Ví dụ về hủy phán quyết trọng tài

Ví dụ về hủy phán quyết trọng tài

Hủy phán quyết trọng tài khi nào theo quy định pháp luật...căn cứ hủy phán quyết trọng tài...quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Kiến thức cho bạn

Hủy phán quyết trọng tài

Kiến thức của Luật sư

Căn cứ pháp lý

Nội dung tư vấn: Hủy phán quyết trọng tài

Phán quyết trọng tài vẫn có thể bị hủy nếu như thuộc một trong số các trường hợp bị hủy và có yêu cầu của người có quyền. Luật trọng tài thương mại 2010 quy định về căn cứ hủy phán quyết trọng tài và quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài cụ thể như sau:

1. Căn cứ hủy phán quyết trọng tài

Điều 68 luật trọng tài thương mại và điều 14 nghị quyết 01/2014/NQ- HĐTP quy định về căn cứ hủy phán quyết trọng tài:

  • Tòa án xem xét việc hủy phán quyết trọng tài khi có đơn yêu cầu của một bên.
  • Phán quyết trọng tài bị hủy nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu: “Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu” là thỏa thuận trọng tài thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 6 và Điều 18 Luật TTTM và hướng dẫn tại các điều 2, 3 và 4 Nghị quyết này

b) Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này:  “Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc trái với các quy định Luật TTTM” là trường hợp các bên có thỏa thuận về thành phần Hội đồng trọng tài, quy tắc tố tụng trọng tài nhưng Hội đồng trọng tài thực hiện không đúng thỏa thuận của các bên hoặc Hội đồng trọng tài thực hiện không đúng quy định Luật TTTM về nội dung này mà Tòa án xét thấy đó là những vi phạm nghiêm trọng và cần phải hủy nếu Hội đồng trọng tài không thể khắc phục được hoặc không khắc phục theo yêu cầu của Tòa án quy định tại khoản 7 Điều 71 Luật TTTM. 

Ví dụ 1: Trường hợp một bên không được thông báo về đơn khởi kiện quy định tại Điều 32 Luật TTTM kịp thời và hợp pháp theo quy tắc tố tụng trọng tài, Luật TTTM dẫn tới việc không đảm bảo được quyền được thành lập Hội đồng trọng tài là trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trọng tài quy định tại điểm b khoản 2 Điều 68 Luật TTTM. 

Ví dụ 2: Các bên thỏa thuận tranh chấp được giải quyết bởi Hội đồng trọng tài gồm ba trọng tài viên và áp dụng luật nội dung của Việt Nam để giải quyết vụ tranh chấp nhưng thực tế việc giải quyết tranh chấp được tiến hành bởi Hội đồng Trọng tài gồm một Trọng tài viên duy nhất, pháp luật áp dụng là pháp luật nội dung của Singapore mặc dù một bên có phản đối nhưng không được Hội đồng trọng tài chấp nhận thì đây là trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trọng tài quy định tại điểm b khoản 2 Điều 68 Luật TTTM.

c) Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị huỷ: “Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài” là trường hợp Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 Luật TTTM; hoặc Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp mà không được các bên thỏa thuận yêu cầu Trọng tài giải quyết hoặc giải quyết vượt quá phạm vi của thỏa thuận đưa ra Trọng tài giải quyết. 

Về nguyên tắc, Tòa án chỉ hủy phần quyết định có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài mà không hủy phán quyết trọng tài. Trường hợp có thể tách được phần quyết định của Hội đồng trọng tài về vấn đề đã được yêu cầu và phần quyết định về vấn đề không được yêu cầu giải quyết tại Trọng tài, thì phần quyết định về vấn đề được yêu cầu giải quyết không bị huỷ. 

Trường hợp không thể tách được phần quyết định của Hội đồng trọng tài về vấn đề đã được yêu cầu và phần quyết định về vấn đề không được yêu cầu giải quyết tại Trọng tài, thì Tòa án hủy phán quyết trọng tài đó. 

d) Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài: “Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài” 

Tòa án chỉ xem xét việc xác định chứng cứ giả mạo nếu có chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó và chứng cứ đó phải có liên quan đến việc ra phán quyết, có ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết. Tòa án phải căn cứ vào quy định Luật TTTM, quy tắc tố tụng trọng tài, thỏa thuận của các bên và quy tắc xem xét, đánh giá chứng cứ mà Hội đồng trọng tài áp dụng khi giải quyết vụ việc để xác định chứng cứ giả mạo.

đ) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam: “Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” là phán quyết vi phạm các nguyên tắc xử sự cơ bản có hiệu lực bao trùm đối với việc xây dựng và thực hiện pháp luật Việt Nam. 

