Có thể nói sử dụng thuốc gây tê, mê là một tiến bộ vượt bậc của ngành y nhằm góp phần thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Tuy nhiên sử dụng thuốc loại này giống như việc sử dụng con dao hai lưỡi mà lưỡi nào cũng thật sắc. Thuốc đưa đến tác dụng gây tê, mê rất tốt nhưng đồng thời cũng có thể gây tai biến chết người. Không hiếm xảy ra trường hợp người bệnh chỉ mới được tiêm một liều thuốc gây tê nhỏ lại bị tử vong vì sốc thuốc. Gây tê cục bộ. Thuốc gây tê là thuốc có tác dụng ức chế dây thần kinh cảm giác để làm tạm thời mất cảm giác tại nơi thuốc tiếp xúc. Tức là thuốc chỉ gây tê, làm mất cảm giác đau đớn tại nơi có thuốc chứ không ảnh hưởng đến ý thức, hoạt động của cơ thể. Khi nhổ răng và được tiêm thuốc tê chẳng hạn, ta thấy vùng nướu được tiêm tê cứng và không còn cảm giác nữa nhưng ý thức vẫn hoàn toàn tỉnh táo, tay chân vẫn hoạt động bình thường. Thuốc gây tê được chia làm hai loại: gây tê bề mặt (tetracain, ethyl clorid) dùng để bôi, đặt trên da, niêm mạc, nhỏ mắt; gây tê tiêm (lidocain, bupivacain). Khi tiêm sẽ xuyên thấm qua da - niêm mạc (trong nhổ răng), gây tê ngoài màng cứng và gây tê tủy sống (hiện nay mổ lấy thai chỉ cần gây tê tủy sống). Một số thuốc gây tê thường sử dụng là lidocain, bupivacain, procain... trong đó lidocain được dùng rộng rãi nhất. Do thời gian tác dụng gây tê quá ngắn, thuốc thường được thêm chất co mạch adrenalin để kéo dài tác dụng cục bộ của thuốc. Bác sĩ điều trị cần thận trọng khi dùng adrenalin phối hợp với thuốc gây tê vì dùng quá mức có thể gây thiếu máu cục bộ. Tác dụng phụ của thuốc gây tê thường là hạ huyết áp, nhịp tim chậm. Tác dụng trên thần kinh như gây vật vã, suy hô hấp và co giật. Đặc biệt thuốc có thể gây dị ứng, trầm trọng nhất là gây sốc phản vệ. Bác sĩ phải đánh giá được liều dùng an toàn của thuốc gây tê thông qua xác định tuổi, cân nặng của bệnh nhân, đặc điểm lâm sàng, mức độ vùng mạch máu ở nơi thuốc tiếp xúc và thời gian dùng thuốc. Nếu dùng đường tiêm, phải cẩn thận theo dõi tác dụng độc của thuốc trong 30 phút đầu sau khi tiêm và cần có thuốc cấp cứu để xử lý khi bị tai biến. Thuốc gây mê Là thuốc có tác dụng ức chế hệ thần kinh trung ương để làm mất hoàn toàn ý thức, phản xạ và mọi cảm giác của toàn thân. Tức là khi được gây mê người bệnh sẽ bất động, ngủ say như chết, hoàn toàn không hay biết khi cuộc phẫu thuật có khi rất nghiêm trọng đang diễn ra. Thuốc gây mê được chia làm hai loại: Thuốc gây mê dạng hít: là các thuốc gây mê bay hơi ở thể khí được dùng qua đường hô hấp để duy trì mê sau khi khởi mê bằng thuốc gây mê tĩnh mạch. Có các thuốc: ether