Tại sao ngay này động cơ 4 kỳ được sử dụng nhiều hơn động cơ 2 kỳ

So sánh động cơ hai kỳ với động cơ bốn kỳ:​

- Động cơ hai kỳ đơn giản hơn động cơ bốn kỳ: không có xupáp và các bộ phận khác của cơ cấu phối khí như trục cam, cò mổ…​

- Cũng do đó chạy êm hơn do không có cơ cấu đóng mở xupáp và các cơ cấu phục thuộc.​

- Độ rung động ít hơn, do hai vấn đề chính: thứ nhất, chu kỳ sinh công nhiều hơn; thứ hai, nhỏ gọn hơn nên về vấn đề thiết kế không bị vướng phải vấn đề phải tăng số vòng quay trục cơ để giảm kích thước động cơ, do đó số vòng quay của động cơ trung bình thấp hơn.​

- Cùng một công suất thì động cơ hai kỳ nhẹ hơn và ít bộ phận hơn.​

- Đơn giản hơn trong sửa chữa và hiệu chỉnh.​

- Động cơ 2 kỳ có hành trình máy ngắn hơn nên xe bốc hơn nhưng cũng chính vì vậy mà các linh kiện động cơ phải chịu nhiều lực hơn, khiến tuổi thọ không thể cao bằng xe 4 kỳ. Hơn nữa, lực hút nhiên liệu ở động cơ 2 kỳ phụ thuộc trực tiếp vào lực nén của pít-tông, nên với những xe đã bị dão thường là rất khó nổ, nhất là vào buổi sáng.​

Tuy nhiên độ bền của xe còn tùy thuộc vào người sử dụng. Ở xe 4 kỳ, chạy khoảng 1.500 km, nên thay nhớt và nên dùng nhớt có cấp chất lượng API SE hoặc SF, SG.​

       Về cấu tạo động cơ 4 kỳ phức tạp hơn nhiều động cơ 2 kỳ, động cơ 4 kỳ phải dùng cơ cấu xupap đóng mở để hòa khí và thoát khí cháy. Sự đóng mở của xupap liên quan đến nhiều bộ phận khác trong máy như sên cam, cam, cốt cam, cò mổ. Trong quá trình hoạt động, các cơ phận này va đập, mài mòn ở nhiệt độ cao. Do đó việc toả nhiệt phải được đặc biệt chú trọng.

      Ở động cơ 2 kỳ, việc hút và thoát khí cháy nhờ vào pít-tông và các lỗ hút, lỗ thoát nằm ngay tại xilanh máy. Cơ cấu động cơ đơn giản hơn. Việc sửa chữa xe 2 kỳ cũng đơn giản hơn. Tuy nhiên nếu cứ sử dụng lâu ngày, pít-tông, bạc bị lỏng, thì một phần hòa khí bị thất thoát qua khe hở giữa pít-tông và xilanh. Điều này làm xe bị hao xăng hơn so với động cơ 4 kỳ cùng tình trạng.

      Động cơ 2 kỳ có hành trình máy ngắn hơn nên xe bốc hơn nhưng cũng chính vì vậy mà các linh kiện động cơ phải chịu nhiều lực hơn, khiến tuổi thọ không thể cao bằng xe 4 kỳ. Hơn nữa, lực hút nhiên liệu ở động cơ 2 kỳ phụ thuộc trực tiếp vào lực nén của pít-tông, nên với những xe đã bị dão thường là rất khó nổ, nhất là vào buổi sáng.Tuy nhiên độ bền của xe còn tùy thuộc vào người sử dụng. 

       Với xe 2 kỳ, phải pha nhớt với xăng đúng liều lượng, khoảng 4-5% để việc bôi trơn dàn đầu của máy được tốt. Pha nhớt quá ít, việc tản nhiệt và bôi trơn máy kém. Pha nhiều quá, việc đốt cháy hỗn hợp khí không tốt, cũng làm ảnh hưởng đến hoạt động của máy. Một số loại xe 2 kỳ đời mới có chế độ tự pha dầu bằng bơm, tuy nhiên cần cảnh giác với loại bơm này vì bơm hỏng đồng nghĩa với việc phá tan luôn động cơ. Hơn nữa không nên ép ga, côn quá mạnh bởi điều này làm các linh kiện phải chịu lực quá lớn khiến chúng bị mòn nhanh. Khi đã không chuẩn, động cơ 2 kỳ dão rất nhanh.

Động cơ 4 kỳ chạy đầm hơn, bền hơn nhưng cũng cần để ý đến chế độ dầu bởi nếu độ nhớt kém sẽ làm linh kiện nhanh mòn và do cấu tạo phức tạp nên việc sửa chữa cũng rất khó khăn.