Khi xem xét yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án phải xác định được phán quyết trọng tài có vi phạm một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật và nguyên tắc đó có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp của Trọng tài. 

Tòa án chỉ hủy phán quyết trọng tài sau khi đã chỉ ra được rằng phán quyết trọng tài có nội dung trái với một hoặc nhiều nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam mà Hội đồng trọng tài đã không thực hiện nguyên tắc này khi ban hành phán quyết trọng tài và phán quyết trọng tài xâm phạm nghiêm trọng lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của một hoặc các bên, người thứ ba. 

Ví dụ 1: Các bên đã tự nguyện thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp và thỏa thuận này không trái pháp luật, đạo đức xã hội nhưng Hội đồng trọng tài không ghi nhận sự thỏa thuận đó của các bên trong phán quyết trọng tài. Trong trường hợp này phán quyết trọng tài đã vi phạm nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết trong lĩnh vực thương mại quy định tại Điều 11 Luật Thương mại và Điều 4 của Bộ luật dân sự… Tòa án xem xét, quyết định việc hủy phán quyết trọng tài này vì trái nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam đã được Luật Thương mại và Bộ luật dân sự… quy định. 

Ví dụ 2: Một bên tranh chấp cung cấp chứng cứ chứng minh phán quyết trọng tài được lập có sự cưỡng ép, lừa dối, đe dọa hoặc hối lộ. Trong trường hợp này phán quyết trọng tài đã vi phạm nguyên tắc “trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư” quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật TTTM.

  • Khi Tòa án xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, nghĩa vụ chứng minh được xác định như sau:

a) Bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều này có nghĩa vụ chứng minh Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong các trường hợp đó;

b) Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài quy định tại điểm đ khoản 2 Điều này, Tòa án có trách nhiệm chủ động xác minh thu thập chứng cứ để quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài.

Ví dụ về hủy phán quyết trọng tài

Hủy phán quyết trọng tài

2. Quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Luật trọng tài thương mại 2010 quy định về quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài như sau:

  • Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài, nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 của Luật này, thì có quyền làm đơn gửi Toà án có thẩm quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài. Đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài phải kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là có căn cứ và hợp pháp.
  • Trường hợp gửi đơn quá hạn vì sự kiện bất khả kháng thì thời gian có sự kiện bất khả kháng không được tính vào thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.

Bài viết tham khảo

    Để được tư vấn chi tiết về Hủy phán quyết trọng tài khi nào theo quy định pháp luật, quý khách vui lòng liên hệ tới Tổng đài tư vấn pháp luật doanh nghiệp 19006500 để được tư vấn chi tiết hoặc gửi câu hỏi về Email:. Chúng tôi sẽ giải đáp toàn bộ câu hỏi của quý khách một cách tốt nhất.

     Luật Toàn Quốc xin chân thành ơn.

Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài: chuyện không phải cứ muốn thì làm

TS. Lê Thị Ánh Nguyệt (*)

(TBKTSG Online) – Để phòng ngừa khả năng trọng tài “tư nhân hóa” công bằng xã hội, một số điều ước quốc tế và pháp luật trọng tài của Việt Nam cho phép hủy phán quyết trọng tài khi phán quyết đó được ban hành bởi hội đồng trọng tài vi phạm thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần hết sức thận trọng vì tùy theo luật áp dụng, yêu cầu hủy phán quyết trọng tài có thể bị từ chối.

Ví dụ về hủy phán quyết trọng tài

Phán quyết trọng tài bị hủy trong trường hợp nào?

Với ý nghĩa là một phương thức giải quyết tranh chấp linh hoạt mà kết quả giải quyết tranh chấp có khả năng được công nhận, thi hành trên phạm vi quốc tế theo cơ chế đa phương, trọng tài thương mại và, hoặc trọng tài đầu tư càng ngày càng được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên, các bên tranh chấp không được quyền kháng cáo phán quyết trọng tài lên cơ quan trọng tài cấp cao hơn hay là tòa án (tính chung thẩm của phán quyết trọng tài).

Dẫu vậy, pháp luật trọng tài của các quốc gia và các điều ước quốc tế cho phép các bên tranh chấp yêu cầu hủy phán quyết trọng tài khi xuất hiện một số tiêu chí, trong đó có tiêu chí về vi phạm trình tự, thủ tục tố tụng (ví dụ Điều V.1.b của Công ước New York hay Điều 52.1.d của Công ước ICSID). Các quy định này lại ghi nhận mức độ vi phạm thủ tục tố tụng khác nhau. Cụ thể:

Trường hợp 1: theo Công ước New York. Nếu doanh nghiệp Việt Nam có nghĩa vụ phải thi hành một phán quyết của trọng tài nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam có quyền yêu cầu tòa án hủy phán quyết trọng tài này nếu phát hiện và chứng minh được rằng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp này đã vi phạm thủ tục tố tụng.