mê, halothan, dinitrogen oxid (N2O)... Để tránh giảm ôxy huyết phải dùng thuốc gây mê dạng hít phối hợp với một nồng độ ôxy thích hợp. Thuốc gây mê tĩnh mạch: là các thuốc dùng đường tiêm tĩnh mạch chủ yếu để khởi mê nhanh và sau đó được duy trì bằng thuốc mê dạng hít thích hợp hoặc được tiêm truyền gián đoạn hay liên tục. Người ta cũng dùng thuốc gây mê loại đơn thuần để gây ngủ nhẹ trong các phẫu thuật ngắn, đặc biệt được tiến hành với sự hỗ trợ của thuốc gây tê. Có các thuốc: thiopental, ketamin, etomidat... Hiện nay vẫn chưa có được một thuốc gây mê lý tưởng có đặc điểm: khởi phát tác dụng nhanh, êm dịu; khoảng cách an toàn (tức giữa liều điều trị và liều độc) rộng; không có tác dụng phụ ở liều điều trị. Tức là các thuốc gây mê được dùng hiện nay đều độc và có thể gây tác dụng phụ. Hầu hết có thể gây suy hô hấp, giảm huyết áp, suy chức năng tuần hoàn não. Một số thuốc có thể gây suy gan, suy thận. Hiện nay người ta không gây mê bằng một thuốc duy nhất mà được thay bằng “gây mê cân đối”, tức là dùng phối hợp nhiều thuốc có tác dụng khác nhau để tạo ra trạng thái mê cân đối. Như bên cạnh thuốc gây mê, người ta dùng thuốc tiền mê là thuốc an thần, thuốc chống co thắt, thuốc giãn cơ, thuốc giảm đau... Sử dụng thuốc gây mê luôn luôn có nguy cơ bị tai biến cho nên phải sẵn có và đầy đủ các phương tiện hồi sức cấp cứu đối phó với trường hợp bị tai biến do thuốc và cả các tai biến khác xảy ra trong cuộc phẫu thuật (nên lưu ý sốc có thể do thuốc gây tê, mê nhưng cũng có thể do phản xạ thần kinh khi tiến hành mổ xẻ ở các vùng nhạy cảm như hầu, họng, cổ, hậu môn... và phải có thuốc, phương tiện cấp cứu thích hợp). Đặc biệt sử dụng thuốc gây mê chỉ an toàn khi được tiến hành bởi bác sĩ được đào tạo một cách bài bản chuyên khoa gây mê hồi sức. PGS.TS Nguyễn Hữu Đức
Gần đây, ở nước ta nhiều ca tai biến nghiêm trọng xảy ra liên quan đến gây tê mà nguyên nhân vẫn bị ngộ nhận là sốc phản vệ. Thực tế sốc phản vệ do thuốc tê là rất hiếm gặp, nhất là các nhóm thuốc tê chính đang sử dụng hiện nay hầu hết thuốc nhóm Amino-Amid. Ngộ độc thuốc tê (NĐTT) mới là nguyên nhân chính gây ra những tai biến đó. NĐTT ảnh hưởng tới tính mạng, sự an toàn của người bệnh và gây lo ngại cho nhân viên y tế trong thực hành gây tê. Gây tê được tiến hành ở nhiều chuyên khoa với những vị trí khác nhau, nguy cơ NĐTT có thể xảy ra ở bất kỳ vị trí và loại thuốc tê nào. Nguy cơ NĐTT cao ở những bệnh già yếu, trẻ em, người có protein máu thấp, gây tê ở vị trí giàu mạch máu như: đầu mặt cổ, khoang miệng, mũi họng và tầng sinh môn…Dựa vào thực tiễn lâm sàng tại Khoa Gây mê Hồi sức, Bệnh viện TWQĐ 108 