Tại sao ngay này động cơ 4 kỳ được sử dụng nhiều hơn động cơ 2 kỳ

1: Nếu các kích thước D, S, tốc độ quay và áp suất chỉ thị trung bình của 2 động cơ như nhau thì về mặt lý thuyết, Công suất của động cơ 2 kỳ có thể lớn gấp đôi động cơ 4 kỳ. Nhưng thực tế chỉ lớn hơn 1,6-1,8 lần công suất của động cơ 4 kỳ, vì một phần hành trình piston của động cơ 2 kỳ phải dùng để thực hiện quá trình thải và quét, hơn nữa góc mở sớm của xupap xả hoặc cửa xả của động cơ diesel 2 kỳ thường lớn hơn góc mở sớm xupap xả của động cơ 4 kỳ. Ngoài ra đối với các động cơ hai kỳ tăng áp cơ giới thì phải chi phí khoảng 6%- 12% công suất chỉ thị của động cơ để dẫn động bơm quét khí.

2: Quá trình quét khí thải và nạp khí mới của động cơ 4 kỳ tiến hành tương đối hoàn hảo hơn so với động cơ 2 kỳ vì các quá trình này ở động cơ 4 kỳ được tiến hành trong hai hành trình của piston.

3: Trường hợp quét khí bằng các cửa thì cấu tạo của động cơ 2 kỳ đơn giản hơn rất nhiều so với động cơ 4 kỳ vì không có xupap xả, xupap nạp vì không có cơ cấu dẫn động chúng. Tuy vậy để dẫn động chu trình động cơ 2 kỳ phải có bơm quét khí.

4: Ở động cơ 2 kỳ, momen quay đều hơn vì toàn bộ chu trình được thực hiện trong 2 hành trình của piston chứ không phải là trong 4 hành trình như động cơ 4 kỳ.

5: Động cơ 4 kỳ có khả năng điều chỉnh góc phối khí còn ở động cơ 2 kỳ quét vòng không có khả năng điều chỉnh góc phối khí, động cơ 2 kỳ quét thẳng chỉ có khả năng điều chỉnh góc phối khí của xupap xả.

6: Góc ứng với quá trình cháy và dãn nở của động cơ 4 kỳ lớn hơn của động cơ 2 kỳ ( ở động cơ 4 kỳ khoảng 140 độ, còn ở động cơ 2 kỳ là 100 độ- 120 độ).


1. Ưu điểm - Động cơ hai kỳ có số hành trình sinh công gấp hai lần (khi có cùng số vòng quay) và công suất lớn hơn khoảng 50 ÷ 70% ( khi cùng dung tích làm việc và số vòng quay) so với động cơ bốn kỳ. Động cơ hai kỳ chạy đều hay êm hơn động cơ bốn kỳ, vì mỗi vòng quay của trục khuỷu có một hành trình sinh công. Do đó, với các điều kiện như nhau ( hành trình pit tông, đường kính xi lanh, số xi lanh và tốc độ quay ). Vì vậy,  ở động cơ hai kỳ có thể dùng bánh đà lắp ở trục khuỷu có kích thước và trọng lượng nhỏ hơn so với động cơ bốn kỳ. Động cơ kỳ không có xu páp cấu tạo đơn giản, dễ sử dụng hơn động cơ bốn kỳ.

2. Nhược điểm

- Hiệu suất của động cơ hai kỳ nhỏ hơn động cơ bốn kỳ, do có sự tổn thất nhiên liệu trong quá trình thay khí. - Nhiệt độ của động cơ trong quá trình làm việc của động cơ hai kỳ cao hơn động cơ bốn kỳ, do số lần sinh công nhiều hơn, làm cho động cơ bị nóng, đặc biệt đối với động cơ diesel hai kỳ dễ bị bám muội than ở buồng cháy. - Trong động cơ xăng hai kỳ, nếu dùng các te chứa dầu bôI trơn đồng thời để thổi khí thì dễ làm hỏng dầu bôi trơn. Căn cứ vào những ưu nhược điểm trên, động cơ xăng hai kỳ thường được dùng ở động cơ có công suất nhỏ. Ví dụ như động cơ phụ để khởi động động cơ diesel có công suất lớn, một số môtô, xe máy.v.v…Còn động cơ diesel hai kỳ lại được dùng nhiều ở động cơ có công suất trung bình và công suất lớn. Ví dụ như động cơ tàu thuỷ.v.v.…

Khi quyết định chọn một chiếc xe máy lý tưởng để mua hoặc sử dụng, một trong những câu hỏi cần tự hỏi bản thân là: tôi muốn loại động cơ nào? Sự khác nhau giữa động cơ hai thì và động cơ bốn thì, loại nào tốt hơn?