Mức độ vi phạm này là nhỏ hay lớn không quan trọng bởi vì theo Công ước New York – trong đó Việt Nam là thành viên từ năm 1995 – không hề phân định rõ ràng. Trên thực tế, qua hơn 60 năm thi hành, có vụ kiện trong đó bên có nghĩa vụ thi hành phán quyết yêu cầu tòa án quốc gia hủy phán quyết trọng tài để cố tình kéo dài việc thi hành và, hoặc từ chối công nhận và thi hành phán quyết trọng tài bởi vì vi phạm tố tụng rất nhỏ. 

Trường hợp 2: theo hiệp định EVIPA. Nếu doanh nghiệp Việt Nam hoặc chính phủ Việt Nam có nghĩa vụ phải thi hành một phán quyết của trọng tài đầu tư quốc tế (như hội đồng trọng tài của hiệp định EVIPA) và nếu phía Việt Nam phát hiện hội đồng trọng tài này vi phạm thủ tục tố tụng thì cũng chỉ có thể yêu cầu tòa án Việt Nam hủy phán quyết trọng tài do vi phạm thủ tục tố tụng trong vòng năm năm đầu tiên kể từ ngày hiệp định EVIPA có hiệu lực.

Lý do, bởi vì trong khoảng thời gian này phán quyết trọng tài sẽ bị hủy mà mức độ vi phạm tố tụng, không cần biết có nghiêm trọng hay không nghiêm trọng, theo Điều V.1(b) của Công ước New York.

Sau khi hết thời hạn năm năm kể từ ngày hiệp định EVIPA có hiệu lực thì doanh nghiệp Việt Nam sẽ chỉ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài nếu doanh nghiệp phát hiện vi phạm thủ tục tố tụng ở mức độ nghiêm trọng theo Công ước ICSID.

Lúc này, cơ quan đánh giá mức độ vi phạm là nghiêm trọng hay không nghiêm trọng không phải là tòa án Việt Nam hay bất kỳ tòa án của bất kỳ quốc gia nào khác mà phải là “thiết chế nội bộ của Công ước ICSID”, Ủy ban hủy phán quyết trọng tài. Hay nói cách khác, Công ước ICSID không cho phép bất kỳ tòa án quốc gia thực hiện bất kỳ vai trò gì trong toàn bộ quy trình hủy phán quyết trọng tài. 

Trong đó, trọng tài viên vi phạm thủ tục tố tụng nghiêm trọng nghĩa là trọng tài viên vi phạm các nghĩa vụ làm ảnh hưởng đến quyền được tham gia xét xử, quyền được tạo cơ hội để trình bày chứng cứ, xác minh chứng cứ và phản tố đối với vụ kiện của các bên tranh chấp. Trên thực tế, theo thống kê của Ban thư ký Công ước ICSID, tính đến năm 2016, tổng số đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là 87 vụ. 

Tuy nhiên, tính đến hiện nay, Ủy ban hủy phán quyết trọng tài chỉ mới hủy một phán quyết vì lý do vi phạm nghiêm trọng trình tự tố tụng. Ví dụ, vụ Fraport AG kiện Phillipines, ngày 23-12-2010, Ủy ban hủy phán quyết trọng tài đã quyết định hủy phán quyết trọng tài bởi vì hội đồng trọng tài đã không tạo cơ hội cho Fraport AG tham gia vào quy trình xác minh chứng cứ do Phillippines cung cấp.

Theo Ủy ban hủy phán quyết trọng tài, hội đồng trọng tài có thể sẽ đưa ra kết luận khác nếu như hội đồng trọng tài biết được tài liệu mà phía Phillipines đã tiếp cận là bất hợp pháp vào thời điểm sau khi hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp. Đây là điều mà Fraport không thể thực hiện được bởi vì Fraport không có cơ hội tiếp cận tài liệu và, do đó, không thể phản tố để bảo vệ mình. 

Trường hợp 3: theo pháp luật trọng tài Việt Nam. Nếu doanh nghiệp Việt Nam có nghĩa vụ phải thi hành phán quyết trọng tài thương mại, đầu tư nhưng sau đó phát hiện phán quyết bị vi phạm thủ tục tố tụng, doanh nghiệp Việt Nam có quyền yêu cầu tòa án Việt Nam hủy phán quyết trọng tài (Điều 68 khoản 2(b) Luật Trọng tài 2010). Tuy nhiên, quy định này của Việt Nam, giống với Công ước New York, không quy định cụ thể mức độ vi phạm là gì, nhẹ hay nghiêm trọng.

