Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh’’; nói đi đôi với làm trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm theo quy định của pháp luật. Tham gia tích cực công tác phòng, chống đấu tranh với các tệ nạn xã hội.

2. Nghĩa vụ cụ thể:

- Cán bộ, công chức chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của mình; cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo còn phải chịu trách nhiệm về việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức thuộc quyền theo quy định của pháp luật.

- Cán bộ, công chức phải chấp hành quyết định của cấp trên; khi có căn cứ để cho là quyết định đó trái pháp luật thì phải báo cáo ngay với người ra quyết định; trong trường hợp vẫn phải chấp hành quyết định thì phải báo cáo lên cấp trên trực tiếp của người ra quyết định và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành quyết định đó.

II. CÁC QUYỂN LỢI ĐƯỢC HƯỞNG

- Được nghỉ hàng năm, nghỉ các ngày lễ và nghỉ việc riêng theo quy định của Bộ Luật Lao động; Trong trường hợp có lý do chính đáng được nghỉ không hưởng lương sau khi được sự đồng ý của người đứng đầu cơ quan, tổ chức sử dụng cán bộ, công chức;

- Được hưởng các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hưu trí theo quy định của Bộ Luật Lao động và các chế độ, quyền lợi khác do pháp luật quy định; Được hưởng chế độ hưu trí, thôi việc theo quy định của Pháp lệnh cán bộ công chức; Cán bộ, công chức là nữ còn được hưởng các quyền lợi theo quy định của Bộ Luật Lao động;

- Cán bộ, công chức được hưởng tiền lương tương xứng với nhiệm vụ, công vụ được giao và được hưởng các chính sách khác theo quy định của pháp luật và được bảo đảm các điều kiện làm việc.

Cán bộ, công chức làm việc trong các ngành, nghề độc hại, nguy hiểm được hưởng phụ cấp và chính sách ưu đãi theo quy đmh của Chính phủ.

- Cán bộ, công chức có quyền tham gia hoạt động chính trị, xã hội theo quy định của pháp luật; được tạo điều kiện để học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý Nhà nước..., được quyền nghiên cứu khoa học, sáng tác; được khen thưởng khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, công vụ được giao.

- Cán bộ, công chức có quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về việc làm của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà mình cho là trái pháp luật đến các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

- Cán bộ, công chức khi thi hành nhiệm vụ, công vụ được pháp luật và nhân dân bảo vệ. Cán bộ, công chức hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ được xem xét để công nhận là liệt sĩ theo quy định của pháp luật.

III. NHỮNG VIỆC CÁN BỘ, CÔNG CHỨC KHÔNG ĐƯỢC LÀM

1. Cán bộ, công chức không được chây lười trong công tác, trốn tránh trách nhiệm hoặc thoái thác nhiệm vụ, công vụ; không được gây bè phái, mất đoàn kết, cục bộ hoặc tự ý bỏ việc.

2. Cán bộ, công chức không được cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong khi giải quyết công việc

3. Cán bộ, công chức không được thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý, điều hành các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư theo quy định của pháp luật.

Cán bộ, công chức không được làm tư vấn cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh, dịch vụ và các tổ chức, cá nhân khác ở trong nước và nước ngoài về các công việc có liên quan đến bí mật Nhà nước, bí mật công tác, những công việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình và các công việc khác mà việc tư vấn đó có khả năng gây phương hại đến lợi ích quốc gia. Cán bộ, công chức cần nghiêm túc chấp hành các yêu cầu này theo các quy định cụ thể của Chính phủ.

4. Cán bộ, công chức làm việc ở những ngành, nghề có liên quan đến bí mật Nhà nước, thì trong thời hạn ít nhất là năm năm kể từ khi có quyết định hưu trí, thôi việc, không được làm việc cho các tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài hoặc tổ chức liên doanh với nước ngoài trong phạm vi các công việc có liên quan đến ngành, nghề mà trước đây mình đã đảm nhiệm theo quy định cụ thể của Chính phủ.

5. Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con của những người đó không được góp vốn vào doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi ngành, nghề mà người đó trực tiếp thực hiện việc quản lý Nhà nước.

6. Người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức không được bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột của mình giữ chức vụ lãnh đạo về tổ chức nhân sự, kế toán - tài vụ; làm thủ quỹ, thủ kho trong cơ quan, tổ chức hoặc mua bán vật tư, hàng hoá, giao dịch, ký kết hợp đồng cho cơ quan, tổ chức đó.

7. Cán bộ, công chức không được vi phạm các quy định của pháp luật về thực hiện Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và Luật phòng, chống tham nhũng; không vi phạm các tệ nạn xã hội.

IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

l.  Mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan đều có trách nhiệm rèn luyện và phấn đấu theo các tiêu chuẩn về đạo đức theo quyết định này.

2. Căn cứ chương tự hành động của Đảng uỷ để có kế hoạch triển khai các bước và hướng dẫn cán bộ, công chức, viên chức thực hiện và định kỳ báo cáo kết quả thực hiện, sơ tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm theo quy định.

(Theo quyết định số 62B/QĐ-VPUBND ngày 10/5/2007 Văn phòng UBND tỉnh)

Xây dựng và triển khai hiệu quả các tiêu chuẩn đạo đức được thực hiện như thế nào

NHỮNG CHUẨN MỰC CỦA ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG

Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ được coi là những điều quy định làm căn cứ để đánh giá phẩm chất, nhân cách của người đảng viên, để xem người đó có xứng đáng là thành viên trong đội tiên phong lãnh đạo của giai cấp công nhân, xứng đáng đảm nhận trọng trách với sự nghiệp cách mạng mà Đảng và nhân dân giao phó.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những lãnh tụ cách mạng, những nhà tư tưởng quan tâm và bàn luận nhiều nhất vấn đề đạo đức, đặc biệt là đạo đức cách mạng. Trên cơ sở xem xét một cách toàn diện, các lĩnh vực hoạt động của đời sống, trong các mối quan hệ và bản chất của con người, Hồ Chí Minh đã nêu lên chuẩn mực, những giá trị chung nhất, cơ bản nhất mang tính phổ quát của nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng.

Người khái quát nội hàm đạo đức cách mạng là: “Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”(1); “Tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân”(2). Người nêu bật những phẩm chất của người cách mạng cần được bồi đắp là: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm và khẳng định: “Đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”(3). Như vậy, chuẩn mực đạo đức cách mạng theo Hồ Chí Minh không nằm ngoài những yêu cầu trong các chuẩn mực, hành vi đạo đức thông thường, mà là sự đòi hỏi cao hơn, trách nhiệm hơn đối với cái chung và trách nhiệm xã hội, trách nhiệm với sự nghiệp cách mạng.

Trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, người đảng viên chịu không ít những tác động tiêu cực, trong đó tác động trực tiếp và mạnh nhất đối với cán bộ, đảng viên chính là mặt trái của quyền lực, mặt trái của kinh tế thị trường, của hội nhập quốc tế.Cần đặc biệt lưu ý là mặt trái của quyền lực kết hợp với mặt trái của kinh tế thị trường, đã tạo thành một sự cộng hưởng gây nên những tiêu cực, suy thoái về đạo đức trong cán bộ, đảng viên hết sức nghiêm trọng. Tình hình đó đòi hỏi chuẩn mực đạo đức của người đảng viên cần có sự phát triển phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng. Văn kiện XIII của Đảng nêu yêu cầu phải “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần Đảng ta là đạo đức, là văn minh cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc”(4).

PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC TIÊU BIỂU CỦA MỖI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY

Để thực hiện có hiệu quả và thực chất chủ trương xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; một trong những vấn đề mang tính căn cốt là phải xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó nền tảng, tạo sức mạnh nội sinh để mỗi cán bộ, đảng viên đấu tranh chống ảnh hưởng tiêu cực, những thói hư tật xấu, xứng đáng là đạo đức, là văn minh, là người lãnh đạo trung thành và tận tụy của nhân dân. Có thể đề xuất một số phẩm chất đạo đức tiêu biểu của mỗi cán bộ, đảng viên hiện nay như sau:

Thứ nhất, bản lĩnh chính trị.

Đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay là thành viên của một đảng cầm quyền, đảng lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Sứ mệnh đó đòi hỏi Đảng và mỗi đảng viên phải rất vững vàng, độc lập, sáng tạo trong việc đề ra và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách cũng như xây dựng nội bộ Đảng đoàn kết, vững mạnh; không dao động trước khó khăn, thử thách.Bởi vậy, bản lĩnh chính trị là phẩm chất chính trị tuyệt đối cần thiết đối với Đảng Cộng sản cũng như đối với mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng.

Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên biểu hiện ở nhiều phương diện, trong đó nổi bật là sự kiên định mục tiêu, lý tưởng của cách mạng xã hội chủ nghĩa; sự trung thành với Tổ quốc, Đảng; sự vững vàng trước mọi tình huống, sự quyết tâm phấn đấu, vượt mọi khó khăn gian khổ để hoàn thành tốt nhiệm vụ, vì lợi ích của Đảng, của giai cấp, dân tộc và nhân dân. Hồ Chí Minh căn dặn mỗi đảng viên “phải giữ chủ nghĩa cho vững”(5), "Những người cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới"(6). Kiên định mục tiêu, lý tưởng, tức là vô luận lúc nào, vô luận việc gì, cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau, nếu khi "lợi ích chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên quyết hy sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng"(7). Người phê phán nghiêm khắc những kẻ lợi dụng địa vị để mưu cầu lợi ích cá nhân làm tổn hại đến lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lạo động. Suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân"(8) là phẩm chất cao quý của người cách mạng” - đó là “tính Đảng”, là nguyên tắc cao nhất của Đảng mà mỗi đảng viên phải tuyệt đối chấp hành. Đó cũng là điều kiện tiên quyết hình thành những tình cảm tốt đẹp, cao cả, nhiệt huyết cách mạng, tình cảm và ý chí cách mạng của người đảng viên không ngừng phấn đấu cho sự nghiệp chung, phấn đấu đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đóng góp trí tuệ, sức lực, tài năng cho việc xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Bên cạnh đó, Bộ Chính trị (khóa XIII) đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW, ngày 22/9/2021 về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung nhằm tạo cơ chế, góp phần xây dựng và tăng cường bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên.

Thứ hai, ham học hỏi, cầu tiến bộ.

Hồ Chí Minh đã từng lưu ý cán bộ, đảng viên: “Nếu không chịu khó học thì không tiến bộ được. Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào thải mình”(9). Công cuộc Đổi mới mà Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện là một cuộc vận động mang tính cách mạng toàn diện và sâu sắc, diễn ra trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là một quá trình khó khăn, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, chưa có mô hình định sẵn. Mặt khác, trong thời đại công nghệ và toàn cầu hóa hiện nay, thế giới đang có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, nhiều vấn đề phức tạp mới nảy sinh. Từ đó, đòi hỏi Đảng Cộng sản lãnh đạo sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa phải có tiềm lực tư tưởng, khoa học mạnh mẽ ở trình độ cao của trí tuệ xã hội và thời đại, trong đó đảng viên phải là người có học thức, có năng lực trí tuệ và sáng tạo, có tinh thần ham học hỏi, cầu tiến bộ.

Cầu tiến bộ, ham học hỏi là phẩm chất đạo đức cách mạng rất căn bản, bởi chỉ khi mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng học tập, nâng cao trình độ mọi mặt thì Đảng mới không bị lạc hậu, mới đủ sức mạnh trí tuệ để lãnh đạo dân tộc thực hiện mục tiêu, lý tưởng của mình. Phẩm chất này đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải nhanh chóng nắm bắt kiến thức khoa học hiện đại, trước hết là trong lĩnh vực hoạt động của mình, bắt kịp những thành tựu mới trong lĩnh vực chuyên môn mà mình đảm nhiệm. Phẩm chất này đòi hỏi mỗi người phải chống lại thái độ chây lười, ngại học tập, nâng cao trình độ, thoả mãn với vốn kiến thức đã có, coi thường khoa học, lý luận, đề cao kinh nghiệm, chống lại tình trạng cán bộ, công chức, đảng viên mà không thành thạo chuyên môn, chức trách, công việc được giao, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như sự tin tưởng của nhân dân với cán bộ, đảng viên. Xã hội càng hiện đại càng đòi hỏi trình độ kiến thức cao. Với sự nỗ lực học tập không ngừng, cán bộ, đảng viên mới có đủ khả năng lãnh đạo, quản lý xã hội phát triển.

Thứ ba, giữ vững kỷ luật Đảng và nghiêm chỉnh thực thi pháp luật của Nhà nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người. Đó là nhờ có kỷ luật”(10). Người yêu cầu “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(11). Là đảng viên cộng sản, thì khi nào và ở đâu cũng phải chịu sự phân công, quản lý của tổ chức Đảng, phải hành động theo phạm vi kỷ luật của tổ chức. Đảng viên chẳng những phải giữ gìn kỷ luật của Đảng mà còn phải giữ gìn kỷ luật của chính quyền, của cơ quan, đoàn thể cách mạng, của nhân dân, bởi “kỷ luật của chính quyền, của đoàn thể, nhân dân và Đảng cũng là một”(12). Đối với cán bộ, đảng viên càng có công thì càng phải khiêm tốn, đảng viên giữ vị trí càng cao, càng phải gương mẫu và nếu mắc sai phạm càng phải chịu kỷ luật nghiêm khắc. Trong bất kỳ trường hợp nào, mọi đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng và bình đẳng về mặt công dân trước pháp luật, không được “tự đặt mình cao hơn tổ chức, tự cho phép mình đứng ngoài kỷ luật”(13). Mọi đảng viên có quyền trình bày ý kiến riêng của mình. Song, khi đã có nghị quyết của tập thể thì phải làm theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức. Phục tùng kỷ luật, đó là “bổn phận”, là “nghĩa vụ” của đảng viên, ngược lại “không giữ vững kỷ luật của Đảng, không kiên quyết chấp hành chính sách và nghị quyết của Đảng, không thiết tha quan tâm đến lợi ích của Đảng - là trái với nghĩa vụ của đảng viên”(14).