Tại sao ngay này động cơ 4 kỳ được sử dụng nhiều hơn động cơ 2 kỳ

Để đơn giản hóa mọi thứ, điển hình là xe máy với động cơ hai thì không còn được sản xuất nữa, vì chúng không tuân thủ luật môi trường của nhiều quốc gia và không được phép lái trong các thành phố, và cuộc tranh luận giữa hai loại động cơ này được áp dụng nhiều hơn cho các loại xe địa hình, chẳng hạn như xe cào cào.
Một động cơ bốn kỳ, như tên gọi, có một pít-tông trải qua bốn kỳ (hoặc hai vòng quay trục khuỷu) để hoàn thành một chu kỳ đầy đủ; hành trình nạp, nén, công suất và xả. Điều này có nghĩa là khi piston chuyển động từ đỉnh xy lanh xuống đáy sẽ làm giảm áp suất bên trong xy lanh. Áp suất giảm này hút hỗn hợp nhiên liệu và không khí vào xi lanh thông qua cửa nạp. Tiếp theo, piston quay ngược lên, nén hỗn hợp nhiên liệu và không khí, sau đó một tia lửa sẽ đốt cháy nhiên liệu và không khí. Quá trình đốt cháy kết quả là những gì đẩy piston xuống trở lại trong cái được gọi là “hành trình công suất”. Cuối cùng, piston đi lên và đẩy các khí cháy ra ngoài.

Tại sao ngay này động cơ 4 kỳ được sử dụng nhiều hơn động cơ 2 kỳ

Động cơ hai kỳ hoạt động bằng cách kết hợp nhiều chức năng hơn vào một chuyển động piston. Trong quá trình chuyển động lên của pít-tông (nén hỗn hợp không khí / nhiên liệu / dầu) trong buồng đốt, bên dưới pít-tông một hỗn hợp không khí / nhiên liệu / dầu mới được hút vào trong cacte kín. Trong quá trình chuyển động đi xuống của pít-tông (hành trình công suất), hỗn hợp không khí / nhiên liệu / dầu trong lành được nén và chảy qua một hoặc nhiều cửa xả đến buồng đốt để đẩy các khí cháy ra ngoài thông qua chuyển động đi xuống của pít-tông mở ra, cổng ra. Sau đó, một hành trình nén mới tiếp theo.

Tại sao ngay này động cơ 4 kỳ được sử dụng nhiều hơn động cơ 2 kỳ

Về cơ bản, một chu trình hoàn chỉnh trong động cơ hai thì yêu cầu một vòng quay hoàn toàn của trục khuỷu hoặc hai vòng quay piston, trong khi ở động cơ bốn thì, piston phải hoàn thành bốn vòng quay hoặc hai vòng quay hoàn toàn của trục khuỷu.

Vậy cái nào tốt hơn? Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào sở thích của người cầm lái. Động cơ hai thì thường ồn hơn và tạo ra nhiều khói thải hơn, nhưng cũng tạo ra nhiều công suất hơn so với trọng lượng của chúng so với động cơ bốn thì, khiến chúng trở nên phổ biến cho các cuộc đua. Động cơ bốn thì, trong khi nặng hơn và tạo ra ít công suất hơn trên một đơn vị trọng lượng, thường được mô tả là chạy êm hơn, thải ra ít khói thải hơn và thường kéo dài hơn.

Bởi vì cả hai yêu cầu chế độ bôi trơn hoàn toàn khác nhau, trong đó trong động cơ hai kỳ, dầu được trộn với nhiên liệu và sau đó bốc cháy (mất hoàn toàn khả năng bôi trơn), trong khi ở động cơ bốn kỳ, dầu được sử dụng để bôi trơn các bộ phận động cơ khác nhau chảy trở lại cacte và không được tiêu thụ . Điều này có nghĩa là hai loại dầu động cơ có thành phần hoàn toàn khác nhau tùy thuộc vào mục đích sử dụng. Dầu động cơ hai thì phải có khả năng trộn đều với nhiên liệu và cháy tốt trong buồng đốt của động cơ, ngược lại dầu động cơ bốn thì cần bảo vệ bộ van chống mài mòn và giữ cho động cơ sạch nhất có thể. Cuối cùng, bất kể bạn sử dụng loại động cơ nào, dầu động cơ chất lượng cao có thể kéo dài đáng kể tuổi thọ của động cơ.