với hơn 10.000 ca gây tê mỗi năm; dựa trên Phác đồ Xử trí NĐTT của Hội Gây tê vùng và Giảm đau Hoa Kỳ 2018 và Hội Gây mê hồi sức Pháp 2016 chúng tôi cung cấp cho quý đồng nghiệp những dấu hiệu nhận biết và những kỹ năng cơ bản về xử trí nhằm giảm thiểu rủi ro và sẵn sàng cấp cứu khi có NĐTT. Không Lipid không tiêm thuốc tê BIỂU HIỆN LÂM SÀNG NGỘ ĐỘC THUỐC TÊ Trong và sau gây tê gặp những dấu hiệu sau đây cần nghĩ ngay đến NĐTT. Dấu hiệu tim mạch (đôi khi là biểu hiện duy nhất của NĐTT) - Rối loạn nhịp tim và hoặc rối loạn dẫn truyền trong tim. - Tụt huyết áp tiến triển. - Ngừng tim. BS. Nguyễn Văn Kiên, PGS.TS. Nguyễn Minh Lý, TS. Tống Xuân Hùng Chia sẻ
Gây tê ngoà i mà ng cứng đôi khi không đạt được hiệu quả như mong đợi. Tình trạng nà y có thể xảy ra khi:
TrÆ°Æ¡Ì€ng hÆ¡Ì£p gây tê ngoà i mà ng cứng không giảm Ä‘au Ä‘Æ°Æ¡Ì£c cho bệnh nhân, bác sÄ© gây mê có thể thay thế bằng caÌc phÆ°Æ¡ng pháp giảm Ä‘au khác hoặc thá»±c hiện lại thủ thuáºt nà y. Gây tê ngoà i mà ng cứng thÆ°á»ng an toà n; tuy nhiên, cÅ©ng nhÆ° hầu hết các thủ thuáºt y khoa, tác dụng phụ đôi khi có thể xảy ra. HẠHUYẾT ÃP Tác dụng phụ thÆ°á»ng gặp nhất của gây tê ngoà i mà ng cứng laÌ€ hạ huyết áp. Nguyên nhân laÌ€ do thuốc tê ảnh hưởng đến các dây thần kinh chi phối mạch máu, dẫn đến hạ huyết áp. Äiá»u nà y có thể gây buồn nôn, chóng mặt và choáng váng (bệnh nhân coÌ cảm giác nhÆ° sắp ngất xỉu, cảm thấy cÆ¡ thể nặng ná» trong khi đầu của miÌ€nh coÌ cảm giaÌc nhÆ° biÌ£ thiêÌu maÌu). Huyết áp của bệnh nhân sẽ được theo dõi chặt chẽ trong luÌc thá»±c hiện gây tê ngoà i mà ng cứng. Nếu cần thiết, thuốc có thể được truyá»n qua tĩnh maÌ£ch của bệnh nhân để ổn Ä‘iÌ£nh huyết áp . MẤT KIỂM SOÃT BÀNG QUANG Sau gây tê ngoà i mà ng cứng, bệnh nhân sẽ không có cảm giác khi bà ng quang căng đầy nÆ°á»›c tiểu vì thuôÌc tê đã taÌc động đến các dây thần kinh xung quanh. ÔÌng thông tiểu sẽ được đặt và o bà ng quang của bệnh nhân giúp dẫn lÆ°u nÆ°á»›c tiểu. Khả năng kiểm soát bà ng quang của bệnh nhân sẽ trở lại bình thÆ°á»ng ngay khi hêÌt thuôÌc tê. NGỨA DA Trong quá trình gây tê ngoà i mà ng cứng, thuốc giảm Ä‘au kết hợp vá»›i thuốc gây tê thỉnh thoảng có thể laÌ€m cho da của bệnh nhân biÌ£ ngứa. Tình trạng nà y coÌ thể được Ä‘iá»u trị dá»… dà ng. BUá»’N NÔN Bệnh nhân có thể cảm thấy buồn nôn (hoặc nôn ói) sau gây tê ngoà i mà ng cứng. Nếu huyết áp của bệnh nhân bình thÆ°á»ng, thuốc chống nôn sẽ giúp cải thiện tình trạng nà y. ÄAU LƯNG Má»™t nghiên cứu được thá»±c hiện vaÌ€o năm 2010 cho thấy không có sá»± gia tăng nguy cÆ¡ gây Ä‘au lÆ°ng kéo dà i khi áp dụng phÆ°Æ¡ng pháp gây tê ngoà i mạng