Ý thức tổ chức kỷ luật của đảng viên phải được thể hiện cả trong suy nghĩ lẫn trong hành động, cả trong cách nói lẫn trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày và trong công việc. Đảng viên phải gương mẫu chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quyết định, sự phân công, điều động của tổ chức; kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện tiêu cực, thoái hóa, biến chất đặc biệt là bệnh tham ô, tham nhũng.

Hồ Chí Minh chỉ rõ bản chất của tham ô, tham nhũng là ăn cắp của công, là nhũng nhiễu, gian lận, đục khoét nhân dân, là tham lam, là trộm cướp. Trong công cuộc Đổi mới, từ Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta đã nhận thức một cách sâu sắc thực trạng và những tác hại sâu sắc của căn bệnh này: “Điều cần nhấn mạnh là: tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân (...). Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng”(15). Văn kiện Đại hội XIII thẳng thắn nêu lên khuyết điểm, hạn chế trong Đảng “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ còn phức tạp… Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là của người đứng đầu chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng”(16). Bởi vậy, bên cạnh việc nêu cao đạo đức cách mạng cho mỗi cán bộ, đảng viên thì việc tăng cườngcông tác kiểm tra, giám sát, xử lý kỷ luật của Đảng; xây dựng và thực thi hệ thống pháp luật nghiêm minh là biện pháp cực kỳ cần thiết nhằm làm trong sạch hóa đội ngũ cán bộ.

Tăng cường ý thức kỷ luật không có nghĩa là thủ tiêu sự sáng tạo cá nhân của các cán bộ, đảng viên, đặc biệt trong công cuộc đổi mới toàn diện hiện nay rất cần tư duy, nhận thức mới có tính đột phá, tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ, nhanh chóng đời sống kinh tế xã hội. Song điều đó không có nghĩa đảng viên có thể là vượt qua các nguyên tắc, vi phạm các quy chế của Đảng, đặt mình ra ngoài tổ chức, đứng trên tổ chức, vi phạm các nguyên tắc tổ chức. Ý thức tổ chức, kỷ luật, đoàn kết nội bộ là một phẩm chất tiên quyết của đạo đức cách mạng. Nó bảo đảm cho các phẩm chất khác có thể thực hiện được trọn vẹn, đầy đủ và hoàn chỉnh.

Thứ tư, trọng dân, yêu dân, tin dân, gần dân, học dân.

Đảng ta đã xác định chế độ chính trị của nước ta là chế độ làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sức mạnh vô địch của Đảng là ở mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Không phải ngẫu nhiên Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, trau dồi quan điểm và thái độ đúng đắn đối với quần chúng, coi việc tôn trọng, học hỏi, có quan hệ mật thiết với quần chúng là một vấn đề thuộc về phẩm chất, tư cách, đạo đức của đảng viên.

Đảng ta là đảng cầm quyền, vì vậy, nhiều cán bộ, đảng viên là những người lãnh đạo, quản lý. Cán bộ, đảng viên còn là cầu nối giữa Đảng với quần chúng, là người tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, của Nhà nước. Bởi vậy, có yêu dân, có tin dân, có trọng dân, đảng viên mới hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, mới tích cực lắng nghe ý kiến của nhân dân, mới có thể khơi dậy và phát huy sức mạnh trí lực, nhân lực và tài lực của nhân dân. Có gần dân, đảng viên mới hiểu đời sống xã hội thực tiễn phong phú, sinh động đang diễn ra; mới nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân để đề ra các chủ trương, biện pháp phù hợp cũng như làm cho dân hiểu, dân tin vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, có học hỏi dân, đảng viên mới mở mang, làm giàu thêm hiểu biết của mình bằng trí tuệ sáng tạo và kinh nghiệm phong phú của nhân dân.