Trên thực tế, có những phán quyết bị tòa án Việt Nam hủy chỉ vì trong quá trình giải quyết tranh chấp, hội đồng trọng tài chỉ ghi “giấy mời”, chứ không phải là “giấy triệu tập”, gửi cho các bên tranh chấp. Tương tự, trong vụ kiện khác, tòa án đã hủy phán quyết trọng tài bởi vì hội đồng trọng tài tống đạt thư triệu tập tham gia giải quyết tranh chấp cho người “ngồi ở vị trí tiếp tân của doanh nghiệp” và không xác minh được người “ngồi ở vị trí tiếp tân của doanh nghiệp” có phải là người có thẩm quyền nhận văn thư hay không.

Việt Nam đã có giai đoạn bị chỉ trích là quốc gia không thân thiện với trọng tài bởi vì bản án hủy phán quyết trọng tài không bị kháng cáo và tỷ lệ phán quyết trọng tài bị hủy do một trong những lý do vi phạm thủ tục tố tụng khá cao so với các quốc gia khác trong khu vực. Thậm chí, có những vụ việc doanh nghiệp đã chọn cách gửi đơn cho tòa án yêu cầu hủy phán quyết trọng tài như là cách thức hoãn và kéo dài thời gian thi hành nghĩa vụ trong phán quyết trọng tài.

Do đó, tòa án nhân dân tối cao trong Nghị quyết 01/2014 đã hướng dẫn phán quyết trọng tài chỉ bị hủy khi trọng tài viên vi phạm thủ tục tố tụng ở mức độ nghiêm trọng và cần phải hủy nếu hội đồng trọng tài không thể khắc phục.

Trong đó, vi phạm nghiêm trọng có thể hiểu là một trong các bên không nhận được thông báo về đơn khởi kiện dẫn đến không đảm bảo quyền thành lập hội đồng trọng tài, hoặc số lượng thành phần trọng tài không theo sự thỏa thuận của các bên, hoặc pháp luật áp dụng giải quyết tranh chấp không do các bên thỏa thuận.

Làm sao khỏi “một lần mất tín, vạn lần mất tin”

Nói tóm lại, việc doanh nghiệp yêu cầu hủy phán quyết trọng tài do vi phạm thủ tục tố tụng là quyền hợp pháp của doanh nghiệp. Bởi thủ tục tố tụng là một trong những tiêu chuẩn tối thiểu để đảm bảo rằng doanh nghiệp được tạo cơ hội để tham gia giải quyết tranh chấp, xác minh bằng chứng, phản biện và bảo vệ chính mình trong các tranh chấp thương mại, đầu tư.

Tuy nhiên, quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài vì vi phạm thủ tục tố tụng đã, đang và sẽ thực hiện một cách khác nhau tùy thuộc vào luật áp dụng là luật gì, thời điểm đưa ra yêu cầu là thời điểm nào, cơ quan nhận được yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là cơ quan nào?.

Do đó, doanh nghiệp cần hết sức thận trọng vì phải “nhập gia tùy tục”. Việc nắm rõ các đặc điểm, ngữ cảnh và nghĩa vụ chứng minh đối với mức độ vi phạm khác nhau sẽ góp phần khẳng định sự chuyên nghiệp của doanh nghiệp Việt Nam.

Trong bất kỳ trường hợp nào, doanh nghiệp Việt Nam cần đề phòng trường hợp “một lần mất tín vạn lần mất tin” khi nộp đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài thương mại, đầu tư vì vi phạm thủ tục tố tụng, nhằm mục đích bảo vệ chính mình hoặc mục đích kéo dài thời gian thi hành án, nhưng bị cơ quan có thẩm quyền từ chối hủy được phán quyết trọng tài.

(*) Thành viên của Hội đồng Khoa học VIAC, Luật sư cấp cao Công ty luật Phuoc & Partners

Tài liệu tham khảo:

– https://core.ac.uk/download/pdf/159609087.pdf

Susan Choi, Note, Judicial Enforcement of Arbitration Awards Under the ICSID and New York, 1997

– https://icsid.worldbank.org

– https://www.lalive.law/wp-content/uploads/2019/10/ICSID_Annulment_Based_on_Departure_from_Rule_of_Procedure.pdf

– Fraport AG v Philippines, Quyết định hủy phán quyết trọng tài, đoạn 218 – 227

Mời xem thêm:

Nguy cơ phán quyết trọng tài thương mại bị hủy

Nhiều phán quyết trọng tài thương mại bị hủy