cứng. Äá»™i ngÅ© nhân viên y tÃªÌ thá»±c hiện gây tê ngoà i mà ng cứng sẽ cố gắng chăm soÌc để đảm bảo bệnh nhân cảm thấy thoải mái trong và sau thủ thuáºt, nhÆ°ng nêÌu bệnh nhân phải nằm cùng má»™t tÆ° thế trong thá»i gian dà i có thể là m cho tình trạng Ä‘au lÆ°ng có sẵn trÆ°Æ¡Ìc Ä‘oÌ trở nên trầm trá»ng hÆ¡n. Sau thủ thuật, nêÌu bệnh nhân bị Ä‘au lÆ°ng dữ dá»™i, bệnh nhân nên thông báo ngay cho nhân viên y tế, giuÌp hoÌ£ sÆ¡Ìm tiến hà nh Ä‘aÌnh giaÌ tiÌ€nh traÌ£ng Ä‘au lÆ°ng của bệnh nhân. ÄAU ÄẦU Dá»® DỘI CÆ¡n Ä‘au đầu dữ dá»™i thỉnh thoảng coÌ thể xảy ra sau gây tê ngoà i mà ng cứng – được gá»i là đau đầu do thủng, rách mà ng cứng. Tình trạng nà y xảy ra khi lá»›p maÌ€ng tủy sống (mà ng cứng) của bệnh nhân vô tình bị thủng, rách. Tình trạng Ä‘au đầu thÆ°á»ng sẽ khá»i theo thá»i gian, má»™t thủ thuáºt gá»i là “dán máu†có thể được sá» dụng sẽ giúp bịt kÃn chá»— thủng. Thủ thuáºt Ä‘Æ°Æ¡Ì£c thÆ°Ì£c hiện bằng caÌch lấy má»™t lượng nhá» máu của bệnh nhân để bÆ¡m và o khoang ngoà i mà ng cứng. Khi máu đông lại (dà y lên), lá»— thủng, rách sẽ được bịt kÃn và cÆ¡n Ä‘au đầu của bệnh nhân sẽ không coÌ€n. Äau đầu do thủng, rách mà ng cứng sau gây tê ngoà i mà ng cứng thÆ°á»ng râÌt hiếm, khả năng xảy ra từ 1/100 đến 1/500 trÆ°Æ¡Ì€ng hÆ¡Ì£p. NHIỄM TRÙNG Nhiá»…m trùng có khả năng xảy ra tại vị trà tiêm trong má»™t và i tuần sau gây tê ngoà i mà ng cứng và có thể dẫn đến việc hình thà nh áp xe. Rất hiếm khi áp xe hình thà nh trong khoang ngoà i mà ng cứng. Tình trạng nà y có thể gây tổn thÆ°Æ¡ng thần kinh, bao gồm việc mất hoà n toà n khả năng váºn Ä‘á»™ng của ná»a dÆ°á»›i cÆ¡ thể (liệt chi dÆ°á»›i). TỤ MAÌU NGOÀI MÀNG CỨNG Khối máu tụ ngoà i mà ng cứng là má»™t biến chứng rất hiếm gặp sau gây tê ngoà i mà ng cứng. Tụ máu xảy ra là do sÆ°Ì£ tổn thÆ°Æ¡ng ở thà nh mạch máu. Nếu tÄ©nh mạch bên trong khoang ngoà i mà ng cứng bị đâm thủng, máu có thể tÃch tụ và hình thà nh khối máu tụ, gây chèn ép tủy sống của bệnh nhân. Tình trạng nà y có thể gây tổn thÆ°Æ¡ng thần kinh nhÆ° liệt chi dÆ°á»›i nhÆ°ng rất hiếm khi xảy ra. CÃC BIẾN CHỨNG KHÃC Các biến chứng khác có thể xảy ra sau gây tê ngoà i mà ng cứng dù hiếm gặp, bao gồm:
Tuy nhiên, các biến chứng nghiêm trá»ng sau gây tê ngoà i mà ng cứng laÌ€ râÌt hiếm. Ước tÃnh nguy cÆ¡ gây tổn thÆ°Æ¡ng vÄ©nh viá»…n từ phÆ°Æ¡ng pháp gây tê ngoà i mà ng cứng khi sinh con là từ 1/80,000 đến 1/320,000 trÆ°Æ¡Ì€ng hÆ¡Ì£p. TrÆ°á»›c khi quyết định thá»±c hiện gây tê ngoà i mà ng cứng, bệnh nhân nên thảo luáºn vá»›i bác sÄ© gây mê vá» thủ thuáºt. Bác sÄ© gây mê sẽ trao đổi thêm thông tin về các nguy cÆ¡ biến chứng nhÆ° mô tả ở trên. |