Đương nhiên, trong quá trình phát huy dân chủ phải chống thái độ theo đuôi quần chúng. Đặc biệt với sự bùng nổ công nghệ thông tin, sự phổ biến rộng rãi của các mạng xã hội như hiện nay, một vấn đề đưa có rất nhiều quan điểm, nhiều luồng ý kiến trái chiều nhau. Điều đó đòi hỏi cán bộ, đảng viên với tư cách là người lãnh đạo quần chúng, cần phải có đủ tầm, đủ tâm, đủ bản lĩnh để biết lắng nghe, chắt lọc những gì là thích hợp và đúng đắn. Sâu xa hơn, mỗi cán bộ, đảng viên cần luôn phải tự ý thức một chân lý hiển nhiên: có nhân dân thì mới có cán bộ, đảng viên; nhân dân bầu ra cán, trả lương cho cán bộ; không "trọng" dân, tức là đã phản bội người đã bầu mình, nuôi mình. Không “gần dân, trọng dân”, đó không chỉ là sự vi phạm đạo đức đảng viên mà rộng hơn là sự tha hóa của đạo đức “làm người”.

Thứ năm, phòng chống chủ nghĩa cá nhân.

Ngay sau khi Đảng trở thành Ðảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy trước hoàn cảnh mới, người cán bộ, đảng viên rất dễ sa vào chủ nghĩa cá nhân. Người chỉ rõ: Chủ nghĩa cá nhân là trong bất cứ công việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết, muốn cho mọi người vì mình trước khi mình vì mọi người. Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, mệnh lệnh, v.v.... Từ đó, Người đặt ra nhiệm vụ “xoá sạch chủ nghĩa cá nhân”(17) là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, liên tục trong công tác xây dựng Đảng.

Trong điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng lãnh đạo duy nhất và nhất từ khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng có điều kiện phát triển. Mục tiêu làm giàu bằng mọi giá, coi trọng lợi ích vật chất đã và đang trở thành cái đích hướng tới của không ít người. Do vậy, đối với cán bộ, đảng viên, nhất là đối với một số người có chức, có quyền nếu thiếu tu dưỡng đạo đức cách mạng, họ rất dễ bị cám dỗ và sa ngã bởi lợi ích vật chất "che mắt", việc lợi dụng chức quyền, thu vén cá nhân, tham nhũng, làm giàu bất chính dẫn đến suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, biến chất về phẩm chất chính trị là hệ quả tất yếu. Chống chủ nghĩa cá nhân hiện nay, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên luôn có ý thức phục tùng kỷ luật tập thể, biết đặt “việc công, lợi ích công” lên trên hết và trước hết, kiên quyết loại bỏ ham muốn không chính đáng, làm phương hại đến lợi ích tập thể, lợi ích của Đảng, của nhân dân và dân tộc.

Nêu cao chủ nghĩa tập thể, chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là hy sinh lợi ích chính đáng của cá nhân, xóa bỏ cá tính cá nhân. Chủ nghĩa tập thể kết hợp hài hoà quyền lợi và nghĩa vụ, lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể theo nguyên tắc mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người. Giữ vững kỷ luật tập thể, tổ chức đồng thời tôn trọng sáng kiến cá nhân, phát triển cá tính, phát triển nhân cách và năng lực sáng tạo, đóng góp riêng của mỗi cá nhân. Làm được điều đó, mới có thể gắn bó, đoàn kết mọi người trong tổ chức và tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng.

Ở bất kỳ giai đoạn nào, sự hoàn thiện đạo đức trong Đảng với những tấm gương sáng về đạo đức của cán bộ, đảng viên luôn có ảnh hưởng sâu sắc và rộng lớn đến những giá trị đạo đức của toàn xã hội, của dân tộc. Từ khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa có một thực tế là, hệ thống thang giá trị chuẩn mực xã hội được hình thành trong đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã và đang biến đổi. Bởi vậy, để thực hiện nhiệm vụ cao cả, cần thiết nhưng hết sức khó khăn và phức tạp hiện nay là xây dựng Đảng về đạo đức, trước hết Đảng Cộng sản Việt Nam phải định hướng những chuẩn mực đạo đức mà mỗi cán bộ, đảng viên cần phải đạt được. Đạt được những chuẩn mực đó, sẽ làm trong sạch Đảng, giải quyết những bức xúc của nhân dân, củng cố lại niềm tin của dân với Đảng, nâng Đảng lên tầm cao mới, góp phần vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Nguồn Tạp chí Tuyên giáo

--

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.9, tr. 354.

(2) (11) (17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr.169, 611, 169

(3) (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 292, 291.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.184.

(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 280.

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 467.

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.611.

(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr. 333.

(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 17.

(12) (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 11, 284

(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr. 67

(15) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr. 15, 76

(16) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2021, tập II, tr. 222